Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo luật thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.61 KB, 55 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐIỀU KIỆN HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Chí Thắng
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1411271283

: Phan Hồng Hải
Lớp: 14DLK15

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài khóa luận này, lời đầu tiên, em xin gửi đến các Quý thầy,
cô đã và đang công tác, giảng dạy tại khoa Luật, trường Đại học Cơng nghệ thành
phố Hồ Chí Minh lịng biết ơn sâu sắc về những kiến thức và kỹ năng mà thầy cô đã
truyền đạt cho em trong suốt quãng thời gian học tập và rèn luyện tại trường.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy Nguyễn Chí
Thắng, người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn, đã gợi ý và hướng
dẫn em phân tích, khai thác tài liệu để đưa ra những lập luận phù hợp, giúp em có thể
hồn thành đề tài một cách tốt nhất.


Vì kiến thức bản thân cịn hạn chế, trong q trình nghiên cứu, hồn thiện đề
tài này em khơng tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được những ý kiến đóng
góp từ Quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: PHAN HỒNG HẢI, MSSV: 1411271283
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn thực tế tại Đơn vị thực tập, trên các sách báo khoa học
chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong báo cáo này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ quá
trình nghiên cứu. KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà Trường
và Pháp luật.


DANH MỤC VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ ký hiệu

Tiếng Anh

Tiếng Việt

BLDS 2015

Bộ Luật Dân sự 2015

LTM 2005


Luật Thương mại 2005

HĐMBHH

Hợp đồng mua bán
hàng hóa

CISG

Convention on
Contracts for the
International Sale of
Goods

Cơng ước Viên năm 1980
của Liên Hợp quốc về
hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế

PECL

Principles of European
Contract Law

Bộ nguyên tắc về
Luật hợp đồng châu Âu

PICC


Principles of
International
Commercial Contracts

Nguyên tắc Hợp đồng
Thương mại Quốc tế


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
5. Bố cục của đề tài .....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG ................4
1.1 Khái niệm và đặc điểm của biện pháp hủy bỏ hợp đồng ...................................4
1.2 Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng theo LTM 2005 ...........................7
1.2.1 Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng ...............................................................................................................8
1.2.2 Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng .............................................10
1.3 Hệ quả pháp lý hủy bỏ hợp đồng theo Luật Thương mại 2005 .......................15
1.4 Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng theo Pháp luật Quốc tế ..............18
1.4.1 Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế..........18
1.4.2 Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Nguyên tắc về luật
hợp đồng Châu Âu (PECL) ................................................................................25
1.4.3 Pháp luật Hoa Kỳ ......................................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 ......................................................................31
2.1 Thực tiễn áp dụng và những bất cập của quy định về biện pháp hủy bỏ hợp đồng

theo LTM 2005 ......................................................................................................31
2.2 Đề xuất giải pháp góp phần hồn thiện quy định pháp luật thương mại Việt
Nam về điều kiện áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng ........................................37
KẾT LUẬN ..............................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................48


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ khi Việt Nam tham gia APEC năm 1998, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
– Thái Bình Dương đã trở thành một động lực quan trọng hỗ trợ cho tiến trình cải
cách, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, và đưa hội nhập kinh tế của
Việt Nam lên tầm toàn cầu với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
vào đầu năm 2007. Mười năm sau, sự kiện APEC 2017 được Việt Nam tổ chức thành
cơng như một lời khẳng định về vai trị, vị thế mới của nước ta trong cộng đồng quốc
tế. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà ở đó những thay
đổi, tiến bộ ảnh hưởng sâu rộng từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội và mới đây
nhất là việc Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP)
được ký kết mà Việt Nam là một trong những nước thành viên, đó là những cơ hội
khơng thể tuyệt vời hơn để nước ta thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng, mở
cửa thị trường, các hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu, sở hữu trí tuệ, kỹ thuật
thương mại, tạo dựng môi trường đầu tư - kinh doanh thơng thống và lành mạnh.
Xun suốt trong q trình đó, việc Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới
đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, từ đó
đạt được nhiều kết quả khá tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực. Trước những cơ hội
đồng thời là thách thức lớn lao đó, thương mại chiếm một vị trí và vai trị vơ cùng
quan trọng. Nhận thức được điều này, Pháp luật Việt Nam luôn dành cho thương mại
một sự quan tâm rất lớn, thể hiện bằng việc chú trọng quy định hệ thống các điều luật

cụ thể nhằm xây dựng một hành lang pháp lý vững chắc, là tiền đề để các thương
nhân Việt Nam cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể yên tâm và
thuận lợi xây dựng các mối quan hệ thương mại lâu dài và bền vững. Cũng chính vì
thế, Hợp đồng thương mại trở thành một chiếc chìa khóa giúp các thương nhân mở
ra các mối quan hệ hợp tác nhằm mục đích lợi nhuận, bảo vệ hiệu quả nhất quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của họ cũng như mối quan hệ đôi bên cùng có lợi trong mơi
trường kinh doanh.
Hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay nhằm đáp ứng
các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp đồng. Khi một hợp đồng
được xác lập và có hiệu lực Pháp luật thì quyền và nghĩa vụ của các bên thỏa thuận
trong hợp đồng được Pháp luật và Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Chính vì lẽ đó mà
các chế định về hợp đồng và các vấn đề liên quan đến hợp đồng được quy định cụ thể
trong LTM 2005 và chiếm một vị trí nịng cốt trong phần lớn các điều khoản của
BLDS 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm… pháp luật thương mại Việt Nam đặt ra các
biện pháp chế tài để xử lý vi phạm hợp đồng nhằm góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương


2

Pháp luật, có như thế quan hệ hợp đồng mới có thể tồn tại được. Một trong số các chế
tài nên được các bên tham gia kí kết hợp đồng nghiên cứu kỹ và cần thiết đưa vào
hợp đồng để tránh xung đột dẫn đến tranh chấp là chế tài hủy bỏ hợp đồng. Đây được
được xem là chế tài nghiêm khắc nhất về mặt hậu quả pháp lý.
Với mục đích tìm hiểu những quy định của Pháp luật và thực trạng về điều kiện
để các bên áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại, người viết thực hiện đề tài
“Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo Luật Thương mại 2005”, với mong muốn chế
tài hủy bỏ hợp đồng có thể phát huy được hết vai trị của mình trong việc bảo đảm
thực hiện hợp đồng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu

Với mục đích làm rõ cơ sở pháp lý và thực trạng áp dụng các quy định hiện hành
về điều kiện hủy bỏ hợp đồng thương mại của LTM 2005, so sánh với các hệ thống
Pháp luật phát triển trên thế giới, để từ đó đề xuất những giải pháp hồn thiện các quy
định cho phù hợp với thực tiễn và có sự thống nhất với Pháp luật quốc tế, tạo cơ sở
pháp lý thuận lợi dễ dàng cho các cá nhân cũng như doanh nghiệp Việt Nam giao kết
và thực hiện hợp đồng, các cơ quan giải quyết tranh chấp về Hợp đồng thương mại
khi phải áp dụng quy định.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của đề tài là giới thiệu một cách khái quát
những kiến thức lý luận cơ bản về chế tài hủy bỏ hợp đồng và điều kiện để áp dụng
chế tài này theo luật định. Làm rõ cơ sở pháp lý về điều kiện hủy bỏ hợp đồng thương
mại theo LTM 2005 và các luật khác, so sánh với các hệ thống Pháp luật khác và các
hiệp ước quốc tế. Phân tích, làm rõ quy định về vi phạm cơ bản theo pháp luật thương
mại Việt Nam quy định so với Cơng ước Viên từ đó phân tích, đánh giá thực trạng
áp dụng hiện nay.
- Phân tích từ tình huống thực tế của Việt Nam để chỉ ra những bất cập hạn chế
gây khó khăn nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện các quy định này phù hợp với thực
tiễn. Cuối cùng, từ những sự phân tích nêu trên, đề tài sẽ đề xuất những giải pháp hợp
lý và khoa học nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống Pháp luật Việt Nam về điều kiện
áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề liên quan đến Điều kiện hủy bỏ hợp đồng theo LTM 2005. Căn
cứ xác định vi phạm cơ bản, những chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản.


3

Những án lệ, những vụ tranh chấp, thực tiễn xét xử, phân tích những khó khăn, hạn
chế trong việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể về điều kiện hủy bỏ
hợp đồng thương mại theo các văn bản Pháp luật Luật Thương mại 2005, Bộ luật Dân
sự 2015, Công ước Viên 1980 và một số vấn đề lưu ý trong các hệ thống Pháp luật
phổ biến khác. Các trường hợp áp dụng cụ thể tại Việt Nam và một số trường hợp
tiêu biểu trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài đối với từng nội dung của luận
án, đề tài được sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp; Phương pháp nghiên cứu vụ việc; Phương pháp so sánh; Phương
pháp hệ thống hóa. Cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: tổng hợp một cách có chọn lọc những quy
định của Pháp luật về điều kiện hủy bỏ hợp đồng; Trên cơ sở kiến thức được
tổng hợp, phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý
luận cơ bản về hợp đồng và chế tài hủy bỏ hợp đồng.
- Phương pháp nghiên cứu vụ việc: liên hệ các ví dụ thực tế để phân tích việc
áp dụng luật, cũng như bình luận các bản án, nhằm đánh giá thực trạng áp
dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh các khái niệm, quy định của
Pháp luật trong nước và nước ngồi có liên quan. Phương pháp so sánh được
sử dụng nhằm mục đích tạo ra sự liên kết về mặt lý luận được sử dụng giữa
các hệ thống Pháp luật hoặc giữa các văn bản luật khơng có cùng đối tượng
điều chỉnh.
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng xuyên suốt tồn bộ đề tài nhằm trình
bày các vấn đề, nội dung theo một trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, gắn kết,
phát triển những nội dung mới của đề tài.
5. Bố cục của đề tài
-

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02 chương:

Chương 1: Tổng quan về biện pháp hủy bỏ hợp đồng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng theo LTM 2005


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BIỆN PHÁP HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
1.1 Khái niệm và đặc điểm của biện pháp hủy bỏ hợp đồng
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, hoạt động thương
mại giữa các cá nhân, tổ chức cũng vì thế mà trở nên đa dạng và phức tạp. Hợp đồng
trở thành phương thức hình thành chủ yếu của các mối quan hệ thương mại và chiếm
một vị trí quan trọng trong việc đảm bảo bảo thực hiện hợp đồng cũng như quyền lợi
giữa các bên.
Về mặt thuật ngữ, hợp đồng được hiểu là “sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay
nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết
thành văn bản”.1 Trong các văn tự cổ thuật ngữ hợp đồng được sử dụng theo âm Hán
– Việt như: “khế ước”, “văn tự bán nhà”, “văn tự bán ruộng”... chúng đều có chung
nghĩa đó là sự đồng thuận, giao kèo giữa các bên về một việc gì đó và theo đó các
bên phải có nghĩa vụ thực hiện các nội dung đã cam kết.
Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam quy định về hợp đồng dân sự: “Hợp đồng
dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự” (Điều 385 BLDS 2015). Tại Điều 430 BLDS 2015 đưa ra khái niệm:
“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển
quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán. Hợp đồng mua
bán nhà ở, mua bán nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định
của Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan”. Khoản 8 Điều 3 LTM 2005
định nghĩa: “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên
mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo
thỏa thuận”. Dựa vào quy định tại khoản 8 Điều 3 LTM 2005 và Điều 430 BLDS

2015, có thể hiểu: “HĐMBHH là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Như vậy, HĐMBHH là dạng cụ thể của hợp đồng
mua bán tài sản trong Pháp luật dân sự”.2
Các giao dịch mua bán hàng hóa trong thương mại có thể chia thành ba loại cơ
bản như sau: HĐMBHH thông thường; HĐMBHH quốc tế; HĐMBHH được giao kết
thơng qua Sở giao dịch hàng hóa. Về chủ thể, HĐMBHH được thiết lập chủ yếu giữa
các thương nhân, cũng có những trường hợp HĐMBHH khơng nhất thiết địi hỏi cả
hai bên chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân theo quy định tại khoản 3 Điều 1
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng việt, NXB. Đà Nẵng, tr. 466.
Đỗ Minh Ánh (2011), “Vấn đề sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật thương mại để gia
nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Tạp chí Luật học số 9/2011.
1
2


5

LTM 2005. Điều 24 LTM 2005 quy định về hình thức thể hiện hợp đồng, có thể bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên trong
một số trường hợp nhất định, Pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới
hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị tương đương như điện báo, fax
… (quy định tại Điều 27, 90, 110, 124, 130, 142, 159, 168, 179, 193, 251, 285 LTM
2005). Về đối tượng của HĐMBHH phải là hàng hóa theo định nghĩa tại khoản 2
Điều 3 LTM 2005, bao gồm “tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Nội dung của HĐMBHH thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên tham gia với mục đích lợi nhuận. Trên thực tế vẫn có những
trường hợp một bên trong thương mại khơng có mục đích lợi nhuận và chính vì thế
về ngun tắc những hợp đồng này không đương nhiên chịu sự điều chỉnh bởi những
quy định riêng của pháp luật thương mại.

Khi một HĐMBHH được giao kết một cách hợp pháp thì hợp đồng đó được xác
lập và có hiệu lực Pháp luật, các bên tham gia ký kết phải thực hiện cam kết và có
nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận. Tuy nhiên, việc vi phạm các cam kết trong hợp
đồng trên thực tế xảy ra khơng phải ít. Hậu quả dẫn đến bên vi phạm phải chịu những
chế tài do Pháp luật quy định. Có thể hiểu chế tài thương mại là biện pháp trách nhiệm
vật chất, được áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm các điều khoản hợp đồng
thương mại, việc áp dụng những chế tài này là do thỏa thuận của các bên dựa trên
những quy định của pháp luật thương mại và mang lại hậu quả pháp lý bất lợi cho
chủ thể bị áp dụng.3 Chế tài thương mại bao gồm những hình thức xử lý và hậu quả
pháp lý áp dụng đối với thương nhân có hành vi vi phạm Pháp luật về hợp đồng
thương mại. Trong khoa học pháp lý, quy định về chế tài có ý nghĩa quan trọng đối
với việc giao kết và thực hiện hợp đồng, nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của bên bị bi phạm, ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng, nâng cao ý thức đối với
vấn đề thực hiện hợp đồng, đồng thời cũng bảo vệ sự trật tự và ổn định của giao lưu
dân sự và thúc đẩy sự phát triển của thương mại.
Điều 292 LTM 2005 quy định sáu loại chế tài cụ thể, bao gồm:
(1) buộc thực hiện đúng hợp đồng;
(2) phạt vi phạm;
(3) buộc bồi thường thiệt hại;
(4) tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
(5) đình chỉ thực hiện hợp đồng;

3

Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh (2016), Tập bài giảng Pháp luật về hợp đồng, Tp. Hồ Chí Minh.


6

(6) hủy bỏ hợp đồng.

Ngồi các chế tài đó, LTM 2005 cịn cho phép các bên có thể áp dụng các loại
chế tài khác tùy theo thỏa thuận của các bên, không trái với nguyên tắc cơ bản của
Pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế. Hủy bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc
thực hiện tất cả hoặc một phần các nghĩa vụ hợp đồng. Đây là chế tài cuối cùng và
được xem là chế tài nghiêm khắc nhất về mặt hậu quả pháp lý. Do đó, pháp luật
thương mại Việt Nam quy định rất rõ ràng, cụ thể về các căn cứ pháp lý, hậu quả phát
sinh cũng như quá trình xử lý tranh chấp khi áp dụng chế tài này.
Khoản 2, 3 Điều 312 LTM 2005 quy định hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ
toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng:
“2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả
các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng;
3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp
đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn cịn hiệu lực”.
Có thể thấy rằng LTM 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về hủy bỏ hợp đồng
mà chỉ nêu ra khái niệm đối với từng trường hợp riêng rẽ. Hủy bỏ một phần hợp đồng
là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng
vẫn còn hiệu lực. Trong khi đó, hủy bỏ tồn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn
việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Hợp đồng sẽ
khơng có hiệu lực tồn bộ kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực
hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ các điều khoản thỏa thuận về các
quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Như vậy, theo quy định tại điều 312 LTM 2005 ta có thể hiểu: Hợp đồng bị hủy
bỏ là hợp đồng đã được giao kết nhưng bị coi là khơng cịn hiệu lực thực hiện nữa và
lý do hủy bỏ của hợp đồng không tồn tại vào thời điểm giao kết mà vào thời điểm
thực hiện hợp đồng.4 Hủy bỏ hợp đồng nhằm mục đích hủy bỏ hiệu lực của một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng thương mại kể từ thời điểm giao kết.
Điều 423 BLDS 2015 đưa ra quy định về điều kiện hủy bỏ hợp đồng:
“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại
trong trường hợp sau đây:
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;

b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
Võ Sỹ Mạnh (2017), “Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí kinh tế đối
ngoại số 86/2017.
4


7

c) Trường hợp khác do luật quy định.
2. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên
đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ,
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Giống như LTM 2005, BLDS 2015 cũng không quy định cụ thể về khái niệm hủy
bỏ hợp đồng. Có thể hiểu theo quy định này hủy bỏ hợp đồng là việc một trong hai
bên vi phạm những thỏa thuận được nêu trong hợp đồng hoặc vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ phải thực hiện đối với hợp đồng đã ký kết và đó là căn cứ để chấm dứt thực
hiện nghĩa vụ giữa các bên hoặc do Pháp luật quy định.
Khoản 2 Điều 314 LTM 2005 quy định, “Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc
đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ
hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp khơng thể
hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả bằng tiền”.
Bên cạnh đó, LTM 2005 cũng quy định tại khoản 3 điều này về việc: “Bên bị vi phạm
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”.
Từ những quy định trên ta có thể nhận thấy khái niệm về hủy bỏ hợp đồng trong
Pháp luật Việt Nam được hiểu tương đối thống nhất. Đây là một sự kiện pháp lý mà
theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng làm cho hợp đồng khơng có
hiệu lực từ thời điểm giao kết. Căn cứ hủy bỏ hợp đồng bao gồm: xảy ra hành vi vi
phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hợp đồng và một bên vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng. Đây là chế tài có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các bên khi

tham gia quan hệ hợp đồng bởi hậu quả mà nó gây ra, buộc các bên phải chấm dứt
việc thực hiện mọi nghĩa vụ hợp đồng, bất kể những chi phí và lợi ích mà các bên đã
bỏ ra trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến thời điểm hợp đồng bị hủy.
1.2 Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng theo LTM 2005
Khoản 4 Điều 312 LTM 2005 quy định, “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm
quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các
trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Như vậy, có thể xác định căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng theo quy định
của LTM 2005 gồm hai trường hợp là “xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả


8

thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”; và “một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng”.
BLDS 2015 quy định về hình thức chấm dứt hợp đồng bằng cách hủy bỏ hợp đồng
giao dịch dân sự tại Điều 423 như sau: “Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không
phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây: a) Bên kia vi phạm hợp đồng là
điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận; b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ hợp đồng; c) Trường hợp khác do luật quy định”.
Từ đó có thể nhận thấy rằng chế tài hủy bỏ hợp đồng của Luật Thương mại và quy
định hình thức chấm dứt hợp đồng bằng cách hủy bỏ hợp đồng của Bộ luật Dân sự
có sự tương đồng với nhau. Ngồi căn cứ dựa trên sự thỏa thuận của các bên về hành
vi vi phạm là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng, BLDS 2015 nêu ra quy định “bên kia vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng” còn LTM 2005 quy định “một bên vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Về cơ bản 2 thuật ngữ này giống nhau, nhưng tại khoản
13 Điều 3 LTM 2005 quy định cụ thể hơn về vi phạm cơ bản là “là sự vi phạm hợp

đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng”.
1.2.1 Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy
bỏ hợp đồng
Việc Pháp luật quy định “xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều
kiện để hủy bỏ hợp đồng” là căn cứ đầu tiên để áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng
thể hiện quy định này nhằm tôn trọng sự thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các
bên khi tham gia giao kết hợp đồng. Vấn đề cần xác định đầu tiên của điều kiện này
chính là hành vi vi phạm. LTM 2005 cũng như BLDS 2015 không hề có cơ sở pháp
lý nào quy định cho phép hủy bỏ hợp đồng trước khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng.
Chính vì vậy điều kiện tiên quyết để áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại là
phải có sự vi phạm, và hành vi vi phạm này phải được các bên thỏa thuận từ trước là
điều kiện để hủy bỏ hợp đồng.
Từ quy định này, có thể hiểu rằng khi hết thời hạn được thỏa thuận trong hợp
đồng, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình thì sự vi phạm hợp đồng mới
được xác định, một bên chỉ có quyền yêu cầu áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng sau
khi đã hết thời gian thực hiện hợp đồng mà bên kia vẫn chưa thực hiện, thực hiện
không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng đã giao kết. Ví dụ: A kí HĐMBHH
cho B, cam kết giao hàng trước ngày 15 tháng 4, hai bên thỏa thuận nếu bên A không
giao hàng đúng như cam kết cho bên B thì bên B có quyền hủy bỏ hợp đồng. Như
vậy nếu bên A giao hàng trễ hẹn cho bên B thì bên A đã có hành vi vi phạm mà các
bên thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng.


9

Cũng tương tự như vụ việc trên, nhưng nếu như bên B phát hiện và có cơ sở khẳng
định bên A không thể thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng đã giao kết, nhưng lại không
thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Pháp luật thương mại Việt Nam hiện
nay vẫn chưa có quy định nào cho phép một bên có quyền áp dụng chế tài hủy bỏ hợp

đồng nếu phát hiện bên kia “vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ”. Đây chính là điểm còn gây tranh cãi hiện nay trong việc áp dụng các trường hợp
vi phạm hợp đồng tại Việt Nam. Có thể hiểu rằng “trước khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ được các bên thoả thuận trong hợp đồng, nếu bên có quyền biết được rằng
nghĩa vụ sẽ khơng thể được thực hiện, hoặc có căn cứ để nghi ngờ rằng nghĩa vụ sẽ
không thể được thực hiện, thì có thể thực hiện ngay các quyền, hoặc một số quyền
mà thông thường chỉ được dành cho các trường hợp nghĩa vụ đã không được thực
hiện trên thực tế”.5 Việc không thừa nhận “vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ” đã gián tiếp khiến cho bên có quyền lợi nhận thấy nhưng khơng
thể ngăn chặn được thiệt hại của chính bản thân mình. Quy mô hơn nữa là gây thiệt
hại nghiêm trọng đến lợi ích của tất cả các bên có liên quan, cả về mặt kinh tế và xã
hội.
Quy định này được thừa nhận bắt nguồn từ án lệ của Anh trong vụ kiện nổi tiếng
giữa Hochster v De La Tour năm 1853. Có thể tóm lược vụ kiện này như sau: De La
Tour ký kết một hợp đồng thuê ông Hochster làm người chuyển phát nhanh cho ông
trong một chuyến du lịch vòng quanh châu Âu bắt đầu vào ngày 1 tháng 6 năm 1852.
Ngày 11 tháng 5 năm 1852, De La Tours đã viết cho Hochster thông báo ông đã hủy
hợp đồng và Hochster không cần phải tiếp tục làm việc cho ông. Ngày 22 tháng 5
năm 1852, Hochster kiện De La Tour phải bồi thường thiệt hại do vi phạm trước thời
hạn hợp đồng. De La Tours lập luận rằng ông biết Hochster tại thời điểm đó vẫn đang
phải ở lại để thực hiện nghĩa vụ đã đến hạn nên không thể cùng ông thực hiện công
việc đã ký kết. Tịa án sau đó đã bác bỏ lập luận của bị đơn và phán quyết cho nguyên
đơn thắng kiện vì cho rằng “một hợp đồng về hành vi trong tương lai cấu thành một
lời hứa ngụ ý rằng, trong thời gian chờ đợi, không bên nào sẽ làm phương hại đến
việc thực hiện lời hứa đó”.6
Có thể thấy rằng pháp luật thương mại thế giới đã chia ra hai quan điểm:
-

Một là quan điểm mới, thừa nhận trường hợp vi phạm hợp đồng khi chưa đến
hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Những người ủng hộ cho rằng hậu quả của

đe doạ gây thiệt hại và hậu quả của nguy cơ vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cần

Lê Ngọc Nhiên Hà (2017), Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội, tr. 25.
6
LawTeacher (2013), “Hochster v De La Tour – 1853”, 16/04/2018.
5


10

-

phải được Pháp luật dành cho sự quan tâm thích đáng như nhau. Hơn nữa, khi
có vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền
lợi khơng có quyền huỷ hợp đồng ngay tức thì mà muốn huỷ hợp đồng cần
phải tuân thủ một số điều kiện nhất định. Chính vì vậy, một số quốc gia ủng
hộ đã đưa học thuyết này vào hệ thống Pháp luật của nước mình.7
Hai là quan điểm mà pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay thừa nhận, xảy
ra hành vi vi phạm khi đã hết thời hạn thực hiện hợp đồng mà các bên đã thoả
thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng. Và các thỏa thuận này phải được các
bên ghi nhận như một điều khoản hoặc phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng.
Những người phản đối học thuyết cho rằng, về logic không thể có sự vi phạm
trước khi thời hạn chưa đến. Và như vậy, nó khơng những trái với ngun tắc
cơ bản của luật hợp đồng, mà cịn khơng cơng bằng với bên vi phạm, bởi vì
nó bắt buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về những nghĩa vụ mà họ chưa
buộc phải thực hiện.

Đối với quan điểm mà pháp luật thương mại Việt Nam thừa nhận, trừ trường hợp
các hợp đồng quy định bắt buộc phải được thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc hình

thức khác có giá trị tương đương thì có thể căn cứ trên văn kiện hợp đồng để xác định
thỏa thuận cụ thể của các bên về vi phạm là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng và thỏa
thuận về hành vi vi phạm là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng phải được ghi nhận trước
khi xảy ra hành vi này. Còn đối với những loại hợp đồng không bắt buộc giao kết
bằng văn bản như HĐMBHH và cung ứng dịch vụ có thể giao kết dưới các hình thức
bằng văn bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Với quy định như
vậy đối với các hoạt động thương mại chủ yếu, quan trọng nhất của xã hội và có nhiều
tranh chấp nhất, việc xác định thỏa thuận về hành vi vi phạm là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng trở nên phức tạp hơn rất nhiều.
1.2.2 Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng
Khái niệm vi phạm hợp đồng xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam vào thời điểm
LTM 2005 ra đời. Theo quy định tại khoản 12 Điều 3 luật này, theo đó vi phạm hợp
đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật Thương mại.

Phạm Thanh Hữu (2011), “Vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ (Anticipatory
Breach)”,
15/04/2018.
7


11

Theo Từ điển Black’Law (phiên bản lần thứ 9), vi phạm hợp đồng là vi phạm các
nghĩa vụ hợp đồng bằng việc khơng thực hiện lời hứa của ai đó, từ chối thực hiện
hoặc ngăn cản việc thực hiện của bên kia.8
Điều 351 BLDS 2015 không sử dụng thuật ngữ “vi phạm hợp đồng” mà thay vào
đó là “trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự”, trong đó đề cập đến “khơng
thực hiện” hoặc “thực hiện khơng đúng” nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Có thể hiểu
theo các nghĩa sau: Vi phạm hợp đồng bao gồm khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng,

trong đó thực hiện khơng đầy đủ là một sự giải thích, làm rõ thêm của không thực
hiện hợp đồng. Với cách hiểu này, LTM 2005 quy định phạm vi vi phạm hợp đồng
rộng hơn Bộ luật Dân sự khi xem “thực hiện không đầy đủ” là một dạng cụ thể của
không thực hiện hợp đồng. Quy định của Luật Thương mại là khá phù hợp với xu
hướng quy định của một số văn bản quốc tế.9
So với Luật Thương mại 1997, Khoản 13 Điều 3 LTM 2005 đã có quy định cụ
thể về hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng: “Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho
bên kia không đạt được mực đích của việc giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản nghĩa
vụ hợp đồng là cơ sở pháp lý quan trọng không chỉ được áp dụng bởi chế tài hủy bỏ
hợp đồng mà còn được áp dụng trong các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chế
tài đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Căn cứ này phù hợp với quy định của điều 293 LTM 2005, “Trừ trường hợp có
thỏa thuận khác, bên bị vi phạm khơng được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện
hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không
cơ bản”. Đây là điểm tiến bộ của LTM 2005 so với pháp luật thương mại Việt Nam
trước đây cũng như phù hợp với quy định của Pháp luật quốc tế trong hoạt động
thương mại thực tiễn.
Tại Điều 423 BLDS 2015 quy định:
“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại
trong trường hợp sau đây:
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;

Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 29.
9
Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ

Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr 32, 33.
8


12

c) Trường hợp khác do luật quy định”.
Như vậy, BLDS 2015 chỉ đưa ra khái niệm “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
đồng” làm căn cứ hủy bỏ hợp đồng với định nghĩa vi phạm nghiêm trọng là “việc
không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia khơng đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng”, trong khi LTM 2005 đưa ra khái niệm “vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” với định nghĩa vi phạm cơ bản cũng là “sự vi phạm
hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt
được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.10 Việc BLDS 2015 cũng như các văn
bản Pháp luật hiện hành khơng có quy định về vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng
thực sự đã gây ra khó khăn trong việc áp dụng cơ sở pháp lý này vào thực tiễn.
Khi hợp đồng thương mại được giao kết và có hiệu lực thì các bên có nghĩa vụ
thực hiện nghiêm túc những gì các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khoản 1 Điều
425 Bộ luật Dân sự 2005 quy định hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ khi “các bên có thỏa
thuận hoặc Pháp luật có quy định” với mục đích để các bên phải tôn trọng các thỏa
thuận trong hợp đồng và bảo vệ mối quan hệ hợp đồng đã được xác lập. Vì vậy việc
hủy bỏ hợp đồng trong thực tiễn là việc vơ cùng khó khăn nếu các bên khơng có thỏa
thuận trước.
Trong Luật thương mại 1997 cũng khơng có quy định cho phép các bên hủy bỏ
hợp đồng thương mại nếu các bên khơng có thỏa thuận. Quy định về vi phạm cơ bản
hợp đồng có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện chế tài hủy bỏ hợp đồng cũng như
các chế tài quy định tại Điều 308, 309 và 313 LTM 2005. Các quy định về khái niệm
“vi phạm cơ bản” và “vi phạm nghiêm trọng” cũng còn nhiều bất cập cũng như đưa
ra một thuật ngữ gây nhiều tranh cãi là khái niệm về “mục đích của việc giao kết hợp
đồng”.

Các thuật ngữ dùng trong quy định về vi phạm cơ bản còn “mơ hồ, trừu tượng”.
Báo cáo 350/UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/5/2005 về việc
giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật thương mại (sửa đổi) trình Quốc hội thông
qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy: “một vi phạm được xác định là vi phạm
cơ bản dựa trên hai tiêu chí là: phải có gây thiệt hại cho bên kia và mức độ gây thiệt
hại làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên,
“thiệt hại” và “mục đích của việc giao kết hợp đồng” còn chưa rõ ràng.11

Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 28.
11
ThS. Lê Văn Sua (2015), “Quy định về chế tài trong Luật Thương mại 2005 – một số vướng mắc và kiến
nghị”, 10/04/2018.
10


13

Về mặt thuật ngữ, “thiệt hại” là bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh
thần.12 Tuy nhiên khái niệm này lại chưa được giải thích bởi LTM 2005 cũng như
quy định cụ thể hành vi hay mức độ thiệt hại như thế nào sẽ cấu thành vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng. Thiệt hại ở đây có thể được hiểu là thiệt hại vơ hình hay hữu
hình, hay có thể hiểu đó là những gì bất lợi gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bên bị thiệt hại. Chính vì sự mơ hồ trong giải thích dẫn đến khơng ít phiền
tối trong việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng trên thực tiễn.
Trong Pháp luật thực định của Việt Nam, không thể tìm thấy ở bất kỳ văn bản quy
phạm Pháp luật nào giải thích mục đích của việc giao kết hợp đồng là gì mà thay vào
đó là mục đích của giao dịch dân sự. Theo quy định tại Điều 118 BLDS 2015: “Mục
đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao

dịch đó”. Theo Từ điển tiếng việt định nghĩa: “Mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm
đạt cho được” về “mục đích của việc giao kết hợp đồng”.13
Mục đích của giao kết hợp đồng là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng
của Pháp luật hợp đồng. Việc các bên thỏa thuận để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối
với nhau cũng vì những mục đích xác định, nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh
thần trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Đây là mục
đích chung nhất của các loại hợp đồng. Vì vậy, Pháp luật khơng quy định và các bên
không nêu rõ khi giao kết hợp đồng rằng lợi ích hợp pháp các bên mong muốn từ việc
xác lập giao dịch là gì thì việc xem xét, xác định mục đích của các bên (lợi ích hợp
pháp) cần căn cứ vào ngôn từ của hợp đồng, các tình huống có liên quan đến giao
dịch, thực tiễn thương mại giữa các bên.14
Đứng ở góc độ thực tiễn giao dịch thương mại, có thể xảy ra hai trường hợp sau:
-

Một là, các bên nêu rõ hoặc ngầm định mục đích của giao dịch trong hợp đồng.
Chẳng hạn, khi giao kết HĐMBHH, người bán và người mua thỏa thuận với
nhau rằng hàng hóa là nguyên liệu được mua để phục vụ sản xuất sản phẩm
nhất định thì mục đích của người mua xem như không đạt được nếu người bán
giao cho người mua nguyên liệu không thể sử dụng để sản xuất thành phẩm
được. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này thì việc lý giải, xác định mức
độ không sử dụng được của nguyên liệu trong việc sản xuất thành phẩm cũng
cần phải làm rõ thêm. Như vậy, việc quy định về mục đích của giao kết hợp

Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong Pháp luật Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13
Từ điển tiếng Việt (2013), />15/04/2018.
14
Võ Sỹ Mạnh (2014), “Vi phạm cơ bản hợp đồng trong Pháp luật Việt Nam: Một số bất cập và định hướng
hồn thiện”, Tạp chí kinh tế đối ngoại số 67/2014.

12


14

đồng cho thấy rằng cơ sở xác định vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là đầu tiên và
trước hết nằm ở các điều kiện quy định rõ ràng hoặc ngầm định trong hợp
đồng.
-

Hai là, các bên không thỏa thuận về mục đích của giao kết hợp đồng thì làm
sao để có thể xác định mục đích của giao kết hợp đồng? Trong trường hợp
này, việc xác định mục đích của giao kết hợp đồng cần kết hợp chặt chẽ với
xác định mục đích của hoạt động thương mại – hoạt động được thực hiện bởi
chủ yếu là các thương nhân. Chẳng hạn, khi người bán giao kết HĐMBHH
với người mua, hai bên khơng có thỏa thuận rõ ràng về mục đích của mua bán
hàng hóa. Hơn nữa, đối với hoạt động mua bán hàng hóa, bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn;
bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng
hóa theo thỏa thuận.

Từ đây, có thể thấy, bên bán và bên mua tuy có mục đích riêng khác nhau (bên
bán nhằm mục đích nhận thanh tốn, bên mua nhằm mục đích nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hóa) nhưng cả hai đều nhằm mục đích chung giống nhau là sinh lợi bởi
mua bán hàng hóa cũng là một hoạt động thương mại. Tức là, việc nhận thanh toán
của bên bán phải sinh lợi cũng như nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa của bên mua
cũng phải sinh lợi. Vì vậy, bất cứ hành vi vi phạm nào của bên mua làm cho bên bán
nhận thanh toán chậm hoặc thanh tốn khơng đầy đủ hoặc khơng nhận được thanh
tốn thì đều dẫn đến mục đích sinh lợi của bên bán không đạt được.
Tiến sĩ Võ Sỹ Mạnh trong bài viết của mình cho rằng: “Vi phạm cơ bản hợp đồng

là vi phạm hợp đồng nhưng không phải vi phạm hợp đồng nào cũng là vi phạm cơ
bản hợp đồng. Yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa vi phạm cơ bản hợp đồng với các loại
vi phạm hợp đồng khác là tính cơ bản của hành vi vi phạm”.15 Quan điểm của tác giả
có thể hiểu:
-

“Vi phạm hợp đồng có tính chất cơ bản nếu đó là vi phạm điều khoản cơ
bản của hợp đồng hay vi phạm nghĩa vụ chính/cốt lõi của hợp đồng.16 Nội
dung của hợp đồng được cấu thành bởi các điều khoản cơ bản, điều khoản
tùy nghi và điều khoản thông thường.

Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 36.
16
Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
15


15

-

Xác định tính cơ bản của hành vi vi phạm dựa vào mức độ ảnh hưởng đáng
kể, nghiêm trọng của hành vi vi phạm đến mục đích, lợi ích kinh tế của
một trong các bên xác lập và thực hiện hợp đồng”.17

Có thể thấy, dựa vào mức độ ảnh hưởng, nghiêm trọng do hành vi vi phạm của
một bên gây ra mà Pháp luật Việt Nam thừa nhận tính chất cơ bản của hợp đồng. Mức
độ ảnh hưởng của hậu quả hành vi vi phạm hợp đồng được xác định bằng mức độ tổn

thất trực tiếp do hành vi vi phạm gây ra hoặc mức độ tồn mất của lợi ích mà các bên
mong muốn, kỳ vọng đạt được từ hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định hậu quả của
hành vi vi phạm thơng qua tổn hại sẽ khó có thể thực hiện được đối với vi phạm hợp
đồng dự đốn trước, tức là tổn hại khơng xảy ra trên thực tế. Vi phạm điều khoản cơ
bản của hợp đồng là vi phạm cơ bản hợp đồng vì nó dẫn đến hậu quả pháp lý là hợp
đồng bị hủy bỏ hoặc chấm dứt. Tuy nhiên, vi phạm cơ bản hợp đồng, có khi, khơng
phải là vi phạm điều khoản cơ bản hợp đồng. Một hành vi vi phạm hợp đồng mà gây
hậu quả nghiêm trọng, dù đó là vi phạm điều khoản cơ bản hay điều khoản khơng cơ
bản, thì vi phạm đó bị coi là vi phạm cơ bản.18
1.3 Hệ quả pháp lý hủy bỏ hợp đồng theo Luật Thương mại 2005
Điều 314 LTM 2005 quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng cụ
thể như sau:
“1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp
đồng, hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải
tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận
về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
2. Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của
mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của
họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp khơng thể hồn trả bằng chính
lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả bằng tiền.
3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật này”.
Căn cứ quy định tại điều này, có thể hiểu hệ quả pháp lý của việc áp dụng chế tài
hủy bỏ hợp đồng là chấm dứt việc thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp

Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 40.
18
Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng

hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 42.
17


16

đồng; phát sinh nghĩa vụ hoàn trả do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình và
địi bồi thường thiệt hại đối với phần thiệt hại do bên vi phạm gây ra.
Theo điểm a khoản 4 Điều 312 LTM 2005 quy định: “Xảy ra hành vi vi phạm mà
các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”. Có thể hiểu quy định này
như sau: kể từ thời điểm một bên tuyên bố hủy bỏ hợp đồng thì cả bên áp dụng chế
tài và bên vi phạm hợp đồng đều ngừng việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng
theo như thỏa thuận trong hợp đồng. Thời điểm của việc ngừng thực hiện nghĩa vụ
này phải xuất phát từ yêu cầu hủy bỏ hợp đồng của một bên và bên kia nhận được
thông báo. Việc hủy bỏ hợp đồng có ý nghĩa là xóa bỏ hiệu lực pháp lý của hợp đồng
kể từ thời điểm giao kết, tuy nhiên trong hợp đồng đã giao kết có thể bao gồm cả
những điều khoản ghi nhận thỏa thuận của các bên về nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp
đồng cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cần sử dụng làm căn
cứ để xem xét giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy LTM 2005 cũng quy định việc
chấm dứt thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng không bao gồm thỏa thuận về các
quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Dựa trên cơ sở xem hủy bỏ hợp đồng là sự kiện pháp lý làm hợp đồng khơng có
hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, thì nghĩa là tồn bộ hợp đồng đều khơng được thừa
nhận hiệu lực (trừ trường hợp hủy bỏ một phần hợp đồng), việc quy định giữ lại hiệu
lực của các điều khoản quy định quyền và nghĩa vụ của các bên sau khi hủy bỏ hợp
đồng và về giải quyết tranh chấp cũng tương đương với việc đã thừa nhận hiệu lực
pháp lý của một phần hợp đồng, vì vậy mâu thuẫn với quy định của LTM 2005. Khi
giao kết hợp đồng, các bên tuy khơng mong muốn nhưng hồn tồn có thể đốn trước
được các tình huống xấu nhất khi tiếp tục thực hiện hợp đồng về thực tế khơng mang

lại lợi ích mà các bên mong đợi nhận được từ hợp đồng nữa mà cịn có thể mang đến
thiệt hại khơng nhỏ. Do đó, việc thừa nhận những thỏa thuận này cũng chính là việc
thừa nhận quyền tự do ý chí của các bên trong giải quyết hậu quả pháp lý của hợp
đồng.
Theo khoản 2 Điều 314 LTM 2005 quy định về nghĩa vụ hoàn trả việc hủy bỏ hợp
đồng: “Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được
thực hiện đồng thời; trường hợp khơng thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì
bên có nghĩa vụ phải hồn trả bằng tiền”.
Khi chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng, ngoài việc chấm dứt việc thực hiện
các nghĩa vụ hợp đồng còn lại với ý nghĩa là quy định về các nghĩa vụ này khơng cịn
hiệu lực nữa, các nghĩa vụ hợp đồng đã thực hiện trước đó cũng được xem là khơng
có hiệu lực. Nhưng các nghĩa vụ này nếu hai bên hoặc một trong hai đã thực hiện rồi


17

thì bên được hưởng lợi từ phần nghĩa vụ đã thực hiện của bên kia phát sinh nghĩa vụ
phải hoàn trả lại phần lợi ích đã nhận được đó. Về mặt pháp lý, hậu quả pháp lý này
tương đồng với hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong giao dịch
dân sự: “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã
nhận”. Vấn đề này được quy định tại điều 407 và 131 BLDS 2015.
Tiếp theo, Điều 302 LTM 2005 quy định về Bồi thường thiệt hại:
“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà
bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm”.
Có thể hiểu quy định này như sau: “Thiệt hại là những gì một bên mất đi và những
gì đáng lẽ ra họ nhận được nhưng do vi phạm hợp đồng của phía bên kia nên họ đã

khơng thể nhận được. Thiệt hại bao gồm thiệt hại thực tế và thiệt hại phát sinh”.19
Để có thể được bồi thường thiệt hại thì chủ thể địi bồi thường phải chứng minh
được rằng có thiệt hại thực thực tế xảy ra, có hành vi vi phạm hợp đồng, hành vi vi
phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Đồng thời, bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất. Và tất nhiên
chủ thể vi phạm không rơi vào các trường hợp miễn trách được quy định của Pháp
luật thương mại. Theo các quy định này thì để được bồi thường thiệt hại, chủ thể bị
vi phạm phải trải qua một quá trình chứng minh những tổn thất, mức độ tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Chính vì vậy, tại Điều 303 LTM 2005 quy định về
điều kiện bồi thường hợp đồng thương mại gồm:
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.

Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, 14/04/2018.
19


18

1.4 Căn cứ áp dụng biện pháp hủy bỏ hợp đồng theo Pháp luật Quốc tế
1.4.1 Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
CISG là chữ viết tắt theo tiếng Anh của Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Convention on Contracts for the International
Sale of Goods). CISG được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương
mại quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp
dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này được thông qua tại Viên
(Áo) ngày 11 tháng 04 năm 1980 (nên cịn được gọi là Cơng ước Viên 1980) và có

hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Mỗi quy định của Công ước Viên là kết quả của quá
trình đàm phán, thương lượng, nhân nhượng của mỗi thành viên tham gia đàm phán
và là kết quả thực sự của việc thống nhất, hài hịa hóa Pháp luật về hợp đồng
MBHHQT. Với cách thức soạn thảo như vậy, các điều khoản của Công ước Viên thể
hiện được sự thống nhất, hài hòa các quy phạm khác nhau trong Pháp luật của các
quốc gia tham gia soạn thảo, phản ánh được mối quan tâm chung của các quốc gia
này. CISG từ đó được xem như một mơ hình hữu ích cho các nước đang xem xét việc
ban hành luật hợp đồng và mua bán hiện đại với những lý do sau:
- Thứ nhất, Công ước Viên 1980 là một Luật Thương mại hiện đại phù hợp
với các truyền thống Pháp luật.
- Thứ hai, Công ước Viên 1980 đã hiện diện rất nhiều trong Luật Thương mại
trên khắp thế giới.
Với tính chất đề cao yếu tố tự do hợp đồng, quy định về hủy bỏ hợp đồng của
Công ước Viên cũng mang nhiều điểm tương đồng với quy định này trong hệ thống
Pháp luật Việt Nam.20 Căn cứ áp dụng biện pháp Hủy bỏ hợp đồng theo CISG được
quy định trong các trường hợp cụ thể sau:
1.4.1.1 Có vi phạm cơ bản trong nghĩa vụ thực hiện hợp đồng
Điều 25 CISG định nghĩa vi phạm cơ bản: “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên
gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị
thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở
hợp đồng, trừ phi bên vi phạm khơng tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý
trí minh mẫn cũng sẽ khơng thể tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hồn cảnh tương
tự”.

20

Cơng ước Viên 1980 (CISG) cho người Việt Nam (2012), 15/04/2018.


19


Đây là một sự kiểm tra khách quan để xác định yếu tố dự đoán trước được thiệt
hại đã xảy ra: thiệt hại càng khó tiên liệu trước thì yếu tố nhân quả càng thấp, và bên
bị vi phạm càng dễ vượt qua bài kiểm tra này, và vi phạm sẽ không bị coi là cơ bản.
Vi phạm hợp đồng bị coi là vi phạm cơ bản theo Công ước Viên 1980 phải thỏa
mãn các yếu tố sau: (1) Vi phạm hợp đồng phải gây thiệt hại cho bên bị vi phạm đến
mức tước đi đáng kể những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng; (2) bên
vi phạm lường trước được thiệt hại đó. Các nhà bình luận diễn giải rằng, để đáp ứng
được điều kiện thứ nhất, vi phạm của một bên phải gây thiệt hại nghiêm trọng làm
mất đi một phần quan trọng điều mà bên kia có quyền chờ đợi từ hợp đồng. Có thể
hiểu, điều mà bên vi phạm chờ đợi từ hợp đồng chính là mục đích mà người này
hướng đến khi ký hợp đồng. Đối với điều kiện thứ hai bên vi phạm lường trước được
hậu quả của vi phạm, như đã phân tích ở trên, người bán giao hàng khơng phù hợp
với mục đích sử dụng của người mua sẽ bị coi là thiệt hại nghiêm trọng đáng kể cho
người mua. Tuy vậy, nếu người bán không thể biết được mục đích đó, khơng thể
lường trước được rằng, hàng hóa được giao sẽ khiến cho người mua bị thiệt hại
nghiêm trọng, thì lúc này, vi phạm của người bán không được coi là vi phạm cơ bản.
Về cơ bản, tuy có sự khác biệt trong cách diễn đạt nhưng Luật Thương mại Việt
Nam so với Công ước Viên cùng có cách tiếp cận tương tự khi định nghĩa về vi phạm
cơ bản. Khoản 13 Điều 3 LTM 2005 và Điều 25 Công ước Viên quy định về vi phạm
cơ bản hợp đồng như sau: Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên phải gây thiệt hại
cho bên kia và thiệt hại phải đáng kể (đến mức) làm mất đi mục đích của giao kết hợp
đồng. Điều 25 Công ước Viên sử dụng cụm từ “đến mức tước đi đáng kể những gì
bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng” trong khi đó LTM 2005 sử dụng cụm từ “bên
kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” để “đo lường” tính nghiêm
trọng của thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra cho bên kia.
Tuy nhiên, điểm khác biệt trong định nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại Điều
25 Công ước Viên và khoản 13 Điều 3 LTM 2005 là: Công ước Viên cho phép loại
trừ tính cơ bản của vi phạm hợp đồng, từ đó ngăn cản việc hủy hợp đồng của bên bị
vi phạm nếu bên vi phạm chứng minh được “bên vi phạm khơng tiên liệu được và

một người có lý trí cũng khơng tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và hoàn
cảnh tương tự”, tức là một sự vi phạm hợp đồng, dù gây tổn hại đến mức làm cho bên
kia bị tước đi những gì anh ta có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, sẽ khơng bị coi là vi
phạm cơ bản nếu bên vi phạm chứng minh được điều nói trên. Luật Thương mại Việt
Nam khơng có quy định tương tự như Cơng ước Viên. Thay vì quy định loại trừ vi
phạm cơ bản hợp đồng, Luật thương mại chỉ quy định các trường hợp miễn trách để
loại trừ trách nhiệm khi có vi phạm hợp đồng, dù đó là vi phạm cơ bản hay không cơ
bản như: xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi


20

của bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.21
Công ước Viên, LTM và BLDS Việt Nam đưa ra những định nghĩa không hoàn
toàn giống nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm: vi phạm cơ bản là vi phạm gây
ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên bị vi phạm làm cho bên này khơng đạt được mục
đích của việc giao kết hợp đồng. Công ước Viên 1980 bổ sung đặc điểm là bên vi
phạm dự đốn trước được các thiệt hại.22
Cơng ước Viên còn quy định khá nhiều chi tiết về cách áp dụng chế tài khi hợp
đồng giao hàng từng phần, về việc hủy hợp đồng ngay cả khi chưa đến thời hạn thực
hiện nghĩa vụ. Theo khoản 1 Điều 72 CISG, nếu trước thời điểm bên bán phải thực
hiện hợp đồng, có dấu hiệu rõ ràng về việc người bán sẽ vi phạm cơ bản thì người
mua cũng được tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Khoản 1 Điều 72 Công ước Viên quy
định: “Nếu trước ngày quy định cho việc thi hành hợp đồng, mà thấy hiển nhiên rằng
một bên sẽ gây ra một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố hợp
đồng bị hủy”.
Từ đó, ta có thể thấy: chỉ khi nào thỏa mãn cả 3 điều kiện: “trước ngày quy định
cho việc thực hiện hợp đồng”: “một bên sẽ gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng”

và khả năng xảy ra hành vi vi phạm đó phải là “hiển nhiên, rõ ràng” thì quyền tuyên
bố hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện hợp đồng mới phát sinh.
Các trường hợp dẫn đến việc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ:
- Về phía người bán: người bán có thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng trước thời
hạn thực hiện hợp đồng nếu: việc người mua không thể thanh tốn cho hợp
đồng đầu tiên.
- Về phía người mua: người mua cũng có thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng nếu
trước thời hạn thực hiện hợp đồng người bán có một trong các hành vi sau:
người bán giao hàng mẫu không đáp ứng được yêu cầu của người mua dẫn
đến việc sẽ giao hàng chậm đối với một hàng hóa thời trang theo mùa vụ;
người bán cố tình chấm dứt việc giao hàng; …

Võ Sỹ Mạnh (2015), Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của Pháp luật Việt Nam, Luận văn tiến sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59.
22
TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên) (2016), 101 câu hỏi - đáp về CISG, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội,
tr. 259.
21


×