Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

HOẠT ĐỘNG THANH TRA VÀ GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.15 KB, 36 trang )

HOẠT ĐỘNG THANH TRA VÀ GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát
hoạt động Ngân hàng
2.1.1 Giới thiệu về Ủy ban Basel
Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc
Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp
của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao
gồm Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Canada, Thụy Điển và Bỉ.
Quan điểm của Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi
quốc gia đó mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, đây là vấn đề cần được cơ
quan giám sát tại các quốc gia và Ủy ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân
hàng đặc biệt quan tâm.
Trong quá trình hoạt động, Uỷ ban đã xây dựng và xuất bản hai nhóm ấn
phẩm chủ yếu: 1) Bộ các nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của
ngân hàng một cách có hiệu quả; và 2) Bộ sách hướng dẫn (được cập nhật định
kỳ) với các khuyến nghị hiện nay của Uý ban Basel, các hướng dẫn và tiêu
chuẩn.
2.1.2 Nhóm ấn phẩm nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel
Bộ 25 nguyên tắc cơ bản Basel là tài liệu dành cho cán bộ thực hiện công
tác giám sát ở các quốc gia và cả trên phạm vi quốc tế. Các nguyên tắc này đã
được thiết kế cho các chuyên gia giám sát, nhóm giám sát khu vực và thị trường
nói chung theo nguyên tắc dễ áp dụng và kiểm chứng. Uỷ ban Basel sẽ cùng với
các tổ chức liên quan khác đóng vai trò nhất định trong việc giám sát tiến độ áp
dụng các nguyên tắc trên đây của các quốc gia nhằm xây dựng hệ thống giám
sát đủ mạnh. Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu sau:
- Các Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám
sát ngân hàng hiệu quả: cụm chủ đề này được thể hiện bởi nguyên tắc 1.
Nguyên tắc chỉ ra điều kiện của một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng có
hiệu quả là: i) phải có một khung pháp lý phù hợp; ii) phân định mục tiêu,


nguồn lực và trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; iii) quy định về
chia sẻ và bảo mật thông tin.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu: bao gồm từ
nguyên tắc 2 đến nguyên tắc 5, với các nội dung chính: i) xác định rõ ràng các
hoạt động tổ chức tài chính được phép làm và chịu sự giám sát; ii) quyền đưa ra
các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt yêu cầu của cơ quan cấp
phép; iii) quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề xuất nào đối với việc chuyển
quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho các bên khác.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng:
cụm chủ đề bao gồm từ nguyên tắc số 6 đến số 15. Nội dung chính của nhóm
nguyên tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân
hàng được làm và nhất thiết phải biết xử lý trong hoạt động của mình ví dụ như:
yêu cầu về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực nào của
vốn ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ
tục cho vay vốn, đầu tư, việc kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của
ngân hàng đó; đánh giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản
chống thất thoát và quĩ dự trữ thất thoát khoản vay.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiện
nay: bao gồm từ nguyên tắc số 16 đến nguyên tắc số 20. Nhóm nguyên tắc này
quy định yêu cầu đối với một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả
bao gồm cả các hình thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Cơ quan giám sát
cần thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để hiểu rõ về hoạt động
của NH, xây dựng phương pháp phân tích báo cáo thống kê và có biện pháp
thẩm định độc lập thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại chỗ.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin: chủ đề này có 1
nguyên tắc số 21 chỉ ra cán bộ giám sát phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ
thống lưu trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia giám sát có thể tiếp cận và
thấy được tình hình tài chính thực tế của ngân hàng.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám
sát: cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 22 chỉ ra các biện pháp giám sát bắt

buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời khi ngân hàng không
đáp ứng được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không
đảm bảo, năng lực quản trị điều hành yếu...). Trong trường hợp khẩn cấp, hoạt
động can thiệp này bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức hoặc đề nghị thu
hồi giấy phép hoạt động.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên giới:
cụm chủ đề này bao gồm từ nguyên tắc số 23 đến nguyên tắc số 25 với nội dung
hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao dịch ngân hàng quốc tế, yêu cầu
các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn cao bằng tiêu
chuẩn của các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi
thông tin với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt là với chuyên gia giám sát
của nước sở tại.
Bộ sách hướng dẫn được cập nhật tháng 6 năm 2006 (10 nguyên tắc)
Tháng 6 năm 2006, Uỷ ban Basel đã phát hành tài liệu hướng dẫn với nội
dung “Đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay”. Tài liệu
bao gồm 10 nguyên tắc được chia làm 2 chủ đề chính: i) những vấn đề giám sát
liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay và
ii) vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát.
Về những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín
dụng và định giá khoản cho vay. Phần này bao gồm 7 nguyên tắc đầu tiên với
các vấn đề được đề cập như sau:
_ Ban giám đốc của ngân hàng phải có trách nhiệm bảo đảm ngân hàng
có trình tự đánh giá rủi ro tín dụng phù hợp và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu
quả phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của nghiệp vụ cho vay của
đơn vị đồng thời phù hợp với chính sách, hệ thống kế toán và hướng dẫn giám
sát của nước sở tại
_ Ngân hàng phải có một hệ thống phân loại khoản cho vay đáng tin cậy
dựa trên cơ sở rủi ro tín dụng
_ Chính sách của ngân hàng phải được mô hình đánh giá rủi ro tín dụng
nội bộ nhất định phê chuẩn

_ Ngân hàng phải phê chuẩn và ban hành phương pháp quản lý tổn thất
khoản cho vay hợp lý trong đó đề cập đến: quy trình, chính sách đánh giá rủi ro
tín dụng, quy trình kiểm tra lại và xác định những vấn đề về khoản cho vay,
hướng trích lập dự phòng một cách kịp thời
_ Khoản dự phòng trích lập phải đủ để có thể bù đắp những tổn thất cho
vay trong danh mục các khoản cho vay
_ Việc sử dụng phương pháp đánh giá tín dụng đã được kiểm chứng và
ước lượng hợp lý là một phần cơ bản trong việc đánh giá tổn thất cho vay
_ Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp cho
ngân hàng những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín
dụng.
Về vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan
giám sát. Phần này bao gồm 3 nguyên tắc, từ nguyên tắc số 8 đến nguyên tắc số
10; cụ thể:
_ Định kỳ, cơ quan giám sát phải đánh giá tính hiệu quả của chính sách
rủi ro tín dụng và đánh giá thực tế chất lượng khoản cho vay
_ Cơ quan giám sát phải xác nhận phương pháp tính dự phòng tổn thất
cho vay của ngân hàng là phù hợp
_ Cơ quan giám sát ngân hàng phải xem xét chính sách và thực tế áp
dụng đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng khi kiểm tra mức đủ vốn của ngân
hàng.
Thực trạng công tác giám sát tại Việt Nam và vấn đề áp dụng các nguyên
tắc Basel vào hoạt động giám sát Trong điều kiện Việt Nam đang trong quá
trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi, tín dụng nhanh

là một tín hiệu khả
quan, nhưng đồng thời cũng là nguy cơ khi năng lực quản trị điều hành, khả
năng cạnh tranh của các ngân hàng còn yếu kém.
Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hệ thống, Bộ máy giám sát tài chính

ngân hàng tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo
giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa được chuyển
đổi hoạt động theo mô hình Ngân hàng Trung ương. Thanh tra ngân hàng được
giao thực hiện một số hoạt động giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi
vẫn có chức năng thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các
Bộ, cơ quan ngang bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn
chế việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, việc
phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan
thực hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn
trong quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo. Phương pháp thanh tra giám
sát đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
Kiểm tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là nội dung hoạt động chủ yếu, khả năng
giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn yếu.
Những vấn đề nói trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn diện hệ thống
giám sát cả về tổ chức và phương pháp thực hiện. Cải cách là tất yếu, nhưng nếu
cải cách quá chậm sẽ khiến chúng ta phải gánh chịu chi phí cơ hội ngày càng
lớn và rủi ro đổ vỡ sẽ không chờ đợi bất kỳ ai, vì bất cứ nguyên nhân gì. Đề án
phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 ban hành kèm theo Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 5 năm

2006 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra lộ trình xây dựng khung pháp lý quan
trọng cho hoạt động ngân hàng như xây dựng Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (mới), Luật các Tổ chức tín dụng (mới), Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật
Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Trong quá trình đổi mới hệ thống ngân
hàng và hoạt động giám sát, Việt Nam cần nghiên cứu các quy trình, chuẩn mực
quốc tế (Bộ các nguyên tắc Basel là một trong số đó) để hoạt động giám sát thực
sự là chốt chặn an toàn cho nền kinh tế.
2.2 Thực trạng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng tại Việt
Nam

Cho đến nay, có thể nói các cơ chế để thực thi việc giám sát, quản trị hệ
thống vẫn còn yếu, đặc biệt là giám sát các Ngân Hàng Thương Mại Quốc
Doanh. Bộ tài chính là người có vai trò thông báo tình hình hoạt động của các
Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh nhưng cơ chế để thực thi việc quản lý các
ngân hàng này còn yếu. Cụ thể, Ban giám sát có đại diện của bộ tài chính tỏ ra
không hiệu quả trong vai trò giám sát từ xa cũng như với vai trò là cổ đông. Vụ
tài chính ngân hàng trực thuộc Bộ tài chính là bộ phận có quyền hướng dẫn
,kiểm tra và giám sát tài chính với toàn bộ hệ thống tài chính trong lĩnh vực
ngân hàng và tín dụng nhưng trên thực tế bộ phận này chỉ thu thập một số thông
tin về các khoản bù đắp rủi ro và các thông tin trong tương lai. Ngoài ra,lương
của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và cán bộ do Bộ lao động thương binh
xã hội quy định có sự tham gia của Bộ tài chính mà không có sự liên hệ chặt chẽ
với hoạt động tài chính của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh và không
tính đến khả năng xảy ra rủi ro lhi đánh giá đến hoạt động chung. Thực tế, Ngân
hàng nhà nước mới có vai trò ảnh hưởng đến các Ngân Hàng Thương Mại Quốc
Doanh. Theo luật ngân hàng hiện hành, Ngân hàng nhà nước được can thiệp vào
hoạt động,quản lý và hầu hết các thay đổi của Ngân Hàng Thương Mại Quốc
Doanh. Các thành viên Hội đồng quản trị, được bổ nhiệm bởi Thống đốc Ngân
hàng nhà nước.Thủ tướng Chính Phủ quyết định Hội đồng quản trị và tổng giám
đốc trên cơ sở đề nghị của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. Như vậy luật phát
hiện hành cho phép Ngân hàng nhà nước được phép can thiệp về việc quản lý
của hệ thống ngân hàng mnhiều hơn so với thường thấy trong hệ thống ngân
hàng hoạt động trên thị trường. Về phương diện vốn, do vốn của các Ngân Hàng
Thương Mại Quốc Doanh đều do Nhà nước cấp và một phần không nhỏ hoạt
động của các ngân hàng này được chính phủ bảo lãnh một cách gián tiếp về khả
năng chi trả và thanh toán nên ít có động lực cho các ngân hàng này tạo lợi
nhuận và khuyến khích các thành viên của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc
Doanh quản lý tốt tài chính của ngân hàng mình. Điều này sẽ hạn chế khách
hàng tiếp cận với các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh có tình hình tài
chính lành mạnh.Do vậy cần nâng cao quản trị tài chính của các Ngân Hàng

Thương Mại Quốc Doanh để các ngân hàng này sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
của Chính phủ.
Ngoài ra một số quy định hiện hành không phù hợp để các ngân hàng
quản lý tài chính tốt như : Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc các thành viên Hội
đồng quản trị có thẻ đồng thời giữ chức Tổng giám đốc và chủ tịch ban giám sát
trong khi đó luật Tổ chức tín dụng quy định phải tách biệt chức năng điều hành
và chức năng giám sát. Hội đồng quản trị có thể quyết định tăng lương thưởng
cho Tổng giám đốc nhưng điều này bị hạn chế bởi quy định tại điều 22 Nghị
định 166. Cách tính lợi nhuận ít căn cứ vào tính hiệu quả của việc sử dụng vốn
ngân hàng và sự ổn định về lợi nhuận trong dài hạn hay mức độ rủi ro của ngân
hàng. Kiểm soát nội bộ để đảm bảo việc tuân thủ các chính sách, thủ tục và đảm
bảo cho việc quản trị tốt thường được gộp với các chức năng kiểm toán nội bộ.
ĐIều này không phù hợp với vai trò kiểm toán nội bộ.
Trên góc độ giám sát toàn bộ hệ thống tài chính thì hoạt động thanh tra
vẫn còn nhiều bất cập. Công tác giám sát từ xa của thanh tra chưa đáp ứng được
nhu cầu kịp thời nắm bắt thông tin và những vấn đề nổi cộm trong hoạt động
của tổ chcs tín dụng, do đó chưa phát huy được tác dụng cảnh báo sớm và
phòng ngừa rủi ro đối với các tổ chức tín dụng.Hoạt động thanh tra tại chỗ chưa
có quy trình thanh tra thống nhất,chủ yếu thực hiện trên cơ sở thanh tra việc
tuân thủ của các ngân hàng, đôi khi lại can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ
của tổ chức tín dụng hoặc mang nặng tính chữa cháy, thậm chí làm thay công
việc của kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng mà chưa tập trung sâu phân tích
đánh giá rủi ro tổng thể về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng. Việc phối
hợp giữa hoạt động thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa thời gian qua đã đạt được
kết quả nhất định nhưng hiệu quả chưa cao. Giám sát từ xa chưa thực sự có tác
dụng phân tích định hướng và chỉ điểm cho thanh tra tại chỗ. Về tổ chức, mô
hình thanh tra hiện tại chưa cho phép thanh tra hoạt động độc lập với Ngân hàng
nhà nước, vừa chịu sự quản lý của Ngân hàng nhà nước vừa chịu sự quản lý của
thanh tra Nhà nước nên cơ chế điều hành còn chồng chéo, không kịp thời trong
công tác chỉ đạo làm giảm tính hiệu quả hiệu lực trong hoạt động thanh tra. Việc

tuyển dụng quản lý đào tạo cán bộ thanh tra còn hạn chế có biểu hiện tụt hậu so
với nhu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. So với chẩn mực quốc tế, thì chức
năng thanh tra còn phân tán ở nhiều Vụ, Cục, môi tỷường pháp lý chưa hoàn
thiện mới dựa vào Pháp lệnh thanh tra, thiếu luật thanh tra và chế độ thông tin
báo cáo nên trách nhiệm báo cáo chưa cao, chưa xác định rõ tính độc lập của
thanh tra để hoạt động hiệu quả. Các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng
còn chậm chỉnh sửa bổ sung cho hợp vơí thông lệ quốc tế.
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cuối những năm 90 cho thấy hệ
thống tài chính có đủ mạnh mới cho phép nền kinh tế chống đỡ được những cú
sốc tài chính bên ngoài. Thực trạng hệ thống tài chính nêu trên cho thấy hệ
thống tài chính của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống ngân hàng còn non yếu về cả
phương diện tài chính,công nghệ thông tin, khả năng cạnh tranh, trình độ quản
lý rủi ro cũng như khả năng giám sát.
Đặc biệt,hiện nay Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh vẫn chiếm vai trò
chủ đạo trên thị trường tiền tệ do có lợi thế về quy mô kinh tế và sức mạnh có
được từ sự sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian tới khi gia nhập tổ
chức thương mại quốc tế và thực hiện và thực hiện các cam kết về tự do hóa
hoạt động ngân hàng thì vai trò này của các Ngân Hàng Thương Mại Quốc
Doanh sẽ có xu hướng giảm dần. Ngoài ra, do vốn của các Ngân Hàng Thương
Mại Quốc Doanh thấp hơn nhiều so với mức huy động và cho vay cho thấy sự
thiếu vốn của các ngân hàng này, do vậy, hệ số an toàn vốn của 4 ngân hàng náy
là thấp, ước tính 3,4% - 5% thấp hơn hệ số an toàn vốn theo yêu cầu quốc tế là
8%. Điều này cho thấy thách thức đối với các ngân hàng này trrong thời gian tới
khi hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hoá các giao dịch vốn sẽ chứa
đựng rủi ro khi có biến động của thị trường tài chính quốc tế.
Để chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hoá cán cân vốn,
thì hệ thống tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phải đổi mới nhiều
mặt. Trước hết các Ngân Hàng Thương Mại Quốc Doanh cần phải được tăng
cường vốn để đảm bảo chỉ tiêu an toàn vốn. Nợ tồn đọng cần phải được xử lý
dứt điểm. Các ngân hàng thương mại cần được trang bị các công nghệ thông tin

hiện đại để kịp thời nắm bắt các thông tin, diễn biến trên thị trường trên toàn hệ
thống. Các cán bộ ngân hàng cần được nâng cao trình động về quản lý rủi ro
trên cơ sở tài sản nợ có. Các Ngân hàng thương mại cần có các chiến lược Ngân
hàngằm nâng cao khả năng cạnh tranh để chuẩn bị khi các Ngân hàng nước
ngoài thực hiện nhiều hơn các loại hình dịch vụ không bị thôn tính thực hiện
phần. Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại cần nâng cao công tác kiểm soát
nội bộ để dự báo rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro trong quá trình hội Ngân hàngập
trong bối cảnh còn nhiều lỗ hổng về thể chế, rủi ro có nhiều khả năng phát sinh
do lợi nhuận thấp và thực hiệnếu vốn và với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Ngân
hàng nước ngoài khi mở rộng hơn hoạt động cho các Ngân hàng nước ngoài thì
việc quản trị tài chính của các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải được
cải thiện đồng thời về phương diện Chính phủ mà người thay mặt là Ngân hàng
nhà nước cần phải nâng cao khả năng giám sát tài chính toàn hệ thống tài chính.
Để giám sát hiệu quả hệ thống tài chính, về phía Ngân hàng nhà nước,
cần tăng cường công tác giám sát từ xa cũng như công tác thanh tra tại chỗ, xây
dựng các chỉ tiêu giám sát theo CAMELS, thiết lập hệ thống xếp loại các tổ
chức tín dụng theo CAMELS, xây dựng hệ thống cảnh báo và hệ thống thông
tin quản lý để kịp thời trấn chỉnh hoạt động các tổ chức tín dụng cũng như hệ
thống tài chính. Bên cạnh đó, cần tài chính công tác phòng ngừa rủi ro,đặc biệt
là rủi ro ngoại hối cho toàn hệ thống. Các hạn mức như trạng thái ngoại hối tỷ
trọng huy động và cho vay ngoại tệ dài hạn so với nguồn vốn huy động ngắn
hạn, tỷ lệ đầu tư vào các cổ phần cổ phiếu ở nước ngoài của các tổ chức tín
dụng cần được điều chỉnh kịp thời để đặc biệt tính thanh khoản và an toàn của
toàn hệ thống. Chế độ thông tin báo cáo cần được cải thiện trên phương diện
mẫu biểu cũng như hệ thống mạng hiện đại để đặc biệt Ngân hàng nhà nước có
được các thông tin về hệ thống tài chính mmột cách kịp thời,chính xác.Có như
vậy Ngân hàng nhà nước mới có đủ dữ liệu để phân tích và cảnh báo cho toàn
hệ thống cũng như can thiệp khi cần thiết.
Về phía Chính phủ, khả năng các nước cho thấy cần thiết phải có luật
giám sát thanh tra để hoạt động giám sát thanh tra được thực hiện theo luật và

để giám sát tốt hệ thống tài chính thì thanh tra cần có vai trò độc lập với hệ
thống tài chính, đặc biệt độc lập với Ngân hàng nhà nước để thanh tra có đủ
quyền lực giám sát hoạt động Ngân hàng. Khi tự do hóa tài khoản vốn thì doanh
nghiệp cũng nhu hệ thống Ngân hàng đã được trao quyền tự chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của mình đồng thời cũng tự chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện đúng Pháp luật bao gồm trách nhiệm báo cáo đầy đủ theo
quy định. Để việc thực thi báo cáo của doanh nghiệp và hệ thống Ngân hàng có
hiệu quả, cần ban hành luật thông tin báo cáo như kinh nghiệm của Hàn Quốc
và Trung Quốc tránh tình trạng mặc dù đã có quy định nhưng Ngân hàng nhà
nước vẫn không có thông tin báo cáo từ Ngân hàng và doanh nghiệp một cách
đầy đủ như hiện nay. Ngoài ra, Chính phủ nên cổ phần hóa một số các Ngân
hàng thương mại quốc doanh để các Ngân hàng này sở hữu độc lập để khuyến
khích các Ngân hàng này quản trị doanh nghiệp tốt trên cơ sở lợi nhuận và dự
phòng rủi ro và hạn chế bảo lãnh một cách gián tiếp cho các Ngân hàng thương
mại quốc doanh, cần xác định mục tiêu hoạt động rõ ràng cho đội ngũ quản lý
của Ngân hàng thương mại quốc doanh, đảm bảo khả năng giám sát từ xa là độc
lập với việc quản lý các Ngân hàng thương mại, tách chức năng thanh tra khỏi
chức năng quản lý của Ngân hàng nhà nước.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hóa cán
cân vốn, mức độ can thiệp của Chính phủ vào các giao dịch này sẽ ngày càng
giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định chung của
nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải kiểm soát được toàn bộ các giao dịch của
hệ thống tài chính bao gồm cả giao dịch vốn theo nghĩa nắm được mọi diễn
biến, can thiệp một cách gián tiếp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để hạn
chế hay khuyến khích các luồng vốn vào và ra. Để làm được điều này, công tác
thống kê phải được đặc biệt chú trọng. Hệ thống báo cáo phải đảm bảo cung cấp
những số liệu thống kê một cách chính xác, kịp thời để các cơ quan quản lý tiền
tệ có thể đánh giá đúng được xu hướng vận động của các luồng vốn, phát hiện
sớm những rủi ro và có biện pháp ứng phó thích hợp. Tuy nhiên, điểm hạn chế
lớn nhất của hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay là sự phối hợp lỏng lẻo

giữa các cơ quan có trách nhiệm cung cấp số liệu bởi chưa có một chế tài đủ
mạnh nhằm bắt buộc thực hiện chế độ thông tin báo cáo.Mặt khác, do khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thống kê còn hạn chế nên số liệu
thống kê chưa đảm bảo tính cập nhật. Do vậy, giám sát tốt hệ thống tài chính
theo kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước trong khu vực thì cần luật
hóa chế độ báo cáo thống kê để nâng cao tính hiệu lực thi hành báo cáo của
Ngân hàng và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo theo quy định 477
cần được trtiển khai sớm để thống nhất mẫu biểu báo cáo qua kênh mạng thay
vì chế độ báo cáo theo giấy tờ trước đây. Đầu mối thông tin cần tập trung tại
tổng cục thống kê để tránh chồng chéo trong thu thập số liệu gây khó khăn cho
Ngân hàng và doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần tăng cường công tác phối hợp chia
sẻ thông tin giữa các bộ nghành, cụ thể là giữa tổng cục thống kê với Ngân
hàng, bộ tài chính bộ kế hoạch và đầu tư.
Về phía các tổ chức tín dụng, cần nâng cao hiểu biết về các rủi ro đi kèm
với các khoản tiền gửi,tín dụng, xây dựng các quy định kiểm soát rủi ro trên cơ
sở tài sản nợ - có,xây dựng các hạn mức đầu tư, trạng thái ngoại hối riêng của
mình, cải thiện công tác kiểm soát nội bộ và tuân thủ các giới hạn an toàn theo
quy định của Ngân hàng nhà nước.
Từ các khuyến nghị trên có thể đưa ra lộ trình cải tổ công tác giám sát hệ
thống tài chính trong thời gian sắp tới như sau :
Trong ngắn hạn cần xây dựng đề án cải cách thanh tra giám sát phù hợp
với chuẩn mực quốc tế về tổ chức,nghiệp vụ cơ chế điều hành giám sát mà cụ
thể là ban hành quy chế mới đánh giá, xếp hạng các tổ chức tín dụng theo tiêu
chuẩn CAMELS, bổ sung điều chỉnh quy chế kiểm toán độc lập cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt
động Ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, sửa đổi quy định về vốn tự có,
phân loại tài sản có, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro.
Trong trung hạn cần xây dựng khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh
tra giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện
các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng tổ

chức tín dụng, xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các tổ chức tín dụng Việt Nam
để các thanh tra viên sử dụng như cẩm nang thanh tra giám sát. Ban hành quy
định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả
tại tổ chức tín dụng, bao gồm hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hệ thống
quản lý tài sản nợ có và hệ thống quản lý rủi ro tín dụng rủi ro thanh khoản rủi
ro thị trường đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này.Đẩy mạnh hợp
tác quốc tế và tham gia các hiệp ước, thỏa thuận quốc tế về thanh tra giám sát
Ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi thông tin với các
cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng nước ngoài để phối hợp hoạt động trong
kiểm soát rủi ro và tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật công nghệ thanh tra giám sát tiên
tiến. Phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra giám sát đủ về số lượng và có trình độ
nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, được trang bị kiến thức
Pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nghiệp vụ. xây dựng và triển khai kế
hoạch đào tạo ở trong và ngoài nước các cán bộ thanh tra Ngân hàng về nghiệp
vụ tài chính – Ngân hàng hiện đại, quản trị rủi ro và các phương pháp thanh tra
giám sát tiên tiến.

2.3 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân
hàng.
Hệ thống CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động Ngân hàng toàn
diện, được dùng phổ biến trên thế giới. Để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra
giám sát Ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Các thanh tra viên sử dụng báo cáo giám sát CAMELS để tiến hành xếp
hạng cho từng Ngân hàng dựa trên sự đánh giá của 6 cấu phần chính về năng
lực và hoạt động của 1 Ngân hàng. Sự xếp hạng sẽ cân đối với quy mô và sự
phức tạp của Ngân hàng, dặc trưng trong hoạt động và việc quản lý rủi ro của
Ngân hàng. Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống
Ngân hàng đua ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của
toàn bộ hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp
hạng tổng thể CAMELS. Các cấu phần được đánh giá trên các khía cạnh sau :

- Vốn (C)
- Chất lượng tài sản có (A)
- Chất lượng quản lý và hoạt động (M)
- Thu nhập (E)
- Thanh khoản (L)
- Độ nhạy với lãi suất (S)
Việc tổng hợp xếp hạng được đánh giá dựa trên thang điểm từ 1 đến 5
theo mức độ cần giám sát tăng dần. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc
xếp hạng 6 cấu phần. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ
chức tín dụng có hệ thống tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền
với một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ
chức tín dụng này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi
ro và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức tín dụng này.
2.3.1 Đánh giá hoạt động
Ý nghĩa của việc xếp hạng cho từng mức như sau :

×