Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.37 KB, 25 trang )

Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh
I. Vốn kinh doanh
1. Khái niệm về vốn
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với sản
xuất hàng hoá và đóng vai trò quan trọng bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đợc tiến hành thuận lợi theo mục đích đã định.
Có rất nhiều quan niệm về vốn: Vốn theo khái niệm mở rộng không chỉ là
tiền tệ mà còn là nguồn lực nh lao động, đất đai, trí tuệ...
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì vốn là một trong các
yếu tố đầu vào để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này
vốn đợc xem xét dới góc độ hiện vật là chủ yếu, cha xem xét dới góc độ tài chính
phần cơ bản nhất của vốn. Tuy nhiên quan điểm này có rất nhiều u điểm: đơn
giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ quản lý thời sơ khai.
Theo quan điểm của một số nhà tài chính thì vốn lại là tổng số tiền của các
cổ đông đóng góp và họ đợc hởng phần thu nhập chia cho chứng khoán của công
ty. Theo quan điểm này vốn đợc xem xét dới góc độ tài chính là chủ yếu, đồng
thời làm rõ đợc nguồn gốc cơ bản vốn của doanh nghiệp. Quan điểm này có u
diểm là kích thích các nhà đầu t tăng cờng đầu t vốn cho doanh nghiệp để mở
rộng sản xuất. Tuy nhiên, quan điểm này không cho thấy trạng thái và quá trình sử
dụng vốn, do đó làm giảm vai trò và ý nghĩa của công tác quản lý vốn.
Theo một số nhà kinh tế học hiện đại,thì vốn đợc xem xét dới cả góc độ
vốn hiện vật và vốn tài chính. Theo quan điểm này, vốn là một loại hàng hoá nhng
đợc tiếp tục sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.ở đây chúng ta
đã thấy rõ nguồn hình thành và trạng thái biểu hiện của vốn, nhng những mục
đích sử dụng của vốn cha đợc thể hiện trong quan điểm này.
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng: Vốn bao gồm toàn bộ
yếu tố kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nh tài sản hữu hình, tài
sản vô hình, trình độ quản lý và tác nghiệp của đội ngũ cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh cũng nh uy tín của nó... Quan điểm này có
ý nghĩa rất quan trọng, nó cho phép các doanh nghiệp tận dụng và khai thác triệt


để hiệu quả của vốn trong cơ chế thị trờng. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo
quan điểm này rất khó khăn, đặc biệt lợng vốn thể hiện thông qua sự lợng hoá các
yếu tố trong doanh nghiệp và vấn đề vốn đợc xác định còn khó khăn hơn với nớc
ta khi trình độ quản lý cha cao và một hệ thống pháp luật cha hoàn chỉnh.
Theo quan điểm của Mác, vốn (t bản) là giá trị đem lại giá trị thặng d, là
một đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy định nghiã của Mác mang một tầm khái
quát lớn nhng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên ông
đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng d cho nền
kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nớc đợc Nhà
nớc bao cấp hoàn toàn về vốn thông qua cơ chế cấp vốn của ngân sách Nhà nớc và
hệ thống tín dụng ngân hàng. Với cơ chế này, các doanh nghiệp Nhà nớc chỉ có
chức năng sản xuất, mà không có chức năng kinh doanh, vì vậy mà phạm trù vốn
kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nớc không đợc đặt ra.
Trong cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc, ngoài chức năng sản
xuất ra sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội, doanh
nghiệp Nhà nớc còn có thêm chức năng kinh doanh với mục tiêu chủ yếu là lợi
nhuận. Phạm trù vốn kinh doanh ra đời trong bối cảnh này, bởi vì muốn tiến hành
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có vốn, trong đó, ngoài nguồn
vốn của Nhà nớc, còn có nguồn vốn do doanh nghiệp huy động để đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không ngừng
vận động và tồn tại ở nhiều hình thái vật chất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm
hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trên thị trờng. Chúng ta có thể khái quát vòng luân
chuyển của vốn qua sơ đồ sau: T H T (T > T). Qua sơ đồ này ta thấy từ
những đồng vốn ban đầu doanh nghiệp mua sắm các trang thiết bị, vật t, nhân
công... để phục vụ cho quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, vốn lại trở về hình thái
ban đầu là tiền (doanh thu bán hàng), kết thúc một vòng luân chuyển vốn và bắt
đầu vòng luân chuyển mới. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau khi tiêu thụ đợc
sản phẩm phải lớn hơn số tiền ban đầu doanh nghiệp bỏ ra, nh thế mới có thể bù

đắp đợc chi phí và đảm bảo có lãi. Nh vậy vốn sẽ đợc tái đầu t vào kinh doanh với
quy mô lớn hơn, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Từ những phân tích trên, ta có thể đa ra một khái niệm về vốn nh sau: Vốn
là một phạm trù kinh tế cơ bản. Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ tài sản đợc sử dụng đầu t vào hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích sinh lợi .
2. Một số đặc trng của vốn
Bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có vốn. Trong thời kỳ
bao cấp, phần lớn vốn kinh doanh của doanh nghiệp đợc Nhà nớc cấp phát hoặc
cho vay với lãi suất thấp. Các doanh nghiệp sản xuất theo chỉ tiêu của trên đa
xuống, không đợc tự chủ trong kinh doanh và ít phải chịu trách nhiệm trớc hiệu
quả kinh doanh nên ngời ta ít quan tâm đến tính hàng hoá cũng nh các đặc trng
của vốn. Nhng khi đất nớc bớc sang nền kinh tế thị trờng thì vốn là yếu tố số một
của mọi hoạt động kinh doanh, vốn đó không tự nhiên mà có. Do đó, các doanh
nghiệp phải biết cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả để không những bảo
toàn mà còn phát triển nguồn vốn của mình và tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp
phải nhận thức đầy đủ hơn những đặc trng của vốn.
Vốn luôn đại diện cho một lợng giá trị tài sản. Điều đó có nghĩa là vốn đợc
biểu hiện dới dạng các loại tài sản hữu hình cũng nh vô hình trong doanh nghiệp
nh nhà xởng, đất đai, máy móc thiết bị, vật t, thông tin, bằng sáng chế phát minh.
Nh vậy, một lợng tiền thoát li giá trị thc tế của hàng hoá những khoản nợ chồng
chất mà không có khả năng thanh toán thì không đúng với nghĩa của vốn.
Vốn luôn vận động và có khả năng sinh lời. Vốn đợc biểu hiện bằng tiền tệ
là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền đó phải vận động sinh lời.
Trong quá trình vân động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhng điểm
xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn là biểu hiên giá trị bằng tiền.
Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên lý
đầu t sử dụng và bảo toàn vốn. Vì vậy, một khi đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định
không đợc dùng đến, tài nguyên, sức lao động không đợc sử dụng, tiền vàng bỏ
vào ống cất trữ hoặc các khoản nợ khê đọng khó đòi... chỉ là những đồng vốn chết.

Mặt khác, tiền có vận động nhng lại bị phân tán, không quay về nơi xuất phát với
giá trị lớn hơn thì cũng không bảo đảm duy trì và phát triển đợc vốn, vòng quay
tiếp theo sẽ bị ảnh hởng.
Để tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng phải tích
luỹ đủ một lợng vốn nhất định hay vốn cần phải đạt tới một giá trị đủ lớn nào đó
mới có thể phát huy tác dụng. Do vậy, các doanh nghiệp không những phải khai
thác các nguồn lực về vốn nội tại trong doanh nghiệp mà còn phải tích cực thu hút
các nguồn vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức huy động nh vay vốn, góp
vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Khi nghiên cứu các đặc trng của vốn cần phải xem xét đến giá trị thời gian
của vốn. Vì giá trị của đồng vốn chịu ảnh hởng của nhiều yếu tố làm cho sức mua
hay giá trị của đồng tiền tại mỗi thời điểm là khác nhau. Trong thời kỳ bao cấp
Nhà nớc đã tạo ra một sự ổn định tiền tệ giả tạo nên vấn đề này không đợc chú ý,
song với cơ chế thị trờng hiện nay và sự biến động của giá cả, lạm phát... đã làm
cho giá trị đồng tiền thay đổi, do đó giá trị thời gian của vốn cần đợc nhận thức
đầy đủ hơn.
Vốn luôn gắn với chủ sở hữu. Hay nói cách khác hơn mỗi đồng vốn đều
phải có chủ sở hữu, không thể có đồng vốn vô chủ và ở đâu có đồng vốn vô chủ
(chủ sở hữu không đợc rõ ràng) thì ở đó có sự lãng phí không hiệu quả. Đồng vốn
chỉ đợc sử dụng hiệu quả khi nó đợc gắn với một loại hình chủ sở hữu thích hợp.
Đây là một vấn đề của đất nớc ta, chính do sự không rõ ràng trong quy định về sở
hữu mà các tài sản xã hội chủ nghĩa đang bị sử dụng một cách lãng phí và không
hiệu quả. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn vì
quyền sử dụng vốn có thể tách rời quyền sở hữu về vốn. Đây là nguyên tắc quan
trọng trong huy động và quản lý vốn.
Trong nền kinh tế thị trờng, vốn là một loại hàng hoá đặc biệt, có thị trờng
riêng cho loại hàng hoá này. Đó là nơi những ngời d thừa vốn có thể cho vay,
những ngời cần vốn có thể huy động vốn từ những ngời d thừa vốn và phải trả cho
họ một mức lãi (giá vốn) nhất định. ở đây có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng, do đó những ngời bán (ngời cho vay vốn) không bị mất quyền sở

hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc trao đổi này đ-
ợc diễn ra trên thị trờng tài chính và giá (lãi suất) của việc mua bán cũng tuân theo
quy luật cung cầu.
Từ những đặc trng cơ bản trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vốn
trong sản xuất kinh doanh .Nó có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp, vì chỉ
khi nào các doanh nghiệp hiểu rõ đợc tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn sử
dụng thì mới có thể sứ dụng nó một cách có hiệu quả .
3. Phân loại vốn kinh doanh
Tuỳ theo cách thức quản lý vốn và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi
doanh nghiệp có những tiêu thức cụ thể để phân loại vốn,sau đây là một số cách
phân loại vốn mà các doanh nghiệp thờng dùng:
3.1. Theo nguồn hình thành
Cách phân loại này căn cứ vào đối tợng tài trợ vốn kinh doanh cho doanh
nghiệp và theo cách phân loại này có thể chia vốn ra làm hai loại sau:
3.1.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Vốn chủ sở hữu là cơ sở để đánh giá tiềm lực tài chính của một doanh
nghiệp, vì đây là cài mà doanh nghiệp thực sự có. Các nhà đầu t nh ngân hàng,
những ngời mua trái phiếu của công ty coi đây là khoản đặt cọc cho lợng vốn họ
cho doanh nghiệp vay và thực sự khi kinh doanh thua lỗ thì doanh nghiệp phải sử
dụng vốn chủ sở hữu để trang trải mọi khoản nợ nần. Do doanh nghiệp không phải
hoàn trả nguồn vốn này trong suốt thời gian hoạt động, nên nguồn vốn chủ sở hữu
là nguồn vốn thờng đợc sử dụng để tài trợ cho các dự án dài hạn nh mua sắm mới
các tài sản cố định, đầu t vào xây dựng nhà xởng, đầu t nghiên cứu phát triển sản
xuất... vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ:
Vốn có nguồn gốc từ ngân sách: Nguồn vốn này chỉ áp dụng đối với các
doanh nghiệp Nhà nớc. Nguồn này có thể do Nhà nớc trực tiếp cung cấp
hay do các khoản chi phí lẽ ra phải nộp cho Nhà nớc nhng đợc giữ lại để
doanh nghiệp đầu t mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này không
lớn và chỉ u tiên cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt
hàng đợc Nhà nớc quan tâm.

Nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp: Là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ
sung mà chủ yếu là từ các nguồn nh quỹ khấu hao các loại tài sản của
doanh nghiệp, quỹ phát triển kinh doanh do phần lợi nhuận hàng năm giữ
lại, nguồn tài chính do điều chỉnh cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp,
nguồn chênh lệch đánh giá đợc để lại ( nếu có). Đối với doanh nghiệp
nguồn vốn này có ý nghĩa rất lớn vì chỉ khi doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả mới có nguồn vốn này. Nó sẽ góp phần nâng cao vị trí tài chính
của doanh nghiệp, thể hiện nội lực giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu t để mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn liên doanh liên kết: Trên cơ sở nhận thấy đợc lợi nhuận của cơ
hội kinh doanh và sự tin tởng lẫn nhau, các doanh nghiệp có thể hợp tác đầu
t trên cơ sở hợp đồng liên doanh liên kết. Sự liên doanh liên kết này có thể
giữa các doanh nghiệp trong nớc với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp
trong nớc với doanh nghiệp nớc ngoài. Tuy nhiên, do nguồn vốn dựa trên cơ
sở cùng đóng góp nên lợi nhuận phải đợc phân chia giữa các bên tham gia
liên doanh liên kết, do đó cần phải có sự quản lý vốn thận trọng và hiệu
quả, đặc biệt là khi liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nớc ngoài.
Ngoài ra các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành
cổ phiếu, trái phiếu hoặc tín dụng thuê mua.
3.1.2. Nguồn vốn đi vay
Nhìn chung nguồn vốn bên trong ( vốn chủ sở hữu) của phần lớn các doanh
nghiệp hiện nay còn nhỏ bé. Để đáp ứng nhu cầu về vốn các doanh nghiệp phải
tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Nguồn vốn đi vay đợc huy động thông qua hệ
thông ngân hàng, các tổ chức tín dụng hay trực tiếp từ các chủ thể cho vay khác.
Hình thức vay cũng rất đa dạng, có thể là vay ngắn hạn để bổ sung cho phần vốn
lu động thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, hay là vay trung và
dài hạn nhằm tăng cờng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, nâng cao năng
lực sản xuất hiện có. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trờng hiện nay, nguồn vốn này
rất phổ biến và tơng đối lớn, điểm nổi bật của nguồn vốn này là rất linh động, nó
đảm bao khả năng thanh toán nhanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để huy động đ-

ợc nguồn vốn này, doanh nghiệp cần phải dựa trên cơ sở sản xuất kinh doanh có
lãi và uy tín trên thơng trờng. Doanh nghiệp phải tận dụng nguồn vốn này hiệu
quả nhất và thờng xuyên nhất.
3.2. Theo vai trò và đặc điểm chu chuyển của vốn
Lúc này vốn đợc xem xét dới trạng thái động nên ngời ta chia vốn ra làm
hai loại: vốn cố định và vốn lu động.
3.2.1. Vốn cố định
Trong nền sản xuất hàng hoá, để mua sắm, xây dựng tài sản cố định trớc
hết phải có một số vốn ứng trớc. Vốn tiền tệ ứng trớc để mua sắm xây dựng tài
sản cố định hữu hình hoặc những chi phí đầu t cho những tài sản cố định vô hình
đợc gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định là khoản vốn đầu t ứng trớc về tài sản cố định, quy mô của vốn
cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc điểm vận động của tài
sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Các đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh nh sau:
Vốn cố định đợc tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, có đặc điểm này là do
tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế vốn cố
định hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng đợc tham gia vào các chu
kỳ sản xuất tơng ứng.
Vốn cố định đợc dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản xuất sản phẩm.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất giá trị của tài sản giảm dần. Theo đó
vốn cố định cũng đợc tách thành hai phần: Một phần sẽ gia nhập vào chi
phí sản xuất sản phẩm ( dới hình thức chi phí khấu hao) tơng ứng với mức
giảm dần giá trị sử dụng tài sản cố định. Phần còn lại của vốn cố định cố
định trong tài sản.
Trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu nh phần vốn dịch chuyển đợc
dần dần tăng lên thì phần vốn cố định lại dần dần giảm đi tơng ứng với
mức suy giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên
ngợc chiều đó cũng chính là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn
cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển.

Vậy: Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu t ứng trớc về tài sản cố
định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ
sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử
dụng.
Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn
kinh doanh. Quy mô của vốn cố định cũng nh trình độ quản lý và sử dụng nó, là
nhân tố có ảnh hởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật. Vì vậy,việc quản lý
sử dụng vốn cố định đợc coi là một vấn đề quan trọng của công tác quản trị tài
chính doanh nghiệp.
Muốn quản lý sử dụng vốn cố định một cách có hiệu quả thì phải sử dụng
tài sản cố định sao cho hữu hiệu. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những
t liệu chủ yếu, mà đặc diểm của nó là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong
quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử
dụng đầu tiên mà nó đợc dịch chuyển dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm
của các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Việc quản lý vốn cố định và tài sản cố định trên
thực tế là một công việc phức tạp. Để giảm nhẹ khối lợng quản lý, về tài chính kế
toán ngời ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn giá trị và thời
gian sử dụng của một tài sản cố định. Thông thờng một t liệu lao động phải đồng
thời thoả mãn hai tiêu chuẩn dới đây thì mới đợc coi là tài sản cố định.
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên
- Có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên
Tuy nhiên, có một số t liệu lao động riêng biệt có thể không đủ những tiêu
chuẩn về giá trị thời gian sử dụng, nhng chúng đợc tập hợp theo từng tổ hợp sử
dụng đồng bộ thì tổ hợp này cũng đợc coi là tài sản cố định. Ngày nay do sự phát
triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ, cũng nh sự gia tăng về nhịp độ tiến độ
khoa học kỹ thuật, mặt khác, do tính đặc thù về đầu t, nên đã làm xuất hiện
một số khoản chi phí đầu t mà tính chất luân chuyển của nó tơng tự nh những đặc
điểm luân chuyển của vốn cố định. Vì vậy, khái niệm về tài sản cố định đợc mở
rộng hơn: Ngoài tài sản cố định hữu hình còn có tài sản cố định vô hình.
Để quản lý, sử dụng vốn cố định có hiệu quả, cần phải nghiên cứu các ph-

ơng pháp phân loại và kết cấu của tài sản cố định, các cách phân loại và kết cấu
của tài sản cố định đợc khái quát ở sơ đồ sau :
Sơ đồ 1: Các cách phân loại và kết cấu vốn cố định :
TSCĐ chờ thanh lý
TSCĐ không cần dùng
TSCĐ cha cần dùng
TSCĐ hữu hình.
VD: máy móc, thiết bị
TSCĐ vô hình VD:
Bằng
phát minh...
TSCĐ đầu t bằng vốn vay thuê ngoài
TSCĐ đang dùng
TSCĐ dùng ngoài SXKD cơ bản
TSCĐ dùng cho SXKD cơ bản
TSCĐ tự có
VD:
DNNNlà vốn ngân sách
Toàn bộ TSCĐ của DN
Các căn cứ phân loại
Theo tình
hình sử dụng
Theo công
dụng kinh tế
Theo nguồn
hình thành
Theo hình
thái
Trên đây là những phơng pháp phân loại tài sản cố định chủ yếu trong
các doanh nghiệp. Nhờ cách phân loại tài sản cố định mà ngời quản lý có nhãn

quan tổng thể về cơ cấu đầu t của doanh nghiệp, từ đó đa ra các biện pháp quản
lý sử dụng tài sản hợp lý, tính toán khấu hao chính xác.
3.2.2. Vốn lu động
Vốn lu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trớc về tài sản lu động và
tài sản lu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
thực hiện đợc thờng xuyên, liên tục.
Vốn lu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên
tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lu động là
điều kiện vật chất không thể thiếu đợc của quá trình tái sản xuất. Nếu doanh
nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn và do đó quá
trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn.
Vốn lu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của
vật t, cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu
thụ của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là phản ánh sự
vận động của vật t, nhìn chung vốn lu động nhiều hay ít là phản ánh số lợng vật t
hàng hoá dự trữ ở các khâu nhiều hay ít. Nhng mặt khác, vốn lu động luân chuyển
nhanh hay chậm còn phản ánh số lợng vật t sử dụng tiết kiệm hay không, thời
gian nằm ở khâu sản xuất và lu thông sản phẩm có hợp lý hay không hợp lý. Bởi
vậy, thông qua tình hình vốn lu động còn có thể đánh giá một cách kịp thời đối
với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp.
Để quản lý và sử dụng vốn lu động có hiệu quả phải tiến hành phân loại
vốn lu động.
Vốn lu động của doanh nghiệp
Các căn cứ phân loại
Căn cứ vào quá trình tuần hoàn của vốn
Căn cứ vào các nguồn hình thành
Căn cứ vào hình thái biểu hiện

×