Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Cac dan toc thieu so o Nghe An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.91 KB, 108 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NGHỆ AN </b>



<b>Lời giới thiệu</b>


Cũng như cả nước ta, Nghệ An
là một tỉnh đa dân tộc. Các dân
tộc ít người ở Nghệ An vừa
mang những đặc điểm chung
của các dân tộc trong nước vừa
mang những nét đặc thù của một
số dân tộc ít người cư trú trong
một vùng lãnh thổ nhất định.
Việc tìm hiểu các dân tộc ít người trong tỉnh sẽ giúp ta nhân thức
thêm sâu sắc cái chung và cái riêng về vấn đề dân tộc trong tỉnh, hiểu
đầy đủ hơn tính đa dạng và phong phú của vấn đề dân tộc ở nước ta.
Điều đặc biệt quan trọng là từ tình hình đặc điểm cụ thể về địa lý, môi
trường sinh thái, cư dân, lịch sử của một vùng lãnh thổ nhất định, nêu
lên bản sắc văn hoá của các tộc người trong vùng, mối quan hệ giao lưu
văn hố các dân tộc, tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển
của các tộc người ở đây. Việc nghiên cứu các dân tộc ít người ở đây sẽ
cho ta cứ liệu để nói lên một cách hùng hồn những thành tựu cực kỳ to
lớn của chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong
thời gian qua; mặt khác những tồn tại lâu nay ở các dân tộc trong tỉnh,
đặc biệt về phương diện nâng cao hơn nữa đời sống mọi mặt của đồng
bào, làm cho “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như
mong muốn của Bác Hồ cũng đặt ra những vấn đề cấp bách trong
thời gian tới để thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước với ba ngun tắc cơ bản là Đồn Kết - Bình Đẳng - Tương
Trợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chủ trương của tỉnh qua nhiều thời kỳ trong việc thực hiện chính sách


dân tộc trong tỉnh. Anh đã tiến hành nhiều đợt điền dã Dân tộc học ở
vùng núi cao Nghệ An, cùng lăn lộn trong đời sống của đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Nghệ An trong nhiều năm trời. Kết quả nghiên cứu
khoa học của anh đã được công bố một phần và được đưa vào nội
dung giảng dạy cho sinh viên các ngành khoa học xã hội của trường.


Tại khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong cơng trình luận
án Nghiên cứu sinh không những anh đã tổng kết các cơng trình nghiên
cứu của mình mà cịn tập hợp các thành tựu nghiên cứu của giới khoa
học Dân tộc học Việt Nam viết về các dân tộc thiểu số ở Nghệ An để từ
đó nghiên cứu về các mối quan hệ dân tộc hiện nay. Gần đây, anh cịn
có dịp trở lại thực địa để bổ sung, chỉnh lý một số tư liệu, và nhất là nắm
bắt những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống các dân tộc ở đây trong
q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới theo đường lối Đại hội VI, VII của
Đảng ta.


Mặc dù cơng trình của Phó tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc “Các dân tộc
thiểu số ở Nghệ An” có những ưu điểm như đã nói trên, nó cũng khơng
tránh khỏi những hạn chế. Dù sao đấy có thể xem là cơng trình đầu tiên
nghiên cứu tổng quát về tất cả các dân tộc thiểu số ở Nghệ An.


Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Hy vọng
những nhận xét góp ý phê bình sẽ giúp tác giả nâng cao chất lượng
cơng trình khi có nhu cầu tái bản.


Hà Nội, ngày 4 tháng 9 năm
1993


Giáo sư Phan Hữu Dật
Phó Chủ tịch Hội Dân tộc học


Việt Nam


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Miền núi Nghệ An rộng lớn, có núi cao, sơng sâu, hiểm trở. Miền
núi Nghệ An có vùng đất đỏ ba - zan với sản vật cây công nghiệp phong
phú, vơ cùng khống sản giàu có và q hiếm, có rừng đa dạng về
chủng loại cây nhiệt đới, có lâm sản có giá trị kinh tế cao v.v… Miền núi
Nghệ An cũng đang đứng trước những thách đố nghiêm khắc của môi
sinh môi trường đáng báo động. Vùng đất bạt ngàn đang sôi động lại
càng biến động hơn vào thời điểm này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

kiêng kỵ trong đời sống văn hố của đồng bài để làm tốt cơng tác vận
động quần chúng… là những điều tuy đơn giản nhưng rất cần thuết và
có ý nghĩa thực tiễn. Để góp thêm và kho tư liệu về các cư dân ở miền
núi Nghệ An, góp phần nghiên cứu nhân tố con người trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, cung cấp những tài liệu cho những
người quan tâm nghiên cứu về cư dân ở vùng đất quan trọng này,
chúng tôi biên soạn cuốn sách giới thiệu các dân tộc thiểu số trong tỉnh.
Mặc dù vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu trong suốt 15 năm nay,
chúng tôi kế thừa được các kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp v.v…
song có phần vì tài liệu khơng có nhiều và rải rác, sự hỗ trợ tài chính để
nghiên cứu khoa học khơng có và về mặt học thuật vẫn cịn nhiều điều
đang tranh luận, nên sự ra mắt của cuốn sách chắc chưa thể đáp ứng
được đòi hỏi của độc giả.


Trân trọng cảm ơn Ban Dân tộc và miền núi tỉnh Nghệ An cùng
đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
chuyến điền dã sưu tầm tư liệu của chúng tôi trong những năm vừa qua


Trân trọng cảm ơn sự chỉ giáo tận tâm và đầy khích lệ của các Giáo
sư Phan Hữu Dật, Giáo sư Hà Văn Tấn, Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư


Đặng Nghiêm Vạn trong quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành
bản thảo.


Chúng tơi trân trọng cảm ơn sự quan tâm đặc biệt của Nhà xuất
bản Nghệ An đã động viên và nỗ lực giúp đỡ chúng tơi hồn thành cuốn
sách trong điều kiện kinh phí hết sức khó khăn hiện nay.


Thành phố Vinh, mùa
<i>hạ, 1993</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i><b>Chương Một</b></i>


<b>Đặc điểm địa lý tự nhiên và dân cư</b>
I. Điều kiện tự nhiên


Nghiên cứu Dân tộc học, Sử học về các cư dân vùng miền núi
Nghệ An không thể không đề cập đến các mặt tồn diện về tự nhiên, về
sinh thái mơi trường sống của đồng bào. Những sản phẩm lao động
sáng tạo của đồng bào chính là những vốn văn hố truyền thống được
hình thành trong q trình sống thích nghi và biến đổi vùng tự nhiên mà
họ sinh sống.


Tỉnh Nghệ An nằm ở miền Bắc Trung Bộ Việt Nam, từ vĩ độ 18<b>0</b><sub>53</sub><b>’</b>
bắc, kinh độ 103<b>0</b><sub>30</sub><b>’ </b><sub> đến 106</sub><b>0</b><sub>30</sub><b>’</b><sub> đông. Diện tích tự nhiên của Nghệ An</sub>
vào loại lớn nhất của cả nước: 16.250 km<b>2</b><sub>, chiếm 83% diện tích của</sub>
miền Bắc Trung Bộ và chiếm gần 6% diện tích của cả nước. Tổng diện
tích miền núi và trung du ở Nghệ An chiếm 77% diện tích tự nhiên của
cả tỉnh, riêng vùng núi cao chiếm 58% diện tích tự nhiên.


Vùng núi và Trung di là nơi sinh tụ của đồng bào các dân tộc thiểu


số tỉnh chiếm hơn ba phần tư diện tích trong tồn tỉnh và số dân chiếm
một phần tư dân số toàn tỉnh. Địa giới của khu vực này tiếp giáp phía
Bắc là miền núi tỉnh Thanh Hố, phía Tây là 3 tỉnh của nước Cộng hồ
Dân chủ Nhân dân Lào, phía Nam giáp vùng núi tỉnh Hà Tĩnh và phía
Đơng giáp các huyện đồng bằng và ven biển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

có vị trí thuận lợi đối với điều kiện sinh tồn và phát triển của môi trường
sống con người.


Theo tài liệu của các nhà Địa chất, Địa lý học, vùgn núi Nghệ An là
cả một hệ thống nhiều dãy núi chạy song song theo hướng Tây Bắc
-Đông Nam. Nền lục địa cổ ở vùng núi Trường Sơn Bắc trong đó có miền
núi Nghệ An được cấu tạo từ đại Cổ Sinh và đã trải qua thời kỳ bóc mịn
xâm thực rất dài nên vùng này bao gồm chủ yếu là các dãy núi loại thấp
trong các hệ núi ở Việt Nam. Độ cao trung bình của toàn hệ thống dãy
núi là 800 đến 1000 mét trên mặt nước biển. Những dãy núi cao nhất là
Pù Xai Lai Leng 2.711m và và Rào Cỏ 2.286m nằm ở dọc đường biên
giới Việt - Lào đều được cấu tạo bằng đá xâm nhập, có sườn rất dốc và
bị các dòng chảy chia cắt dữ dội. Tuy nhiên, các đèo ở khu vực này có
nguồn gốc kiến tạo lại khá thấp làm cho sự đi lại giữa hai sườn Đông
(thuộc Nghệ An) và sườn Tây (thuộc Lào) khá dễ dàng, thuận tiện cho
các luồng di cư trong lịch sử. Trong khu vực, do biến động của địa hình
phức tạp nên đã để lại mặt bằng của vùng đa dạng về đất đai thổ
nhưỡng, khí hậu, sơng ngịi và cả nguồn động vật, thực vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

những thung lũng rộng ở Quỳ Châu, Quế Phong hay Con Cuông, Tân
Kỳ.


Sông suối ở miền núi Nghệ An chảy trong vùng có địa hình phân dị
phức tạp nên đóng vai trị tích cực trong việc chia cắt địa hình. Mặc dù


mạng lưới sơng suối kiểu lồng chim hay cành cây là kiểu phổ biến nhất
ở khu vực núi được cấu tạo bằng đá phiến, đá cát nhưng đều có hướng
phổ biến là Tây Bắc - Đơng Nam với chi lưu dày đặc, tạo nên nhiều
ghềnh thác hiểm trở theo hướng núi. Những thung lũng được tạo ra do
sự xâm thực của sơng suối và q trình bóc mịn nói chung đã thu hút
được các điểm quần cư quan trọng với việc trồng lúa nước. Hoạt động
kinh tế của con người vùng này chủ yếu tập trung theo các thung lũng
sông, dọc triền sông hoặc đầu nguồn các con suối.


Các thung lũng có sườn đất dù dốc cao hay thoải đều được các
quần cư dân phát đốt trồng trọt theo phương thức phổ biến là nương
-rẫy. Nền nông nghiệp dùng cuộc (phổ biến) hay chọc lỗ tra hạt (ở một
vài nhóm cư dân) đều làm tăng thêm hiểm hoạ xói mịn, làm thu hẹp địa
bàn sinh tụ và là nguyên nhân cơ bản cho lối sống du canh du cư hàng
trăm năm nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

“Nhịp điệu mùa” khá rõ rệt của lãnh thổ Việt Nam tạo nên sự ln
chuyển giữa hai mùa (gió mùa mùa đơng và gió mùa mùa hạ) đã tác
động rất nhiều đến hàng loạt các nhịp điệu khác của tự nhiên miền núi:
sơng suối có nước dâng lên rất nhanh tạo thành các cơ lũ rừng nguy
hiểm vào mùa hạ nhưng lại bị cạn vào mùa lạnh khô. Cũng như lớp phủ
thực vật, hoạt động của động vật v.v… đều bị chi phối bởi quy luật tự
nhiên đặc sắc đó của một xứ mà nhiệt độ trong năm có sự chênh lệch
khơng quá lớn. Tuy vậy, ở vùng núi cao chủ yếu thuộc huyện Kỳ Sơn,
Quế Phong, do ảnh hưởng của độ cao một số ngọn núi và các thung
lũng giữa vùng núi và các thung lũng giữa vùng núi này làm cho khí hậu
đa dạng. Có những tiểu vùng khí hậu nhiều năm nhiệt độ trung bình là
10<b>0</b><sub>c, có những lúc xuống dưới 0</sub><b>0</b><sub>c. Lòng chảo thung lũng Mường Lống</sub>
(thuộc huyện Kỳ Sơn) rộng trên 50ha có khí hậu giống vùng khí hậu ở
SaPa, Tam Đảo. Vùng này có sương muối xuất hiện nhiều lần trong


năm. ở những nơi thảm thực vật rừng đã mất, xuất hiện sương muối
nhiều ảnh hưởng lớn đến cây trồng và chăn nuôi gia súc.


Mùa mưa ở đây kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Gió từ
phương Nam tới, thường có giơng lớn với cường độ nhanh, lại xảy ra
vào dịp đốt nương làm rẫy của đồng bào làm cho đất bị xói mịn rất
nhanh chóng. Lượng mưa hàng năm thường từ 1500mm trở lên, thậm
chí có nơi lên đến gần 3000mm, nước sông dâng lên rất nhanh gây nên
lũ rừng đột ngột và dữ dội.


Đến mùa khô hàng năm từ tháng 11 năm trước đến thang 4 năm
sau, gió lạnh phía Bắc về, ít mưa, sơng suối khơ cạn. Theo kết quả
nghiên cứu của Ban phân vùng khí hậu Nghệ An: miền núi Nghệ An có
hai trong số ba miền khí hậu, gồm ba trong số mười bốn tiểu vùng khí
hậu của tỉnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tượng đất bị đá ong hoá hoặc vùng rừng bị sa hoá là hiện tượng phổ
biến ở những vùng cư dân du canh du cư.


Miền núi Nghệ An nằm giữa vùng núi Trường Sơn Bắc là nơi gặp
gỡ của nhiều đại diện thực vật từ Hymalaya qua Vân Nam lan xuống và
từ Hymalaya, In donesia lên. Do điều kiện khí hậu của miền núi Nghệ
An nóng hơn hai miền núi nói trên nhiều nên kiểu rừng nhiệt đới phát
triển mạnh mẽ ở đây, nhất là độ cao từ 800m trở xuống. Lên cao hơn có
kiểu rừng nhiệt đới có rêu. Tập đồn thực vật q hiếm ở vùng này
được coi là có giá trị kinh tế cao so với cả nước từ trước đến
nay.ở những vùng có lượng mưa kém hơn như ở Mường Xén (Kỳ Sơn),
Cửa Rào (Tương Dương) có kiểu rừng kín nửa rụng lá hoặc là các trảng
thứ sinh. Nhìn chung đây là vùng rừng trước đây (khoảng từ 1970 trở về
trước) còn chưa bị tàn phá, thảm thực vật còn dày, động vật cũng cịn


phong phú nhất là các lồi thuộc bộ linh trưởng và lồi gặm nhấm. Các
lồi thú lớn và q như voi, bò rừng, gấu, tê giác v.v… đại diện cho giới
động vật cổ nhiệt đới còn khá nhiều, làm chứng cho một mơi trường
sống chưa có sự biến động thay đổi lớn.


Môi trường sinh thái thuận lợi cho sự phát triển của các giống loài
động vật, thực vật phong phú chính là điều kiện sống thuận lợi cho các
cư dân thời cổ sơ cũng như cũng như thời cổ trung đại. Khả năng về
mặt nông - lâm nghiệp dồi dào, về mặt cơng nghiệp, vùng đất này cịn
có nhiều tiềm năng rất lớn.


Cấu trúc địa chất phức tạp làm cho nguồn khoáng sản ở đây thêm
đa dạng. ở các đường đứt gãy của sơng Cả có nhiều mỏ q như sắt,
mangan, than (Khe Bố, huyện Tương Dương), vàng (dọc sông Nậm
Nơn và Mậm Mộ), thiếc (Quỳ Hợp), đá Rubi (Quỳ Châu và Quỳ Hợp)
v.v…


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

con người ở khu vực Đông Nam á, đây là một trong những vùng trung
tâm của q trình “Sapien hóa”, là q hương của nghề trồng lúa nước,
là một vùgn văn hoá tiêu biểu với những chiếc trống đồng nổi tiếng thời
dựng nước. Nhưng bên cạnh những yếu tố thuận lợi như đã nói trên, do
điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu phức tạp nên những khó khăn đối với
cư dân trong vùng cũng không nhỏ. Đây là vùng núi non rất hiểm trở,
thời tiết thất thường và khắc nghiệt, lũ lụt và hạn hán thường xuyên đe
doạ v.v… Điều đó trở nên phức tạp, đa dạng. Con người ở miền núi
Nghệ An trong lịch sử, dù có nguồn gốc lịch sử khác nhau đều là những
người đã khai phá,, thích ứng với tự nhiên và cải tạo tự nhiên không
ngừng. Trải qua những biến động của tự nhiên và biến động của các
thành phần cư dân theo thời gian, người ta vẫn chưa thể dựng lê được
bức tranh phân bố dân cư một cách liên tục trong hang nghìn năm trước


đây của vùng đất này. Nhưng điều có thể tin cậy được là vùng đất miền
núi Nghệ An trong thời kỳ hình thành các nhóm cư dân thời cổ trung đại
là vùng đất đã từng có con người sinh sống và đã tạo nên một vùng văn
hố khó có thể trộn lẫn với cư dân của các vùng đất khác. Ngày nay cư
dân các dân tộc trong vùng đã tương đối ổn định về địa bàn cư trú.
Ngoài bộ phận khá lớn, chiếm khoảng gần nửa số cư dân người Kinh
cư trú ở các thị trấn, nơng - lâm trường cịn có đồng bào Thái, Thổ,
Hmơng, Khơ - mú và ơ - đu. Trong số đồng bào các dân tộc thiểu số ,
một bộ phận không nhỏ, khoảng 50% số dân, phần lớn là đồng bào
Hmông, Khơ - mú, Thổ và ơ - đu cịn trong tình trạng sống du canh du
cư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Vì thế, sự biến động mãnh liệ của môi trường tự nhiên diễn ra, con
người ở đây phải đương đầu để vừa thích nghi, hồ hợp, vừa cải tạo
hết sức khó khăn.


Những yếu tố quan trọng về tự nhiên của vùng Nghệ An - nơi tu cự
của đồng bào các dân tộc ít người Nghệ An đã có ảnh hưởng lớn đến
phương thức canh tác, phương thức tồn tại, các hoạt động kinh tế - xã
hội của con người. Thiên nhiên của miền núi Nghệ An có nhiều nét đặc
thù càng làm cho mối quan hệ xã hội của con người trong vùng chịu ảnh
hưởng và tạo nên nét riêng biệt nhất là về văn hoá mang tính tộc người,
tính khu vực.


Thiên nhiên miền nui Nghệ An trước đây có thể coi là một vùng mơi
trường cư trú của các nhóm cư dân thuận lợi nhiều mặt. Đất đai phong
phú chủng loại, khí hậu ẩm nhiệt đới, động vật và thực vật giàu có về
sinh khối và giống loài, song đến nay đã bị kiệt quệ, nhiều nơi đã biến
thành đồi trọc, trảng có tranh hay cây bụi thứ sinh nghèo nàn về tiềm
năng phát triển kinh tế.



Những vùng đất giàu tài nguyên (đất đai, cây lâm nghiệp, khống
sản…) đang là nơi thu hút, có sức hấp dẫn lớn đối với cư dân trong
vùng. Việc ổn định cơ cấu dân cư trong thời gian trước mắt, quy hoạch
khai thác và đầu tư có tính chiến lược khơng chỉ đối với vùng, miền mà
cịn có ý nghĩa quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Man, người Lào làm giới hạn cho hai miền Nam Bắc, thực là nơi hiểm
yếu như thành đồng ao nóng của nước và là then khố của các triều
đại”.<b>(1)</b>


II. Lịch sử quá trình tộc người cư dân thời cổ - trung đại ở miền núi
Nghệ An:


Vùng Đông Nam á đã được các nhà nghiên cứu Khảo cổ học, Nhân
chủng học… coi là một trong những nơi có nhiều vết tích về sự hình
thành con người hiện đại. Vào thời đại đồ đá cũ người nguyên thuỷ đã
có mặt trên lãnh thổ nước ta. Một số di chỉ Khảo cổ học ở nước ta đã
được xác định có công cụ đá của người vượn như Núi Đọ (Thanh Hoá),
Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), Đồng Nai v.v…, gần đây những
phát hiện mới về Khảo cổ học đã cho biết những dấu vết văn hoá đáng
tin cậy về người vượn trên đất Nghệ An, đó là di chỉ khảo cổ học Thẩm
ồm, bên suối Bản Thắm, xã Châu Thuận, huyện Quỳ Châu. Việc khám
phá những bí ẩn của di chỉ Thẩm ồm cùng nhiều di chỉ khác trong vùng
Phủ Quỳ <b>(2)</b><sub> cho phép người ta đoán định rằng những dấu vết văn hoá</sub>
của con người ở Thẩm ồm đã ở vào giai đoạn tiến hoá cuối cùng của
Người Vượn đang chuyển biến thành dạng người hiện đại
(Homosapiens). Bên cạnh nhưng hòn cuội được ghè đẽo thô sơ, cùng
với nhiều răng xương của nhiều loại động vật lớn (vượn khổng lồ, đười
ươi lùn, , gấu tre, voi răng kiếm), các nhà khảo cổ học đã phát hiện


được 5 chiếc hoá thạch của người vượn. Theo ý kiến của các nhà Cổ
nhân học, Khảo cổ học thì những chiếc răng của người - vượn ở Thẩm
ồm có những đặc điểm đặc trưng của người Homo sapiens, có niên đại
vào khoảng 20 vạn năm về trước. Đây là một trong những nơi phát hiện
ra dấu vết “Sapiens” sớm trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nền văn hoá Sơn Vi ở Việt Nam được trải rộng từ Sơn La, Lai
Châu ở phía Tây đến lưu vực sơng Lục Nam ở phía Đơng, n Bái ở
phía Bắc và Nghệ An ở phía Nam. Đó là cụm di


………..


(1) Phan Huy Chú - “lịch triều hiến chương loại chí” Sử học, Hà Nội,
1960 (phần chép về Nghệ An)


(2) Bên cạnh Thẩm ồm, người ta còn phát hiện ra các vết tích văn
hố trong lớp trầm tích thời cách ngày nay từ 3 triệu đến + 1 vạn năm ở
các hang Thẩm Bua, Thẩm Tung Quén (thuộc huyện Quỳ Châu Nghệ
An).


chỉ ở Trung du Nghệ An: Đồi Dùng (Thanh Đồng, Thanh Chương), Đồi
Rạng (Thanh Hưng, Thanh Chương) và một số nơi khác thuộc miền núi
cao, hiểm trở <b>(1)</b><sub>. Các di chỉ này có nhiều hiện vật lại nằm kế cận nhau,</sub>
chứng tỏ số dân của các cộng đồng người lúc bấy giờ đã tăng lên trong
các bộ lạc Sơn Vi. Sang nền văn hố Hồ Bình đặc trưng của cơng cụ
đá là cơng cụ bằng đá cuội, quacdít, được ghè đèo một mặt rất tinh tế,
sắc cạnh. Chủ nhân của văn hố Hồ Bình sinh sống trong các hang
động đá vôi thuộc phần lớn các huyện miền núi Nghệ An: Con Cuông,
Tân Kỳ, Tương Dương và Quỳ Châu là những cư dân sống chủ yếu nhờ
săn bắt hái lượm và bước đầu biết trồng trọt <b>(2)</b><sub>. Những tiến bộ kỹ thuật</sub>


vào cuối thời đại đá mới ở vùng này được ghi nhận rằng: cư dân Hồ
Bình đã có biểu hiện tăng vọt về dân số và định cư khá ổn định trên địa
bàn rộng <b>(3)</b><sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

hoà nhập của các bộ lạc để hình thành các khối cộng đồng người lớn
hơn trước. Nhưng điều có thể khẳng định được là sự thống nhất, đa
dạng và liên tục của các nền văn hoá trên phạm vi phân bố rộng ở vùng
này từ Tương Dương, Con Cuông qua Tân Kỳ, Anh Sơn đến


……….


(1) Các di chỉ thuộc nền văn hoá Sơn Vi phân bố trải rộng trên địa
bàn miền núi Nghệ An: Thẩm Bơng, Thẩm Kẻ Sang, Hồng Cồn (Châu
Cường, Quỳ Châu),


Kẻ Tiên, Kẻ Thẩm: Bản Pun, Bản Moong (Quế Phong), Phúc Sơn
(Anh Sơn), Piêng Pô (Liên Hợp, Quỳ Hợp) v.v…


(2) Đó là các di chỉ Thẩm Hoi thuộc huyện Con Cng có dấu vết
văn hố Sơn Vi (niên đại 10875 + 175 năm, 10815 + 150 năm) hang
Chùa thuộc huyện Tân Kỳ mang dấu vết văn hoá Hồ Mình, cơng cụ đá
ghè đẽo (niên đại 9325 + 120 năm, 9075 + 120 năm). Ngồi ra người ta
cịn phát hiện được các di chỉ ở hang Xiềng Lầm thuộc huyện Tương
Dương, ở Lục Dạ thuộc huyện Con Cuông v.v…


(3) Đây là cư dân trồng lúa cuốc đá phát triển nhiều nghề thủ công
như làm gốm, dệt vải chế tác đá, trao đổi sản phẩm và nguyên liệu giữa
các vùng được mở rộng Tầng văn hoá của các di chỉ này rất dày, phần
lớn là vỏ nhuyễn thể, lẫn nhiều manh tước có thể là xương chế tác cơng
cụ đá. Tại Thẩm Hoi, khai quật nhiều manh tước có thể là chế tác công


cụ đá tại Thẩm Hoi, khai quật 33m thu được 1096 manh tước (thưởng là
công cụ đồ đá nhỏ). Người ta cho rằng họ cũng là cư dân giỏi săn bắn
căn cứ vào số lượng lớn xương, răng độc vật hoá thạch thu thập được
trong hang: Hươu, nai 46%, trâu, bò rừng 24%, khỉ 2%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Việt Nam. Dấu tích văn hố Đơng Sơn điển hình ở miền núi Nghệ An là
những hiện vật thu được ở Làng Vạc, bên bờ sông Hiếu ở xã Nghĩa
Tiên, Nghĩa Đàn <b>(2)</b><sub>.</sub>


Đây là một trong những trung tâm của nền văn hố nơng nghiệp
dùng cày, một trung tâm của trống đồng Đông Sơn nổi tiếng - thời đại
rực rỡ nhất của nền văn minh sông Hồng.


Cùng niên đại Làng Vạc và tiếp nối văn hoá thời đại đồng - sắt ở
khu vực này, một loạt di chỉ được phát hiện ở Đồng Mõm (Nho Lâm,
Diễn Châu, Nút Nhón (Xuân Hoà, Nam Đàn…) Qua hiện vật thu thập
được, người ta đã khẳng định ngay sau sự phát triển cực thịnh của nền
văn hố Đơng Sơn trên vùng đất này, nghề chế tác sắt đã có những
bước phát triển mạnh <b>(3)</b><sub>.</sub>


Nhìn lại bản đồ những di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện ở miền
núi Nghệ An, điều dễ dàng nhận thấy là sự phát triển liên tục của các
nền văn hố từ thủa hình thành con người hiện đại đến thời kỳ hình
thành các khối cộng đồng trong lịch sử trung đại Việt Nam. Do ở xa về
phía Nam, nhờ sức sống mãnh liệt của nó mà đến lúc văn hoá Hán xâm
nhập theo sự


………..


(1) Di chỉ Đồi Đền, Tam Đình, Cửa Rào thuộc huyện Tương Dương,


di chỉ Lèn Hai Vai (Diễn Châu) được coi là những di chỉ thuộc sơ kỳ thời
đại đồ đồng với rìu đá có vai, dọi xe chỉ, gốm bơi thổ hồng và có hoa
văn khác vạch gần gũi gốm Phùng Nguyên Bắc Bộ Việt Nam. Dấu vết
văn hoá gắn với thời đại đồ đồng ở Nghệ An có Rú Trăn, Rú Cật (Nam
Đàn), Trại ổi (Quỳnh Lưu) tương đương niên đại Đơng Sơn (Thanh Hố)
và có thể tương đương giai đoạn Gò Mùn ở trung du và đồng bằng Bắc
Bộ - trước Đơng Sơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

găm có gắn 2 con rắn nuốt voi. Nghề làm gốm phát triển, đồ trang sức
đẹp. Trống Đông Sơn ở vùng này nhiều. Đặc biệt trống Sơng Hiếu là
trống đồng lớn nhất nước ta, có đường kính bề mặt 0,90m.


(3) Di chỉ Đồng Mõm (xã Diễn Thọ, Diễn Châu) chỉ khai quật
115m2 đã có 6 lị luyện sắt. ở Xn Giang (Nghi Xn) tìm được lị
luyện sắt, gang: cửa đón gió phía Nam để lợi dụng gió Lào. Một số di
vật bằng sắt đã bị rỉ và vũ khí (như dao, đinh…). Một số đồ trang sức
bằng đồng rất đẹp, một số đồ gốm được trang trí hài hồ chứng tỏ kỹ
thuật kỹ xảo của cư dân ở đây khá cao và tư duy thẩm mỹ đã được
nâng lên một bước. ảnh hưởng, giao lưu văn hố Đơng Sơn từ Bắc vào
Nam, từ Nam ra Bắc được ghi nhận ở vùng này (hiện tượng khuyên tai
hai đầu thú, thuộc văn hoá Sa Huỳnh chẳng hạn).


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Dân tộc học về tàn dư văn hố ngun thuỷ… góp thêm ý kiến để
chứng minh điều đó.


III. Về lịch sử phân bố tộc người.


Nhìn lên bản đồ phân bố các di tích Khảo cổ học ở vùng núi Nghệ
An, người ta dễ dàng nhận thấy vùng cư trú của người nguyên thuỷ trải
trên diện rông. Một số di chỉ có tầng văn hố dày chứng tỏ họ đã định


cư với số lượng lớn và trong một thời gian dài. Nhưng, việc khôi phục
bức tranh về phân bố dân cư trong lịch sử ở vùng này, đến nay vẫn còn
thiếu tài liệu. Những cứ liệu thành văn ít ỏi của người Thái có thể được
coi là nguồn tài liệu thành văn duy nhất có thể dùng kết hợp với các
dịng họ lớn <b>(1)</b><sub>. Tài liệu về nhân chủng được sử dụng cũng chỉ là những</sub>
tài liệu đại lược ở các vùng khác vì vùng này chưa được điều tra kỹ
càng.


Bằng những nguồn tư liệu hiện có, với phương pháp nghiên cứu
liên ngành ta có thể khái qt q trình hình thành các tộc người ở vùng
này như sau:


Như đã nói ở trên, cho đến nay, giới nghiên cứu khoa học đã thừa
nhận Đông Nam á là một trong những cái nơi hình thành nhân loại.
Trong đó Việt Nam là một địa bàn của quá trình chuyển biến từ vượn
người thành người hiện đại.


……….


(1) Tài liệu tiếng Thái (bản dịch) chủ yếu là gia phả các dịng họ có
nguồn gốc từ Lào và Tây Bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

nhóm loại hình Vêđơit và Nêgrơit). Một nhóm loại hình được tách ra từ
Nam á là Inđônêdiêng do kết quả của sự hỗn chủng giữa nhóm
Mơnggơlơit. Theo Nguyễn Đình Khoa, nhóm loại hình Mơnggơlơit bao
gồm các dân tộc cư trú trong vùng núi sâu hoặc hải đảo. Vùng cư dân
cư trú tương đối tập trung của họ ở Đơng Dương phía Bắc từ Tây Bắc
Việt Nam đến Thượng Lào, phía Tây đến Mianma ( các cư dân Mơn
-Khơme), phía Nam tận Tây Nguyên (Việt Nam) và Hạ Lào. Cư dân Khơ
- mú, ơ đu (trước đây thường gọi là “Xá”) là nhóm trung gian trong q


trình chuyển biến đó. Những tư liệu về địa vực cư trú của nhóm loại
hình này cho đến nay chỉ căn cứ vào tài liệu nhân chủng cho phép đoán
định rằng trên nền vừa trải rộng vừa liên tục của các nhóm loại hình
Inđơnêdiêng, người Khơ - mú thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơme có
địa bàn hình thành ở miên Bắc Đông Dương. Họ mới và miền Tây Nghệ
An khoảng trên dưới hai trăm năm nay. Nhiều giả thiết nhắc đến sự hình
thành khá sớm của cứ dân ở đu, cho rằng họ có thể là cư dân bản địa ở
vùng này<b>(1)</b><sub>.</sub>


Dấu vết cư trú xưa của nhóm cư dân này cịn được ghi nhận từ
Tân Kỳ, Con Cuông đến Tương Dương, Kỳ Sơn (vùng dọc đường 7A)
nhưng hiện nay chỉ còn một số lượng tất ít ỏi, chỉ có chưa đầy hai trăm
người cư trú ở hai xã Kim Đa và Kim Hoà thuộc huyện Tương Dươn.
Đây là một trong hai dân tộc có số dân ít nhất ở nước ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

lập mà cịn bảo lưu được những nét văn hố của cộng đồng trước
đây. Các nhóm địa phương của dân tộc này cư trú cách nhau khá xa:
nhóm địa phương của dân tộc này cư trú cách nhau khá xa: nhóm Mọn
cư trú chủ yếu ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, nhóm Kẹo và Họ cư
………..


(1) Tài liệu thành văn không thu thập được, tác giả chỉ dựa vào tư
liệu truyền thuyết và các tài liệu của giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, giáo sư
Diệp Đình Hoa đã viết về các cư dân này.


trú ở Nghĩa Đàn, nhóm Cuối cư trú ở Tân Kỳ và Nghĩa Đàn, nhóm Đan
Lai - Ly Hà cư trú ở Con Cng, nhóm Tày Poọng cư trú ở Tương
Dương…


Căn cứ vào tên gọi, người ta cũng có thể nhân ra nguồn gốc các


nhóm địa phương bao gồm thành phần gốc Mường, gốc Kinh được hình
thành vào nhiều thời điểm lịch sử khác nhau.


Căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu đã công bố trước đây, ta có thể
nhận thấy cư dân Thổ mới được hình thành khoảng từ 100 - 150 năm
nay (trừ nhóm Cuối khơng nhớ rõ gốc tích tộc người). Về tộc danh của
dân tộc này, cho đến nay vẫn đanh cịn có nhiều ý kiến tranh luận thu
hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn hoá dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Cư dân Khơ - mú sống ở đầu nguồn các con suối thuộc lưu vực
sông Lam. Vùng cư trú chủ yếu của họ là lưng chừng núi nằm giữa
khoảng cư trú của người Thái và Hmông. Do lối sống du canh du cư,
phương thức canh tác còn lạc hậu, bị chúa đất người khác dân tộc chèn
ép nên vùng cư trú của họ bị phân tán và bị đẩy vào Nghệ An khoảng
trên dưới 200 năm nay. Họ có số dân trên hai vạn người, là nơI có số
dân lớn nhất trong số cư dân Khơ - mú ở Việt Nam. Nơi cư trú chủ yếu
của họ hiện nay là Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong. Cư dân Khơ
-mú ở Nghệ An có quan hệ tộc người gần gũi với những người đồng tộc
của họ ở Thanh Hoá (Bá Thước, Thanh Hoá) và Lào (được gộp chung
vào nhóm Lào Thơng có số dân trên 50 vạn người).


Bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai trị rất quan trọng trong việc thay
đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử cũng như hiện nay là hơn 21
vạn cư dân Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập trung lớn vào
loại thứ hai của cả nước (sau Sơn La trên 22 vạn)(*).


(*) Theo báo cáo của các huyện, thị và tổng hợp của Ban DT& MN
<i>tỉnh, tính đến ngày 30/6/2009, người Thái ở Nghệ An có 303.822 người,</i>
<i>chiếm 69,39% dân số đồng bào các DTTS toàn tỉnh. Theo sách " Về</i>
<i>phát triển kinh tế xã hội Nghệ An" - NXB Nghệ An năm 2006, Tr : Người</i>


<i>Thái ở Nghệ An đứng thứ 3, sau Sơn La và Thanh Hoá, chiếm 21%</i>
<i>người Thái của cả nước.</i>


Hai nhóm dân cư: người Hàng Tống, cư trú dọc đường 7A có
nguồn gốc từ Mường Muỗi (Thuận Châu - Sơn La) và người Man Thanh
cư trú chủ yếu dọc đường 48 có nguồn gốc từ Mường Thanh (Điện
Biên, Lai Châu) là thành phần chủ yếu của cư dân Thái ở Nghệ An.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Thanh Hố vào. Có ý kiến khác lại cho rằng người Thái đến Nghệ An
vào khoảng thế kỷ thứ X. Gần đây, theo tài liệu của một học giả Pháp,
người Thái đã có mặt ở vùng này trước thế kỷ VI. Hầu hết các huyện
miền núi và trung du ở Nghệ An đều có cư dân Thái sinh sống: Anh
Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và một số xã thuộc huyện đồng bằng Quỳnh
Lưu.


Từ trước đến nay, văn hố Thái ln ln giữ vị trí quan trong trong
việc giao lưu văn hoá khu vực. Xu hướng “Thái hoá” về văn hoá ở nhiều
vùng đã và đang xẩy ra, nhất là đối với cư dân ở ơ đu, một bộ phận cư
dân ở Khơ - mú sống xen kẽ cư dân Thái, và ở một bộ phận người Thổ
(nhóm Tày Poọng).


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Trong các tỉnh ở Bắc miền Trung, Nghệ An có thành phần cư dân
phong phú và có tính biệt lập tương đối về mặt thành phần cư dân.
Ngoài tộc người Kinh (Việt), sống đan xen ở các thị trấn, cơng nơng lâm
trường quốc doanh và một số ít Hoa Kiều, Lào Kiều, số dân cư dân tộc
thiểu số ở miền núi Nghệ An thuộc 5 thành phần dân tộc sau đây:


- Dân tộc Thổ bao gồm các nhóm Cuối, Mọn, Đan Lai - Ly Hà và
Tày Poọng thuộc nhóm Ngôn ngữ Việt - Mường.



- Dân tộc Khơ - mú thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơme.
- Dân tộc ơ đu thuộc nhóm Mơn - Khơme.


- Dân tộc Thái bao gồm các nhóm: Man Thanh, Hàng Tổng, Tày
Mười thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Dân tộc Hmông bao gồm các
nhóm Hmơng Trắng và Hmơng Đen thuộc nhóm ngơn ngữ Hmông
-Dao.


Địa bàn cư trú của các cư dân trong vùng có mặt các thành phần 4
nhóm ngơn ngữ chủ yếu ở nước ta. Đây là điểm cực Nam của các cư
dân Hmơng ở nước ta, ranh giới phía Nam của các cư dân Tày - Thái,
điểm duy nhất ở nước ta có người ơ - đu. Là nơi tập trung nhất và đông
nhất cư dân Khơ - mú và là nơi có cư dân Thổ nhiều nhất với các nhóm
địa phương rất phức tạp và đang là một trong những điểm nóng về
nghiên cứu khoa học về thành phần tộc người có liên quan đến nguồn
gốc dân tộc Việt.


Có một điều là là ở miền núi Nghệ An phong phú về thành phần dân
tộc như vậy, nhưng đi dần về phía Nam sang địa bàn miền núi Hà Tĩnh,
đến tận giáp giới Quảng Bình mới có đồng bào dân tộc thiểu số; Địa bàn
miền núi Nghệ An nằm ở vị trí địa lý rất thuận lợi khơng chỉ đảm bảo cho
những điều kiện tự nhiên mơi trường sống thích hợp mà còn là ngã tư
của các đường thiên di của các luồng cư dân trong lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

chân thềm cao nguyên Trấn Ninh, là vùng được các nhà Địa lý học coi
là cuống phễu hẹp nhất từ Bắc vào Nam, là nơi thu nhận sự di thực của
thực vật, di cư của động vật và thiên di của cư dân từ Bắc xuống Nam
-luồng di dân có tính quy luật trong lịch sử các tộc người trong vùng.



Đây cũng là vùng đất nằm ở giao điểm của các luồng đường giao
thông quan trọng trong lịch sử. Lưu vực sông Cả với các chỉ lưu chạy từ
Lào qua vùng đất này để đổ ra Biển Đông là điều kiện thuận lợi cho sự
di cư xuống - ngược dọc đầu khe ngọn xuối đến đôi bờ hạ lưu. Sự tăng
giảm đáng kể của dân số các dân tộc Khơ - mú, Ơ đu trong vùng, trong
lịch sử là những minh chứng cho sự chiếm cứ một cách thuận lợi những
vùng đất mà điều kiện đi lại, điều kiện tự nhiên cho phép. Người Thổ với
nhóm Tày Poọng (Tương Dương) Đan Lai - Ly Hà (Con Cng) hay các
nhóm Mọn, Họ, Cuối (Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp) đều có quan hệ
nguồn gốc với các cư dân hoặc là ven biển Cửa Hội (?) hay là Yên
Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu ngược ngàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Những tài liệu từ trong vòng dăm bảy chục năm gần đây cỏ thể cho
phép ta thấy rằng: Sự gia tăng dân số diễn ra rất mãnh liệt ở trong vùng.


- Năm 1934 có khoảng 25.000 - 25.000 người
- Năm 1936 có khoảng 30.000 người


- Nămg 1960 có 115.901 người
- Năm 1979 có 218.054 người
- Năm 1983 có 235.000 người
- Năm 1989 có 289.815 người


Hiện nay miền núi Nghệ An có 596.524 người, trong đó có 279.161
người Kinh <b>(*)</b><sub>. Sự biến động về thành phần dân cư vẫn tiếp tục xảy ra</sub>
ngoài những nguyên nhân từ tỷ lệ sinh - tử (gia tăng dân số tự nhiên)
cịn có sự gia tăng do sự điều chỉnh của Nhà nước và đặc biệt là
……….


(1): Xin xem phần phụ lục



<i>(*): Theo tổng hợp của Ban DT & MN tỉnh qua báo cáo của các</i>
<i>huyện, thị, tính đến ngày 30/6/2009, miền núi Nghệ An có 1.145.433</i>
<i>người, trong đó có 436.074 người DTTS (chiếm 38%), 709.359 người</i>
<i>Kinh (chiếm 62%)</i>


di cư tự do lối sống du canh du cư của nhiều nhóm dân tộc vẫn chưa
được chấm dứt. Điều đó vàng làm cho các bảng biểu điều tra dân số,
dân tộc càng thêm phức tạp. Theo số liệu của cuộc Điều tra dân số
ngày 1 tháng 4 năm 1989 dân số các thành phần dân tộc ở miền núi
Nghệ An được phân bố như sau:


Dân số các dân tộc thiểu số cư trú ở các huyện trong tỉnh <b>(1)</b>


<b>T</b>
<b>T</b>


<b>Huyệ</b>
<b>n</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25></div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Sơn
Quỳn
h Lưu
<b>Tổng</b>
<b>cộng</b>
32.93
3
211.31
6
7.76


6
40.44
5
273
1
20.23
5
2.26
9
17.66
5
2
3
194


Mối tương quan về dân số các dân tộc thiểu số hiện nay ở miền núi
Nghệ An (*)


Dân tộc Thái Thổ Khơ



Hmô
ng
ơ
đu
Tương quan


Dân số
(người)



Tỷ lệ (%)


211.3
16
72
40.4
45
13
20.23
5
0,6
17.66
5
0,5
194
0,0
06
...


(1) Tài liệu dựa theo Ban Dân tộc và miền núi Nghệ An


(*): Mối tương quan về dân số các DTTS ở Nghệ An tính đến 30/6/2009:


Dân tộc Thái Thổ Khơ



Mơng ơ
đu
Tương quan
Dân số


(người)
Tỷ lệ (%)


303.882
69,3
9
67.8
19
15,4
9
35.68
6
8,15
29.41
2
6,72
613
0,1
5


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Có thể so sánh mối tương quan về số dân so với diện tích đất đai
như sau <b>(1)</b><sub>:</sub>


Tương quan Đất đai


(%)


Dân số
(%)
Các vùng



Miền núi
Trung du
Đồng bằng


56
26
18


7
18
75


Sự phân bố dân cư của các dân tộc thiểu số ở miền núi Nghệ An có
đặc điểm nổi bật, vừa mang tính chất thống nhất của các dân tộc ở miền
núi phía Bắc nước ta vừa có tính chất khu vực tương đối dễ nhận.


Vùng cư trú của các dân tộc không phân biệt rõ giữa lãnh thổ tộc
người và lãnh thổ hành chính. Họ sống xen kẽ nhau, tuy có một số vùng
có tính chất biệt lập nhưng không phổ biến. Một số vùng tương đối đông
của cư dân Thái như ở Quỳ Châu, Quế Phong, Con Cuông, Tương
Dương, Quỳ Hợp; cư dân Hmông, Khơ - mú ở Kỳ Sơn, cư dân ở đu ở
Tương Dương; cư dân Thổ ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp. Một số
nhóm địa phương sống độc lập với khối cộng đồng đơng đảo của họ
như nhóm Tày - Poọng thuộc dân tộc Thổ (ở Bản Phồng, xã Tam Thái,
huyện Tương Dương), nhóm Đan Lai - Ly Hà thuộc dân tộc Thổ (ở Môn
Sơn, Lục Dạ, ……….


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

huyện Con Cuông), dân tộc ơ đu (ở Kim Đa và Kim Tiến, huyện Tương
Dương)… Tình trạng đó dẫn đến việc trên cùng một địa bàn, có xã có


đến 3 - 4 thành phần dân tộc cùng cư trú, có huyện có đến 3 thành phần
dân tộc cư trú (huyện Kỳ Sơn có 4 thành phần dân tộc có số dân tương
đương nhau). Vì thế, mật độ dân cư cũng khơng đồng đều. ở các thung
lũng có đất đai thuận lợi cho trồng trọt mật độ dân số cao và ngày càng
thu hút dân cư từ nơi khác đến. Hiện tượng tranh chấp đất đai trong lịch
sử cũng như cho đến nay ln ln là vấn đề nóng bỏng và nan giải cho
các cấp quản lý hành chính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

làm ruộng bậc thang, ở một số nơi kết quả bước đầu rất đáng phấn khởi
(xã Na Ngoi, huyện Kỳ Sơn).


Đặc điểm đáng chú ý ở miền núi Nghệ An là mặc dù sống xen kẽ
hay biệt lập, ở thị trấn đông người hay ở vùng cao, vùng sâu xa xôi mối
quan hệ về dân tộc vẫn giữ được khá chặt chẽ. Tuy chợ miền núi chưa
phát triển nhưng những điểm tụ cư đông đúc, những dịp hội hè, giao
duyên nam nữ… vẫn là những điều kiện thuận lợi cho sự gặp gỡ tiếp
xúc tăng cường mối quan hệ dân tộc lành mạnh.


Tuy thực tế ở vùng này có nhiều dân tộc cùng cư trú nhưng số dân
ở mỗi dân tộc cũng chênh lệch nhau. Người ơ đu chỉ còn một vài trăm
người, đang có nguy cơ hồ tan vào cộng đồng Thái. Dân tộc Thái có số
dân đơng nhất và thực sự là dân tộc đa số ở trong vùng.


ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá Thái diễn ra trong cộng đồng
các dân tộc trong vùng là hết sức phổ quát, mãnh liệt và ngày càng tăng
nhanh.


Quá trình hình thành tộc người trong vùng trong lịch sử đã để lại
bức tranh phân bố tộc người mang đặc điểm như là bức tranh thu nhỏ
của sự phân bố cư dân các dân tộc ở nước ta; phong phú và đa dạng,


vừa có những tính biệt lập riêng độc đáo vừa có tính thống nhất về văn
hố. Cịn một số vấn đề nổi cộm lên về quan niệm trong đồng bào các
dân tộc thiểu số cũng như ở một số ngành, giới nghiên cứu khoa học
như: tên gọi dân tộc Khơ mú, hiện tượng di cư của đồng bào Hmông và
Khơ - mú trong khu vực, các nhóm địa phương của đồng bào Thổ (nhất
là Đan - Lai, Ly - Hà, Tày Poọng…) nguồn gốc lịch sử các tộc người
trong vùng, sự “đồng hoá tự nhiên” của đồng bào Ơ đu v.v…


<b>IV. Một số đặc điểm về kinh tế – xã hội văn hoá</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

chưa dễ dàng trả lời, cho nên những đặc điểm chùng của các khối cộng
đồng các dân tộc trong vùng là điều chưa thể thống nhất về nhận thức.


Cư dân có số dân đơng nhất là đồng bào Thái, trước Cách mạng
tháng Tám 1945 đã đạt đến trình độ cao trong việc canh tác ruộng
nước. Nhiều thành tựu về sản xuất kinh tế được ghi nhận là một truyền
thống ổn định như kỹ thuật làm đất, dẫn nước vào ruộng, luân canh xen
vụ, sản xuất kết hợp với bảo về môi sinh, một số nghề thủ công nghiệp
đạt kỹ xảo ca như dệt thổ cẩm v.v…


Đồng bào Thổ, Khơ - mú, Hmông và ơ đu sống bằng kinh tế nương
rẫy là chủ yếu. Song sự khác nhau cũng thể hiện ở mức độ đậm nhạt.
Người Thổ có chiếc “Cày nại”, biết làm ruộng nước. Người Hmông
thành thạo trong việc canh tác nương rẫy, vườn rẫy gia đình, sử dụng
thành thục chiếc cuốc bướm trên vùng đất có độ dốc cao. Người Khơ
-mú cịn đang trong tình trạng phát đốt, chọc lỗ tra hạt du canh du cư,
phân phối sản phẩm cịn bình qn ngun thuỷ.


Nghề trồng gai và chế biến sản phẩm từ cây gai của đồng bảo Thổ,
nghề rèn và săn bắn ở đồng bào Hmông, nghề đan lát ở đồng bào Khơ


-mú… là những ngành nghề kinh tế đặc trưng của đồng bào.


Nền kinh tế “Săn bắt - hái lượm” vẫn cịn đóng vai trị khá quan
trọng trong đời sống của đồng bào nhất là ở những cư dân cịn trong
tình trạng du canh di cư như đồng bào Khơ - mú, một bộ phận khá lớn
đồng bào Hmơng và một số nhóm địa phương người Thổ. Tuy nhiên
sống giữa một vùng thiên nhiên đa dạng, ngay cả đồng bào Thái, Kinh,
“kinh tế tự nhiên” vẫn cịn có vị trí đáng kể trong đời sống kinh tê.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

đã được quy định thành lệ mường luật bản khắt khe. Chế độ đẳng cấp
được xác lập. Vai trị của dịng họ khơng chỉ là yếu tố huyết thống mà
cịn mang tính giai cấp và đẳng cấp.


Từng địa phương đã có những dịng họ q tộc qui định rõ trách
nhiệm quyền lợi. Các quan hệ Bản, Gia đình, Dịng họ có những chế
định rõ ràng thể hiện một xã hội đã phát triển tương đối cao.


Người Khơ - mú mới vào miền núi Nghệ An trong vòng vài ba trăm
năm nay cịn trong tình trạng sản xuất nương rẫy với công cụ thô sơ.
Sản phẩm lao động ít ỏi và bấp bênh, phân phối sản phẩm còn mang
nặng dấu vết bình qn ngun thuỷ, tích luỹ của cải cịn ít ỏi… chưa đủ
sức để xuất hiện một xã hội phân hố giai cấp ở trình độ cao. Sự tương
thân tương ái trong hoàn cảnh nay đây mai đó đóng vai trị quan trọng
trong lối sống xã hội của đồng bào.


Người Hmông đến vùng rẻo cao Nghệ An với hành trang của cư
dân tổ tiên đã từng thành thạo tài năng trong canh tác nương rẫy ở vùng
rừng núi cao Tây Bắc. Gặp vùng rừng đất tốt, chiếc cày Hmông không
cần thiết phải sử dụng, sản xuất nương rẫy đủ sinh sống và quên dần
món “mèn mén”. Nhưng tài nguyên dù phong phú đến đâu cũng có giới


hạn. Lối sống du canh du cư truyền kiếp do quá khứ để lại cộng với
sự tàn kiệt của môi sinh tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế và quan
hệ xã hội của người Hmông. Xã hội được phân chia đẳng cấp, giai cấp
mang nặng ảnh hưởng dòng họ ngự trị trong quan hệ xã hội của họ. Xã
hội của họ tổ chức chặt chẽ, ít biến đổi trong thực tế biến động của xã
hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Các nhóm địa phương người Thổ cho dù nguồn gốc khác nhau,
sống ở những vùng đất cách nhau rất xa song cách thức sản xuất, phân
phối sản phẩm và tổ chức xã hội về cơ bản vẫn là một nền tương đồng.
Gốc Việt - Mường tách ra chưa xa lắm, các nhóm địa phương người
Thổ vẫn giữ thiết chế xã hội cổ truyền của các cư dân Việt - Mường
sống kề cần (người Thổ, Mường ở Thanh Hoá, người Kinh ở các huyện
đồng bằng ở Nghệ An hay cư dân Tày Pụm, Tày Tum ở Lào).


Vấn đề sở hữu đất đai là yếu tố bao trùm lên các yếu tố của sinh
hoạt kinh tế, chế độ xã hội và cả sinh hoạt văn hoá.


Sự khác nhau ở mỗi cư dân của các dân tộc nói trên đã làm cho sự
phong phú được thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau khá đậm. Yếu tố
đồng hoá (bao gồm cả đồng hoá tự nhiên và đồng hố cưỡng bức), hồ
hợp dân tộc hay cố kết dân tộc là những sức tác động liên tục, đáng kể
đến mối quan hệ nhiều mặt giữa các dân tộc trong vùng. Q trình “tiếp
biến văn hố” (chữ mới của Giáo sư Hà Văn Tấn) diễn ra rất mạnh mẽ,
nhất là trong thời hiện đại.


Vườn hoa đầy sắc hương về văn hoá của các dân tộc ở miền núi
Nghệ An đang toả trên phố rộng. Giữ gìn, bảo lưu, kế thừa có chọn lọc
đối với di sản văn hoá dân tộc của đồng bào đang là vấn đề cấp bách,
cần thiết, không chỉ đối với ngành Dân tộc học.



<i><b>Chương Hai</b></i>


<b>Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An</b>
<b>1. Dân tộc thổ</b>


Dân tộc Thổ là một cộng đồng dân cư bao gồm các nhóm người
mang tên Kẹo, Mọn, Cuối, Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng <b>(1)</b><sub> cư trú ở các</sub>
huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Con Cuông và Tương Dương có
số dân 40.445 người tính đến 1/4/1989 <b>(*)</b><sub>. Tên gọi Thổ mới </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

(1) Tổng cục Thống kê - Danh mục các thành phần dân tộc Việt
Nam. Hà Nội, ngày 02/3/1979


<i>(*): Theo tổng hợp của Ban DT & MN, tính đến 30/6/2009, người</i>
<i>Thổ ở Nghệ An có 67.819 người, chiếm 15,49% dân số DTTS tồn tỉnh.</i>
có từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Trước đây họ được gọi bằng
các tên gọi khác nhau như Nhà Làng, Côn Khạ, Xá… Các tên gọi mang
ý nghĩa không đúng đắn nên không được đồng bào chấp nhận.


Các cư dân Đan Lai - Ly Hà và Tày - Poọng được các nhà Dân tộc
học gọi là các nhóm địa phương (localgroup). Người Đan Lai - Ly Hà
hiện đang cư trú tại các xã Môn Sơn và Lục Dạ thuộc huyện Con Cuông
hiện nay. Người Tày Poọng cư trú tại bản Phồng, xã Tam Thái, huyện
Tương Dương.


Việc điều tra dân số đồng bào Thổ từ trước tới nay rất khó khăn vì
ngồi sự biến động tự nhiên, cịn có khó khăn do tộc danh khơng thống
nhất. Nhiều lần, nhóm Tày Poọng bị góp vào dân tộc Thái hay tách riêng
Đan Lai - Ly Hà thành một dân tộc riêng. Số liệu dân số sau đây dùng


để tham khảo về sự phân bố, gia tăng dân số và những lệch lạc đó.


<b>Huyện</b> <b>Nghĩa</b>


<b>đàn</b> <b>Quỳ Hợp</b> <b>Tân Kỳ</b>


<b>Con</b>
<b>Cng</b>
<b>Tương</b>
<b>Dương</b>
<b>Năm</b>
1970
1984
1990
10.13
9
12.82
2
16.44
7
6.200
7.675
11.51
5
4.580
6.572
21.90
7
400
1.162



Điều tra theo
tộc danh Thái


357


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Sự khác nhau về tên gọi của các nhóm người nói trên nằm trong
cộng đồng dân tộc Thổ đã nói lên thành phần khá phức tạp của một dân
tộc với số dân ít ỏi được phân bố trên một địa bàn rộng với nhiều nhóm
tách biệt nhau. Ngay cả tiếng nói của họ giữa các nhóm dân cư cách xa
nhau cũng rất khó khăn trong việc giao tiếp trong nội bộ những người
đồng tộc. Điều này làm cho các nhà nghiên cứu từ trước đến nay gặp
nhiều sai sót trong việc xác định danh mục dân tộc này.


Mặc dù tên gọi Thổ được Nhà nước công nhận và trở thành tên gọi
thống nhất trong cả nước <b>(1)</b><sub> nhưng cho đến nay ý kiến tranh luận về tộc</sub>
danh này vẫn chưa phải đã kết thúc <b>(2)</b><sub>.</sub>


………
(1) Như trang bên


(2) Có nhiều ý kiến cho rằng cộng đồng Thổ là tộc người (ethnos)
nhưng hiện nay đanh có một số ý kiến khác, có ý kiến cho rằng dân tộc
Thổ là bộ tộc , có ý kiến cho là các nhóm địa phương người Việt. Nhóm
Kủo (gốc người Việt) hiện cư trú tại các xã Nghĩa Tiến (trừ làng Cát
Mộng), Nghĩa Lợi, Nghĩa Đức, Nghĩa Quang (làng Dương), Nghĩa
Thắng (làng U, làng Rai), thuộc huyện Nghĩa Đàn và các xã Hạ Sơn,
Văn Lợi, Tam Hợp… thuộc huyện Quỳ Hợp. Nhóm Mọn (gốc người
Mường) hiện cư trú tại làng Cát Mộng xã Nghĩa Tiến, xã Nghĩa Đức, xã
Nghĩa An… huyện Nghĩa Đàn.



Nhóm Cuối được coi là cư dân bản địa hiện cư trú tại các xã Tân
Hợp huyện Tân Kỳ, làng Lơ, làng Rạch, làng Đống ở xã Nghĩa Quang,
huyện Nghĩa Đàn. Hai vùng này có tiếng nói nặng - nhẹ khác nhau nên
phân biệt: Cuối Chăm (Cuối Tẻ) ở Tân Hợp và Cuối Niêu ở Nghĩa
Quang có nhiều ý kiến cho rằng đồng bào Đan Lai ở Mường Quả (Con
Cng) cũng thuộc nhóm này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Nghịu, Co Phát (xã Môn Sơn) bản Khe Mọi (xã Lục Dạ) xen kẽ người
Thái ở bản Khe Choang (xã Châu Khê), bản Yên Khê (xã Trung Chính)
thuộc huyện Con Cuông bản Văng Muông, Trung Hương (xã Tam
Quang) và người Tày Poọng ở Bản Phồng (xã Tam Thái), huyện Tương
Dương.


Người Thổ là cư dân nói ngơn ngữ Việt - Mường. Điều này các nhà
nghiên cứu đã thừa nhận những việc tìm hiểu về dân tộc này cần được
tiếp tục đặt ra tìm nguồn gốc sâu xa của các cư dân Việt - Mường.


Vùng cư trú của đồng bào Thổ hiện nay là vùng giao điểm của
nhiều đường thiên di của các luồng cư dân trong khu vực miền núi Nghệ
An. Đây là khu đệm từ đồng bằng lên miền núi cao phía Tây, là vùng
đệm giữa vùng núi Tây Bắc kéo trũng xuống phía Nam. Điều dễ nhận
thất là địa bàn sinh sống hiện nay của người Thổ Nghệ An gồm hai khối
cư dân cư trú tương đối tập trung nhưng lại ở cách xa nhau, gần như
biệt lập với nhau. Khối cư dân đơng đúc hơn ở phía Đơng Bắc bào gồm
các nhóm Kẹo, Mọn và Cuối. Khối cư dân ít hơn ở phía Nam bao gồm
các nhóm Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng. Các nhà Dân tộc học đã từng
nghiên cứu dân tộc này đều cho đó là các nhóm địa phương.


Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu từ trước tới nay về dân tộc


Thổ của nhiều người, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: Dân tộc học,
Ngơn ngữ học, Văn hố dân gian… kết hợp nguồn tư liệu điền dã trong
những năm gần đây, chúng tơi thấy cộng đồng người Thổ được hình
thành bằng các nhóm địa phương sau đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

………


(1) Các nhóm Mọn, Họ, Cuối gọi người Kinh cũng là “Kẹo”


Diễn Tháp (Diễn Minh - Diễn Châu ngày nay) hoặc là Quỳnh Lưu,
Yên Thành<b>(1)</b><sub>, thậm chí trong số cư dân Kẹo. Họ cịn có dịng họ gốc gác</sub>
ở Đức Thọ, Cẩm Xuyên (thuộc Hà Tĩnh), hoặc Hưng Nguyên <b>(2)</b><sub>. </sub>


Trong ký ức của đồng bào vẫn còn nhớ những biến động lịch sử
lớn của một thời xa xăm buộc họ phải chuyển cư lên miền núi sinh sống
để trốn tránh tô thuế nặng nề của chế độ phong kiến ở miền xuôi, hoặc
để lẩn tránh các bệnh dịch <b>(3)</b><sub> v.v… Có nơi đồng bào còn kể lại</sub>
………


(1) Từ thời Lê huyện Đông Thành bao gồm đất của huyện Yên
Thành và Diễn Châu ngày nay huyện Quỳnh Lưu thời thuộc Minh là đất
các huyện Quỳnh Lâm, Phù Lưu, Trà Thanh thuộc phủ Diễn Châu. Lúc
bấy giờ, Quỳnh Lưu bao gồm cả Nghĩa Đàn ngày nay. Vì vậy cư dân
người Kinh chuyển cư từ Diễn Châu và Quỳnh Lưu lên Nghĩa Đàn (bao
gồm cả Quỳ Hợp) là sự di chuyển dân cư trong một huyện.


(2) Dòng họ Trương (2 bản ở xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp) có gốc ở
Bùi Xá, huyện Đức Thọ mới lên lập nghiệp 10 - 11 đời . Hai anh em Tơ
và Tưởng là người có cơng lập bản. ở xã Văn Lợi (huyện Quỳ Hợp) có
họ ở Bản Sồng, gốc ở tổng Mỵ Duệ (huyện Cẩm Xuyên). Nhiều dòng họ


gốc ở Hưng Nguyên lên xây dựng kinh tế mới từ 1960 do sống gần
người TháI, tách biệt với người Kinh nên ảnh hưởng văn hoá Thổ khá
đậm nét. Gần đây, trong các văn bản hành chính của họ, nhiều gia đình
đã khai là dân tộc Thổ. Những cặp vợ chồng khác dân tộc thì con cái
của họ đều ghi là người dân tộc. Điều này làm cho công tác điều tra
thành phần dân cư dễ nhầm lẫn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Lợi. Nghĩa Đức đều chép họ có nguồn gốc người Kinh. Nếu tính 20
năm/1 thế hệ, thì họ đã có mặt ở vùng này khoảng 150 - 200 năm. Tư
liệu này phù hợp với các nguồn tài liệu của sử giả Triều Nguyễn “năm
1819 dân Nghệ An phiêu tán mất 20.000 người. Chỉ trong 2 năm (1817
-1819) vì dân “tránh chỗ nặng đến chỗ nhẹ” (Thuế khoá - N.Đ.L). Sách
“Đại nam thực lục chính biên” chép: “Năm 1820, các huyện Đông
Thành, Quỳnh Lưu, Thanh Chương (thuộc Nghệ An) phiêu tán mất 7 xã
thôn, 191 người, bỏ hoang 140 mẫu ruộng. Cả hạt phiêu tán mất 63
thôn. Năm 1834 “Nghệ An mất 22 xã thơn”.


Gia phả nhiều dịng họ ở Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Con Cuông ghi chép
khá rõ về phạm vi hoạt động và ảnh hưởng trực tiếp của nghĩa quân Lê
Duy Mật đối với sự phân bố cư dân trong vùng. Khởi nghĩa Lê Duy Mật
kéo dài trên 32 năm (1738 - 1770), hoạt động rộng khắp miền núi Nghệ
An, từ Giai Xuân (Tân Kỳ) là căn cứ đầu tiên đến đồn Trình Quang ở
Trấn Ninh (tức tỉnh Xiêng Khoảng của Lào). Nghĩa quân đã hành quân
và đánh chiếm một số đồn bốt quan trọng như đồn Pù Piệt (xã Thông
Thụ, Quế Phong), đồn Ta Leo (Kỳ Sơn), đồn Mường Mật (xã Thạch
Giám, Tương Dương), đồn Hoa Quân (Thanh Chương) và có nhiều lần
tiến qn ra Thanh Hố rồi quay về Tân Kỳ…


những ấn tượng hãi hùng về những trận tranh chấp đất đai trong
các vụ “loạn giặc Xá” (có thể là tranh chấp đất đai với các tộc làng giềng


như Thái hoặc các nhóm địa phương người Thổ nhưng gọi đối phương
bằng “Xá”). Đồng bào vẫn còn nhớ về sự kiện “quân quan Lê Duy Mật”
một thời náo động núi rừng Thượng du làm xáo trộn thành phần cư dân
trong vùng, không chỉ dân tộc Thổ mà cả các dân tộc khác <b>(1)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Phần lớn đồng bào tự nhận là gốc Mường, một số ít nhận là gốc Việt <b>(2)</b><sub>.</sub>
Phần đông đồng bào cư trú ở Tổng Lâm La cũ.


Nhóm cư dân mang tên “Cuối” được nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc
học gọi là lớp cư dân bản địa. Có người gọi đó là những “ốc đảo” cịn
sót lại của người Việt cổ trong q trình bước vào thời kỳ phân hố Việt
- Mường. Tiếng nói của họ có nhiều yếu tố giống tiếng nói cư dân Đan
Lai - Ly Hà và Tày Poọng. Đây là nhóm cư dân có tiếng nói mang nhiều
yếu tố cổ xưa hơn cả, khơng giống tiếng nói của các nhóm khác đến
mức họ khơng thể giao tiếp được <b>(3)</b><sub>. Vì thế nhiều nhà Ngôn ngữ học cho</sub>
rằng tiếng Cuối là một ngôn ngữ độc lập, song song với tiếng Mường,
tiếng Việt và tiếng Chứt chứ không phải là phương ngôn tiếng Mường.
Qua câu chuyện truyền miệng của các cụ già và một bài cúng khi đưa
người chết có thể đốn định nguồn gốc lâu đời của họ trên vùng đất mà
họ đang cư trú <b>(4)</b><sub>.</sub>


……….


(1) Các dòng họ gốc người Việt từ Yên Thành, Diễn Châu lên là: Họ
Lê (Làng Vơn), họ Cao, Trương (Nghĩa Lợi), họ Nguyễn, Võ, Vũ
Trương, Hồ (Nghĩa An), họ Hoàng, Trương (Nghĩa Đức), họ Lê (Nghĩa
Quang), họ Phan (Tân Hợp), các họ gốc Mường (Như Xn, Ngọc Lạc
-Thanh Hố) có Lê Vũ, Lê Văn, Lê Trọng, Lê Khắc, Lê Đăng. Thi Nhị
trong bài “Vài nét về người Thổ Nghệ An” cho biết trong 21 họ thì có 17
họ gốc Việt, 4 họ gốc Mường



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Mường và người Thổ gốc Việt khác nhau vẻ bể ngoài là: Váy phụ nữ
Thổ gốc Mường dài hơn váy người Thổ gốc Việt.


(3) Nguyễn Văn Tài cho rằng: “Hai nhóm này tiếng nói khá khác
nhau, khơng thể dùng tiếng mẹ đẻ của mình để giao tiếp chung được”.


(4) Bài văn cúng của thày cúng bản Sồng (Hạ Sơn, Quỳ Hợp) và
bài cũng của thày cúng ở Tân Hợp, Tân Kỳ (nhóm Cuối Chăm) đều
nhắc đến các địa danh đất đai quanh vùng trên đường về tổ tiên. Tác
giả sưu tầm ở Hạ Sơn, Văn Lợi, Quỳ Hợp 6 - 1979.


Người Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng ở các xã Môn Sơn, Châu
Khê, Lục Dạ (thuộc huyện Con Cuông) và người Tày Poọng ở bản
Phông xã Tam Thái (thuộc huyện Tương Dương) trước đây được nhiều
nhà Dân tộc học thống nhất cho rằng họ là cư dân Kinh di cư từ thượng
huyện Thanh Chương lên tận huyện Con Cuông và ở lại đầu nguồn
sông suối dọc biên giới Việt - Lào và mở rộng nơi sinh sống lên tận hạ
Tương Dương: Nơi ở tương đối ổn định từ sau Cách mạng tháng Tám
đến nay. Các dân tộc kề cạnh, kể cả các nhóm người Thổ khác coi họ
cũng như người Cuối Chăm ở Tân Kỳ là lạc hậu hơn. ở đây, đồng bào
có quan hệ xã hội gần gũi với người đồng tộc của họ ở Lào thuộc các
nhóm Tày Pụm, Tày Tăm, Tày Chăm, Tày Hung đang sinh sống ở vùng
Khăm Muộn <b>(1)</b><sub>.</sub>


Người Đan - Hy La cư trú ở vùng Khe Chặng, Khe Choang là
những chỉ lưu của Sơng Lam, có quan hệ nguồn gốc với cư dân vùng
Thanh Chương và cư dân ven biển Cửa Hội <b>(2)</b><sub>.</sub>


………



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Ngọc Ma). Thời Gia Long cho thuộc vào Vạn Tượng Năm Minh Mệnh
thứ 8 (1827) đặt làm phủ Trấn Đinh gồm các huyện Cam Môn, Cam Cát,
Cam Linh (thuộc Khăm Muộn hiện nay).


(2) Điều này còn là vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ thêm bởi cư dân
ven biển n chài cho dù được đưa lên vùng đất tốt ở ven sông làm nông
nghiệp cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi quay lại lối sống sông nước
(N.Đ.L). Nhận định trên đây của Đặng Nghiêm Vạn có căn cứ vào tài
liệu của Mạc Đường và Vương Hoàng Tuyên về việc sưu tầm được
chuyện kể dân gian về cư dân vùng Hoà Quân, Thanh La (thuộc huyện
Thanh Chương) khơng chịu được ách bóc lột hà khắc của chúa đất địa
phương phải bỏ lên cư trú tại Khe Khăng (nhóm mang tên Ly Hà, gọi là
nhóm anh) và Khe Choang (nhóm mang tên Đan Lai, gọi là nhóm em).
Ngồi ra cịn một nhóm sang tận đất Lào, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng:
những người này có thể có mối quan hệ nguồn gốc căn cứ vào tài liệu
địa danh như tên “Đan” là tiếng phổ biến chỉ một số tên đất ở vùng này
(như Xuân Đan, Đan Phổ) thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Thêm một
chứng cớ là vào dịp Uỷ ban hành chính tỉnh Nghệ An tổ chức Hội nghị
đại biểu các dân tộc miền núi tại Cửa Lò, tháng 10 - 1973, một số đồng
bào khi tiếp xúc với cư dânh ven biển Nghi Lộc đã giao tiếp đước với
nhau tương đối dễ dàng. Tác giả nêu lên để bạn đọc tham khảo. Trong
điều kiện tư liệu hiện nay, tác giả chưa có thể kết luận được.


Theo Đặng Nghiêm Vạn, có thể họ là cư dân từ Thanh Chương,
Nghi Xuân, Nghi Lộc chuyển lên do không chịu nổi chế độ tô thuế và
ách áp bức cường hào của các quan lại phong kiến địa phương trước
đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Người Thổ sinh sống dựa chủ yếu vào kinh tế nương rẫy. Số ruộng


đất để làm lúa nước rất ít. Vì thế, ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp đất
đai đã phải qua nhiều chu kỳ phát đốt nên tầng đất mùn trên mặt đã bị
bào mòn hàng chục đời nay, nên đất đai cằn cỗi. Hơn nữa tuy gần các
sông suối lớn nhưng việc khắc phục nước tưới cho cây trồng không
thực hiện được. Rẫy dốc, nghèo mùn và khô là đặc điểm đất canh tác ở
vùng cư trú của người Thổ. Lúa rẫy khơ và cây gai là hai loại cây sống
thích hợp với loại đất này. Do áp lực của lịch sử di dân và sự gia tăng
dân số mà họ phải khắc phục sự khắt khe của thiên nhiên ở đây để tồn
tại. Trình độ canh tác rẫy đất dốc khá cao thể hiện ở khâu làm đất. Cơng
cụ điển hình của họ là chiếc “cày nại” (cần nộn) giống chiếc cày chia đôi
của người Kinh trước Cách mạng Tháng Tám. Bên cạnh “cày nại” là gậy
chọc lỗ tra hạt (gọi là cần món, tầm rói) - một cơng cụ khá điển hình của
phương thức canh tác của cư dân đang ở trình độ canh tác bằng cơng
cụ cầm tay. Năm đầu tiên sau khi phát đốt, người ta dùng gẫy chọc lỗ, vì
lớp mùn đất cịn dày. Từ năm sau trở đi, người ta mới dùng cày bừa <b>(1)</b><sub>.</sub>
Trong sản xuất, phân công lao động phổ biến theo giới. Các hộ tương
trợ nhau đổi Công làm mùa. Thường thường 3 người nam chọc lỗ (tẩm),
7 phụ nữ đi theo tra hạt (rói). Khi gieo vãi xong (vạt) cày lấp đất (cần
vạt), bừa lại (bừa vạt). Mỗi chu kỳ sản xuất thường làm cỏ 2 lần. Chu kỳ
làm rẫy: trước tết âm lịch: phát đốt; sau tết âm lịch: thu gọn cây to đốt
lại; tháng 3 và 4: gieo hạt; tháng 9: thu hoạch. Thu hoạch lúa bằng công
cụ rất thô sơ: dùng miếng sắt mỏng (0,015m x 0,03m) mài mỏng một
mép làm hái, gọi là hái cú (nái lạch). Cùng với trồng lúa, đồng bào trồng
gối vụ, xen canh sắn, ngơ, đỗ, lạc, mía…


………..


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Người Thổ có nghề trồng gai và chế biến các sản phẩm từ cây gai
rất phát triển. Nghề này chủ có ở vùng Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và Quỳ Hợp,
khơng có ở Con Cng và Tương Dương. Sản phẩm của nghề đan sợi


gai được bà con trong vùng ưa chuộng, khả năng tiêu thụ đã vượt ra
ngoài nội bộ dân tộc là võng, lưới săn thú, lưới đánh cá, đồ đựng v.v…
Người Thổ dùng các sản phẩm này để đổi lấu những thứ mà dân tộc
mình khơng sản xuất được, chủ yếu là quần áo. Sản phẩm từ sợi gai đã
trở thành gần gũi quen thuộc đối với người Thổ và nhờ đó nghề chế
biến sản phẩm gai đã tích luỹ được những kinh nghiệm sản xuất quý
giá.


Nghề đan lát khá phổ biến trong hầu hết đàn ông người Thổ. Nhiều
loại sản phẩm đẹp đem đổi chác, mua bán với các cư dân quanh vùng
được nhiều người ưa thích (như ghế mây, bồ đựng quần áo, hộp kim
chỉ…) nhất là các sản phẩm của cư dân Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng.


Cư trú dọc các sơng suối lớn, đồng bào Thổ có nhiều phương pháp
đánh bắt cá cổ truyền ít thấy ở các dân tộc khác. Trên dịng sơng Dinh,
sơng Hiếu, lịng sông rộng, nước chảy mạnh, về đếm, đồng bào bằng
tay không vẫn bắt được cá ngủ (gọi là bắt cá “nạc”) theo kiểu rái cá với
số lượng lớn. Việc bắt cá ngủ của họ đã trở thành kỹ xảo. Đây là một
hiện tượng hiếm thấy ở các cư dân đang sinh sống ở miền núi nước ta.
Dụng cụ đánh bắt cá ở đây độc đáo và phong phú: Hom giỏ kết bằng tai
hoa mây (lá ngáng), xúc vợt (việc), vó trời (cuộng), chíp, đăng, chài
v.v…


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Thái thường phải mua loại lưới này của người Thổ để dùng. Ngoại việc
săn thú lớn, bằng lưới, đồng bào cịn có nhiều kinh nghiệm đánh bắt thú
bằng bẫy sập: bẫy hổ bẫy thịng lọng bắt bị tót, bẫy sập voi, bẫy chim,
cầy v.v… Nghề săn thú tập thể ở người Thổ còn diến ra trong mấy chục
năm gần đây với nhiều tập tục truyền thống rất đáng được chú ý nghiên
cứu. Đáng tiếc là những tập tục này hiện nay, hầu như đã mất, do việc
mở rộng diện tích canh tác, do du canh du cư môi trường bị phá huỷ


nghiêm trọng, các loại thú lớn vắng bóng trong vùng.


Do nền kinh tế sản xuất cịn ở trình độ thấp nên đời sống của đồng
bào gặp nhiều khó khăn triền miên. Bù đắp sự ít ỏi của thu nhập do
nương rẫy đưa lại, các hình thức thu nhặt lâm thổ sản đóng vai trò quan
trọng trong đời sống của đồng bào Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng. Tỷ lệ
thu thập các sản vật chất tự nhiên này chiếm vai trò rất đáng kể trong
đời sống vật chất của đồng bào. Đó là dấu ấn đậm nét của nền kinh tế
tước đoạt”. Nền kinh tế hàng hoá chỉ mới manh nha xuất hiện bằng các
hình thức trao đổi, những thứ mà đồng bào không sản xuất được (muối,
vải, dầu đèn…).


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

ngón trỏ xuống). áo phụ nữ vùng Quỳ Hợp năm thân, màu nâu hoặc
trắng (gần giống người Kinh), áo phụ nữ vùng Lâm La thêm cổ viền
giống áo cánh phụ nữ Kinh. Một số cư dân mặc yếm trắng (giống Kinh),
đội khăn vuông (giống Mường), có tang chít khăn trắng (giống
Kinh)v.v…


Do sống xen kẽ với các tộc khác, và ln ở trong tình trạng đời
sống khó khăn, nơm nớp lo lắng về sự đồng hoá văn hoá của các thế
lực ngoài dân tộc nên ý thức cố kết cộng đồng của cư dân Thổ khá
vững mà có lẽ biểu hiện cao nhất là ý thức về chế hôn nhân nội tộc của
cộng đồng. Tuy các nhóm ở xa nhau nhưng quan hệ hôn nhân rất chặt
chẽ. Việc kết hôn với người khác tộc lại rất hạn chế. Trong nội bộ dân
tộc, trai gái trong thời kỳ tìm hiểu có tập tục “ngủ mái”. Trong đêm “ngủ
mái” trai gái làm quen nhau một cách lành mạnh. Lệ tục khắt khe lên án
các hành vi mờ ám. Tục này chỉ có các nhóm ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ
Hợp, khơng có ở các nhóm Con Cng, Tương Dương.


Từ các đêm “ngủ mái”, trai gái đồng ý lấy nhau thì từng bước thực


hiện các nghi thức bắt buộc như nhờ người làm mối (ơng pìn), thăm hỏi
nhau thường xun (1 tháng 1 lần), dạm hỏi và xin cưới. Tục cưới xin ở
người Thổ trước đây khá tốn kém và phiền phức trong khi đời sống còn
ở mức rất thấp.


Do cộng cư xen kẽ với các dân tộc khác trong vùng lại nằm trong
khuôn khổ chế độ phong kiến nên xã hội người Thổ trước đây cũng là
xã hội của các mối quan hệ phong kiến. Đến lúc thực dân Pháp cai trị
với mang tính chất thực dân nửa phong kiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

những người có tội (ăn trộm, lười biếng, gái chửa hoang…). Các chức
dịch khác như lý trưởng (cấp xã), chánh tổng (cấp tổng) giống như
người Kinh cùng thời.


Trong các mối quan hệ xã hội của người Thổ trước Cách mạng
Tháng Tám 1945 vấn đề cần quan tâm là quan hệ giữa dân với bộ máy
quan lại chức dịch, quan hệ giữa người chủ và đầy tớ, giữa các thành
viên trong nội bộ làng bản, dân tộc với nhau.


Dân có nghĩa vụ nộp thuế đủ và đúng kỳ hạn, làm công (tô lao
dịch), lễ lạt biếu xén thường xuyên cho các chức dịch nhân dịp hội hè, tế
lễ. Nhưng các quan lại trọng hệ thống chức dịch quan hệ với dân không
hống hách nặng nề như cường hào ở người Kinh. Trong quan niệm của
họ, sự tách biệt này không lớn, không vượt quá mối quan hệ cộng đồng
cổ truyền, đồn kết dân tộc để sinh tồn. Vì thế, ngay cả lúc nhận lễ vật
biếu xén, các chức dịch cũng phải thết đãi, đón tiếp dân tử tế. Đứa ở
được nhà chủ coi như con nuôi, được chủ nhà dựng vợ, gả chồng cho
chu đáo. Những người bạc đãi với con ở bị dư luận xã hội lên án. Xã
hội người Thổ rất trọng dư luận, coi dư luận như một công cụ giáo dục
các hành vi của người dân.



Chế độ hôi nhân nội bộ tộc người được tôn trọng nhằm củng cố
cộng đồng trong điều kiện sống xen cài giữa các dân tộc. Giữa các
thành viên, trong nội bộ bản với nhau mối quan hệ là tương thân, tương
ái, đoàn kết. Ngày làm nhà mới, ngày gieo hạt, cả bản giúp đỡ nhau tận
tình.


Về chế độ sở hữu, tài sản đáng quan tâm nhất là đất đai, sông suối.
Trong xã hội truyền thống người Thổ điều này không được quy định
chặt chẽ nên khơng hình thành chế độ chúa đất bao chiếm cả vùng rộng
lớn <b>(1)</b><sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

(1) Người có cơng khai phá đầu tiên được quyền sở hữu đất đai.
Nếu đất bỏ hoang một năm thì mất quyền sở hữu. Nếu chuyển cư thù
cũng mất quyền sở hữu ruộng đất trước đó. Các “Chủ sắc” trơng nom
việc tế lễ cho bản dược trích ruộng cơng khoảng 2 - 3 sào để làm sở
hữu cố định. Ruộng công lớn gấp nhiều lần ruộng tư nên chúa đất
khơng hình thành được.


Vì thế sự tách biết giữa những người giàu và người nghèo khơng
lớn lắm nên ít dẫn đến việc đấu tranh trong nội bộ dân tộc như ở một số
tộc người khác. Mối cố kết dân tộc đáng chủ ý là sự cố kết của những
người cùng thân phận chứ không phải chỉ nặng về họ hàng, làng bản
như một số dân tộc khác.


Xã hội người Thổ đã bước đầu phân hoá giai cấp. Khi thực dân
Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta, chúng khốc lên trên xã hội đó tính
chất thực dân.


Nền văn hố tinh thần của người Thổ rất đa dạng. Nó mang dấu ấn


sự cộng cư của nhiều thành phần dân cư và sống khá biệt lập với nhau
trong lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Có lồi ma lành làm điều tốt cho người, có loại ma dữ làm hại. Tín
ngưỡng vạn vật có linh hồn thể hiện rõ trong quan niệm về các loại ma:
ma đồng, ma bãi, ma nhà, ma cây to đầu làng, ma trẻ em chết yểu…
Đồng bào quan niệm con người ta có 3 hồn 7 vía (đối với nam), 3 hồn 9
vía (đối với nữ) do “mụ bà” tạo ra <b>(3)</b><sub>. Vì thế, mỗi khi có ốm đau hoặc tai</sub>
nạn người ta thường cúng vía “mụ bà” và buộc “vịng vía” cho người bị
nạn.


Người Thổ cúng ma bằng tiếng Cuối do các thày cúng tiến hành.
Khi cúng tổ tiên, họ cúng bằng tiếng phiên âm Hán - Việt. Người chết
được gọi hồn vía để nhập liệm. Làm cỗ
………..


(1) Thế giới thuồng luồng ở đây gần gũi với tư duy người Mường
(2) Việc thờ các loại thần này thể hiện tôn giáo nguyên thuỷ. Đáng
chú ý có thần Cao Sơn giống người Kinh trong vùng.


(3) Riêng các nhóm Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng lại chỉ tin mỗi
người có 1 vía.


cúng tế linh đình trong nhiều ngày, và quàn người chết tại nhà tuỳ
khả năng kinh tế của từng gia đình. Những gia đình khá giả tổ chức tang
lễ rất tốn kém: giết mổ hàng chục con trâu, kéo dài hàng tuần, hàng
tháng. Từ khi hạ huyệt trở đi, người ta tổ chức các lễ cúng 3 ngày, 50
ngày và 100 ngày <b>(1)</b><sub>. Người Thổ khơng có tục bốc mả, hàng năm, vào</sub>
dịp Tết Nguyên đán đồng bào tổ chức quét mả, mời tổ tiên về ăn tết, sau
đó vào các dịp Tết Đoan Ngọ (5 - 5), Trung Nguyên (15 - 7) và Tết Cơm


Mới (10 - 10) đều được đồng bào cúng chu đáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

tổ chức lễ xuống đồng rất linh đình và coi đây là một tập tuch quan trọng
trong năm.


Người phát nhát giao đầu tiên, chọc lỗ và tra hạt giống đầu tiên
trong mùa làm rẫy của làng, được gọi là “chủ giống”. Ông là do trùm
làng chỉ định và là người làm ăn phát đạt và nhẹ vía. ở các đền trong
làng, các gia đinh thay phiên nhau sắm sửa lễ vật và cúng.


Văn học dân gian ở người Thổ khá phong phú và đặc sắc. Kho tàng
ca dao, tục ngữ, câu đố được mọi người trong vùng


Biết và sử dụng thành thạo. Cho đến nay tục hát ví ( hát bạn) hát
“nhà tơ” (lối hát như hát “nhà tơ” (lối hát như hát ví dặm của người Kinh
trong vùng) vẫn còn được bảo lưu. Phần lớn những bài hát kể sự tích
đều được trình bày bằng tiếng Cuội. Tục kể “đắng”, một hình thức kể
chuyện sự tích có nhân vật, tình tiết khá hấp dẫn về các nhân vật có
cơng tạo lập làng bản, khai phá đất đai đầu tiên được những người cao
tuổi ưa thích như các điều: du du diềng diềng, tập tính tập tang, khai rế
v.v…


Tiếng Thở thuộc nhóm ngơn ngữ Việt - Mường, thuộc ngữ hệ Nam
á. Cơ cấu tiếng Thổ khơng thuần nhất vì nó được hình thành từ nhiều
nguồn. Theo kết quả của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: do cộng cư
lâu đời với các dân tộc kề cận nên tiếng Thổ không chỉ có nhiều yếu tố
gần gũi với ngơn ngữ Việt - Mường, với phương ngữ người Việt Bắc
Trung Bộ mà còn mang nhiều yếu tố Thái (thuộc nhóm ngơn ngữ Tày
-Thái) và ơ đu (thuộc nhóm ngơn ngữ



………


(1) Tập qn này khơng khác gì người Kinh trong vùng kề cạnh.
Mơn - Khơme) <b>(1)</b><sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

trình độ phát triển kinh tế - xã hội chênh lệch nhau khá lớn. Trước đó,
người Thổ đã đạt được một số yếu tố văn hố tinh thần mang tính chất
của một xã hội đã phát triển, chế độ phụ quyền đã hình thành, hôn nhân
nội tộc một vợ một chồng bền vững v.v… Nhưng do sống tách biệt với
các tộc người khác trong một điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên đã dẫn
đến q trình thối hố tộc người rõ rệt. Đó là một nghịch lý khi nghiên
cứu về kinh tế - xã hội vùng người Thổ ở Nghệ An.


………


(1) Nguyễn Văn Tài cho rằng: Tiếng Cuối bao gồm cả nhóm Cuối
Chăm ở Tân Hợp, Đan Lai - Ly Hà và Tày Poọng là ngơn ngữ cổ hơn
cả, có vị trí ngang hàng với tiếng Mường. Nghiên cứu ngơn ngữ người
Thổ có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt và
lịch sử nhóm ngơn ngữ Việt - Mường.


<b>II. Dân tộc Thái</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Trước đây, việc nghiên cứu người Thái ở vùng này chưa được
nhiều người quan tâm nên sự hiểu biết của giới khoa học xã hội về cư
dân ở đây vẫn còn hạn chế. Gần đây, do yêu cầu của việc phát triển
kinh tế - văn hoá trung du miền núi, một số nhà khoa học và một số cơ
quan theo dõi thực hiện chính sách dân tộc mới để ý đến việc nghiên
cứu khảo sát và bước ………



(1) Số liệu điều tra dân số tháng 4/1989 của Ban dân tộc Nghệ Tĩnh
là 210. 570 người


(*): Theo tổng hợp của Ban DT & MN từ báo cáo của các huyện, thị,
đến ngày 30/6/2009, người Thái ở Nghệ An có 303.822 người, chiếm
69,39% dân số DTTS.


đầu người ta nhận thấy cư dân người Thái vùng này có nhiều điều đáng
lưu ý. Đó là sự bảo lưu kết cấu xã hội truyền thống, đó là yếu tố kỹ thuật
của một số ngành nghề cổ truyền đạt trình độ cao, một vùng dân cư
đông đúc chứ không phải thưa thớt ít ỏi như người ta tưởng trước đây
<b>(1)</b><sub>. Nhiều người nghiên cứu đã nhận ra sự khác biệt ở một số nét về văn</sub>
hoá với cộng đồng Thái Tây Bắc. Hơn nữa, trong quá trình cộng cư với
các dân tộc khác trong vùng (Thổ, Khơ mú, ơ đu, Hmông) đã diễn ra
q trình giao tiếp, đan xen văn hố, hình thành những yếu tố văn hố
mới có tính chất khu vực. Vì thế, một số người


Nghiên cứu đã bước đầu đưa ra nhận xét: đây là một vùng Lịch sử
- Dân tộc học, trong đó văn hố Thái giữ vị trí quan trọng


<b>1. Q trình hình thành các nhóm Thái ở Nghệ An</b>


Trước đây, người Thái ở Nghệ An được gọi bằng nhiều tên khác
nhau theo tên các nhóm địa phương. Sự lầm lẫn đó đã làm cho việc
thống kê dân số sai lệch đáng kể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Tày Mười. Trong thời gian gần đây, ngay cả trong nhiều văn bản của
các cơ quan địa phương từ xã huyện lên tỉnh, người ta vẫn cịn dùng
tên các nhóm nói trên như là tên dân tộc. Đồng bào tự gọi mình là “Phủ
Táy” (Công Táy - vùng Quế Phong) nghĩa là người Thái. Nhưng khi giao


tiếp người ta gọi tên dân tộc của mình theo nhóm như là sự phân biệt
dân tộc: Tày Mường, Tày Thanh, Tày Mười.


Sự khác nhau giữa các nhóm trên căn cứ vào nguồn gốc lịch sử
của họ. Đặng Nghiêm Vạn, Cần Trọng cho rằng: Cộng đồng Thái vào
Việt Nam đầu tiên từ thiên niên kỷ II sau Cơng Ngun từ ngành Thái
Trắng và sau đó là Thái Đen. Từ trước đến nay người ta cho rằng vào
khoảng thế kỷ XI và XII do nhu cầu của sanr xuất mở rộng vùng cư trú,
người Thái từ Nam Trung Quốc lại tiếp tục vào Tây Bắc Việt Nam với
những đợt thiên di ồ ạt. Sau khi đẩy lùi các nhóm cư dân Mơn - Khơme
vốn là cư dân đã cư trú ở vùng Tây Bắc rộng lớn họ đã tràn khắp vùng
từ Lai Châu, Nghĩa Lộ, đến Sơn La và sau đó tràn xuống phía Nam
vùng Thanh Hố - Nghệ An. Diệp Đình Hoa, Hà Văn Tấn, Lê Sĩ Giáo…
cho rằng: Người Thái ở ………..


(1) Lu - pơ nhầm lẫn người Thái là người Mường, Mạc Đường cho
rằng cho rằng người Hàng Tổng là người Mường. Vương Hoàng Tun
gộp nhiều nhóm Thơ vào cộng động Thái.


Việt Nam có nguồn gốc vừa có yếu tố bản địa vừa có yếu tố di dân từ
Trung Quốc đến. Trước đây Đặng Nghiêm Vạn cho rằng đợt thiên di
nhiều và sớm nhất của người Thái vào Nghệ An vào thế kỷ XV gắn liền
với thời Lê Lợi. Diệp Đình Hoa lại có ý kiến là vào sớm hơn thể kỷ thứ
X. Gần đây, học giả Pháp Cham - bơ - lai (Chamberlain) lại cho rằng
người Thái có mặt ở Nghệ An còn sớm hơn thế kỷ VI.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

loạt chứng cớ về sự tồn tại khá liên tục của cư dân mới tạo nên các nền
văn hoá khảo cổ dày dặn. Vây, nếu giả thiết của các nhà nghiênc cứu
khoa học dân tộc - sử học, khảo cổ học… đối với vùng đất này vẫn còn
khoảng trống gần mười thế kỷ thì ai là chủ nhân của vùng đất này đang


là điều day dứt. Phải chăng một trong số họ là cư dân Thái mà cứ liệu
để minh chứng vẫn còn là ẩn số?


Theo tư liệu tiếng Thái ghi chép cịn lại và những truyền thuyết dân
gian cho thấy nhóm Thái đầu tiên vào Nghệ An là nhóm có số dân đông
nhất cư trú chủ yếu ở vùng dọc đường 48 thuộc các huyện Quế Phong,
Quỳ Châu, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp hiện nay.


Nhóm cư dân này được gọi là Hàng Tổng, có nơi gọi là người Tày
Mường hay Tày Chiềng. Di cư từ Tây Bắc vào có tổ chức theo đơn vị
Mường phìa nên vào Nghệ Tĩnh họ mang theo tên gọi có ý nghĩa tự
xưng như là người Tày Chiềng, Tày Mường, trước đây (người ở vùng
trung tâm của “Mường phìa”). Người Thái thường nói “Mường phía
cng chu”. Người hàng châu thu hút Mường hàng xã lạo, Mường hàng
xã thu hút các mường nhỏ lạo do nhu cầu cố kết trong sản xuất và di
dân. Tên gọi Hàng Tổng mới xuất hiện từ thời Nguyễn, từ khi vua Minh
Mệnh cải tổ đơn vị hành chính ở các huyện , châu, mường của người
Thái gọi là phủ là tổng.


Có thể nhóm Tày Mường đến vùng đường 7 sớm nhất, vào thế kỷ
XIII - XIV. Lịch sử cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cịn ghi nhận cơng lao to
lớn của Cầm Q người cầm đầu đồng bào Thái ở vùng Quỳ Hợp tham
gia vào cuộc chiến đấu bảo về và giải phong thành Trà Lân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

các dòng họ khác của người Thái từ Tây Bắc qua Lào và Quỳ Châu,
tính đến


lúc Pháp xâm lược nước ta đã qua 17 đời làm tạo mường kiêm
“châu hua” (Chủ phần hồn) <b>(1)</b><sub>.</sub>



Hình thức tông tộc và tục “quai - xê” của đồng bào Thái Quỳ Châu
có liên quan đến “pù quai” (“núi trâu”) nay thuộc Mường Nọc, Quế
Phong.


Chứng tích nơi cư trú đầu tiên của họ được thể hiện qua những tập
qn tơn giáo tín ngưỡng có liên quan đến tộc người Thái thuộc những
dòng họ lớn ở vùng này <b>(2)</b><sub>. Qua những dấu vết còn lại của cư dân nhóm</sub>
Tày Mường ở vùng núi Nghệ An, có thể nhận thất ngày từ trước thế kỷ
XIV - XV cư dân Tày Mường đã cư trú khá đông trên địa bàn rộng: phía
Bắc là vùng Bồ Đằng (“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật”, lúc bấy giờ
gọi là đội quần áo đen), trung tâm là xã Châu Nga (Quỳ Châu hiện nay),
phía Đơng đến Quỳ Hợp (các vết tích là Bãi Tập ở xã Tam Hợp, Thọ
Hợp và truyền thuyết, câu chuyện về cô gái bán Lê gặp quân Lê Lợi
lánh nạn), phía Nam đến Trà Lân (“miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”),
thuộc Con Cng hiện nay.


Nhóm Tày Mười có nguồn gốc ở mường Muỗi, một vùng trung tâm
của người Thái Đen ở Tây Bắc (xã Chiêng Pấc, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La) di cư vào Nghệ An vào nửa đầu thế kỷ XV.


Bộ phận Tày Mười nay buộc phải chuyển vào Thanh Hố, Nghệ An
cư trú vì Lê Lợi khi đưa quân lên chinh phạt Đèo Cát Hãn, chủ đất ở
mường Muỗi đã chống lại. Vào Nghệ An họ mang tên tự gọi quê hương,
nhưng do tiếp xúc cách phát âm của các cư dân quanh vùng nên “Muỗi”
bị đọc chệch thành “Mười” <b>(3)</b><sub>. Nhóm cư dân nay cư trú chủ yếu ở vùng</sub>
Nghĩa Đàn, Quỳ Châu và Quế Phong hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

muộn hơn, khoảng hơn 200 năm nay (tổ tiên họ còn nhớ họ mới đến
khoảng 10 - 12 đời nay). Phần lớn họ từ Mường Thanh qua đất Lào và
mới vào Nghệ An, một số khác có đi qua hoặc từ vùng núi Thanh Hố di


cư đến. Nhóm này đến muộn nên những vùng rừng rậm, thung lũng
rộng màu mỡ vùng Quỳ Châu, Nghĩa Đàn khơng cịn, họ xuống sâu dọc
vùng đường 7 và xen ghép những người Tày mười, Hàng


……….


(1) Nếu tính 17 đời từ thời Lê đến 1858 và 1858 cho đến nay tương
đương gần 600 năm.


(2) Đại Việt sử ký Toàn thư chép “phụ đao Quỳ Châu là Cằm Lan
quy thuận” (Lúc đó Lê Lợi đang vây hãm thành Đông Quan. Dẫn theo
Đặng Nghiêm Vạn.


(3) Cầm Trọng dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn “Người Thái
ở Tây Bắc” ( đã dẫn)


(4) R.Rô - be trong cuốn ghi chép về người Tày Đèng ở Làng
Chánh (1941) cũng ghi như vậy ở trang 10: “Họ được mọi người biết có
tên gọi Man Thanh tự xưng là Tày Nhài”.


Tống đã đến từ trước ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Do đến muộn nên
phần lớn họ trở thanh thân phận ngụ cư và thường có địa vị thấp hơn
trong xã hội của những người Tày Mường đã có mặt sớm hơn.


Ngồi ba nhóm đơng đảo nhất nói trên cịn có nhóm Tày Khăng với
số lượng đáng kể từ Mường Khăng (ở Lào) nay cư trú ở Kỳ Sơn và
Tương Dương <b>(1)</b><sub>. Một nhóm người Thái ở Tương Dương còn được gọi</sub>
là người Mèn - một cư dân nói tiếng Thái cổ cần được lưu ý tiếp tục
nghiên cứu <b>(2)</b><sub>.</sub>



<b>2. Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

nước người Thái đạt trình độ cao (như cách thức dẫn vào ruộng ở vùng
địa hình phức tạp, cách thức khai khẩn đất đai và cơ cấu các loại cây
trồng thích hợp v.v…)


Về cơ bản những yếu tố văn hoá truyền thống trong đời sống văn
hoá vật chất và các phương thức sinh hoạt kinh tế của đồng bào Thái ở
Nghệ An không có gì khác biệt lắm so với những người đồng tộc của họ
ở Tây Bắc cũng như những nơi khác trong khu vực Nam Trung Quốc và
Đông Nam á. Điều cần chú ý là trên cơ sở thừa kế vốn truyền thơng văn
hố đó, khi vào Nghệ An đồng bào đã áp dụng nó trong những điều kiện
vừa có tính chất chung của núi rừng nhiệt đới vừa có nét khu vực địa lý
riêng do ảnh hưởng xủa địa hình và khí hậu, Người Thái là cư dân nơng
nghiệp biết dùng cày. Việc biết sử dụng sức kéo của trâu bò vào việc
canh tác ở vùng núi Nghệ An của người Thái là điều kiện rất thuận lợi
cho cộng đồng Thái hồn tồn có khả năng sinh sống ở một vùng có
nhiều thung lũng rộng giữa núi rừng


………..


(1) Có nhiều người cho là ở Tương Dương có người Tày Pao, thực
ra không phải như vậy Nậm Pao là một đoạn thượng nguồn sơng Lam.
Nó khơng có ý nghĩa chỉ tên nhóm nào cả, bởi vì tại vùng này cư dân
xen lần người Hàng Tổng, Tày Khăng.


(2) Giáo sư Hà Văn Tấn cung cấp cho chúng tôi tài liệu về Hội thảo
khảo học ở Thái Lan (1/1991) trong đó có ý kiến của Cham - bơ - lai
(Jame R. Chamberlain) cho rằng người Mèn ở Nghệ An đã từng nói một
tiếng địa phương cổ của người Thái có mặt ở Nghệ An đã từng nói một


tiếng địa phương cổ của người Thái có mặt ở Nghệ An phải trước thế kỷ
VI. “Mèn” ở đây là Xiềng Mèn ở huyện Tương Dương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

hẹp khi xới lớp đất mặt mỏng, người ta chỉ cần đốt cây cỏ, rơm rạ rồi
dẫn nước vào, ngậm đất cho mềm rồi cho trâu bò dẫm thành bùn để cấy
lúa. Họ khơng phải dùng cày vì tầng đất canh tác mỏng nền cày sẽ quật
lên lớp đất sâu hơn, nghèo mùn làm hỏng đất.


Tư liệu thư tịch cổ Việt Nam có nói các cư dân Việt Cổ dùng lối
canh tác trên đây. Dấu vết còn lại của họ hiện nay ở đồng bằng, dù
đồng bằng Bắc Bộ hau Hạ lưu sơng Cả vẫn khơng cịn! May thay, hình
ảnh đó vẫn cịn sót lại ở vùng “Kinh tế thung lũng” của đồng bào Thái.
Nền nông nghiệp ruộng nước buổi đầu có lẽ bắt đầu từ những biểu hiện
rõ rệt mà thời gian khó lịng xố nhồ khi những điều kiện tự nhiên vẫn
còn tương tự. ở vùng Thái, trâu bị và lợn, gà thả rơng nên việc thu gom
và cấy lúa ruộng nước bón phân chưa đặt ra. Đồng bào trơng lúa nước
mỗi năm một vụ, cịn một họ vẫn gieo lúa nương. Từ Cách mạng Tháng
Tám đến nay, nhiều nơi chuyển sang làm lúa nước hai vụ là chủ yếu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

bổ sung rất quan trọng và tương đối sẵn có. Vì thế trước đây vườn nhà
chưa được chú trọng. Những “vườn treo” làm bằng các máng gỗ để
trồng thêm gia vị. Những đàn trâu, đàn lợn bầy gà chủ yếu dùng trong lễ
lạt, cúng tế, nghỉ lễ. Trâu là con vật được người Thái quý trọng vì ngồi
việc sử dụng làm sức kéo nơng nghiệp cịn là vật cúng tổ tiên và được
ni với số lượng lớn <b>(1)</b>


. ………..


(1) Tập quán này khác với người Khơ - mú và Hmông trong vùng.
Người Khơ - mú và Hmơng ở Nghệ An ít ni trâu mà chủ yếu ni bị


thả rơng, có bản đến hàng trăm con


Nhiều đàn gia súc nổi tiếng trong khu vực như Bình Chuẩn (Con
Cng), Nga Mi (Tương Dương), xã Tri Lễ, Chè Lè (Quế - Phong)…
Ngoài ra, vùng Quỳ Châu, đồng bào nuôi vịt với giống địa phương cho
thịt thơm ngon được nhiều vùng biết tới.


Sống giữa vùng núi rừng rậm nhiệt đới, các sản vật tự nhiên phục
vụ cuộc sống con người khá phong phú. Hơn nữa khi họ đến Nghệ An
như là những cư dân đến khai khẩn đầu tiên nên việc tiến hành các hoạt
động động hái lượm và săn bắn rất thuận lợi và chiếm vị trí rất quan
trọng trong đời sống của đồng bào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

sự. Nó được tiến hành vào lúc nhàn rỗi và bên canh việc tăng nguồn
thức ăn còn nhằm mục đích bảo vệ mùa màng. Săn bắn chủ yếu theo
quy mơ nhỏ do cá nhận hoặc nhóm anh em trong dịng họ tiến hành. ít
khi họ tiến hành săn bắt tập thể như người Thổ, người Khơ - mú. Đồng
bào Thái Nghệ An ít khi dùng bẫy vì người và trâu bị đi lại thường
xun. Việc dùng tên tẩm ít thuốc độc, không phổ biến trong việc săn
bắn như các dân tộc trong vùng (như người Thổ, người Chứt).


Nghề thủ công truyền thống của người Thai cũng như các dân tộc ít
người khác ở nước ta chưa trở thành nghề độc lập mà chủ yếu là nghề
phụ. Tuy vậy, ở Nghệ An, người Thái trồng bông dệt vải, dệt thổ cẩm rất
thành thạo, tinh vi. Nếu có thể so sánh nhìn trên góc độ sản phẩm kinh
tế hàng hố thì nghề dệt người Thái Nghệ An đã bước một bước sớm
hơn so với người Thái ở Tây Bắc. ở vùng này người ta không chỉ dệt
cho nhu cầu của mình mà cịn trao đổi cho một khối lương cư dân lớn
sống kề cạnh không dệt vải như người Thổ, Khơ - mú, Hmông và cả
khối cộng đồng liền núi liền sông như Lào. Thu nhập do nghề dệt đem


lại ở nhiều gia đình đơng con gái trở thành một nguồn lợi lớn, đóng vai
trị quan trọng trong đời sống kinh tế. Nghề này đang có khả năng to lớn
để phát triển trong tương lai hoà nhập vào xu thế kinh tế hàng hố của
các cư dânh Thái ở Đơng Nam á.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Nậm Pao (Kỳ Sơn, Tương Dương). Việc trao đổi các sản phẩm nông
nghiệp và các nghề thủ công (trừ nghề dệt thổ cẩm) chưa trở thành kinh
tế hàng hoá ở bất kỳ vùng Thái nào. Do điều kiện địa hình hiểm trở, do
tập quán, do phương thức sản xuất mà nhu cầu chợ trước đây chưa
xuất hiện. Hiện nay khắp vùng Thái đều có chợ để trao đổi hàng hoá.
Đây là một nhân tố mới thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế, biến đổi bộ
mặt miền núi theo cơ chế thị trường.


Về văn hoá vật chất, tiêu biểu nhất ở người Thái là nhà cửa và
trang phục. Mỗi bản trung bình thường có 30 - 40 nóc nhà. Những bản
có đến hơn một trăn nóc chủ yếu ở vùng Quỳ Châu. Nhà ở cấu trúc theo
lối mật tập. Nhà đồng bào Thái làm bằng gỗ rất lớn và chắc chắn nhất
so với các cư dânh cùng sống trong vùng. Có thể nói vùng núi Nghệ An
đã thu nhận được các kiểu nhà sản của người Thái ở Tây Bắc.


Nhà ở của cư dân nhóm Man Thanh mang cung cách nhà ở của
người Thái Đen (nhà nhỏ trung bình, hình mai rùa có “khau cút” lại cịn
ảnh hưởng cung cách nhà sàn Mường (nhà mái hình chữ nhật có lan
can cầu thang trước và sau, có “khau cút” ở đầu hồi nhà, nhà ở người
Tày Khăng lại có dáng dấp nhà ở của người Lào… Nhà ở người Thái
thường thống đãng và rộng do ít khăn phên vách và hàng cột giữa có
nơi chỉ làm cột lửng đặt trên xà ngang. Xu hướng nhà sàn chuyển dân
sang nhà đất đã thấy xuất hiện trong những năm gần đây. Một số gia
đình làm nhà nửa sàn nửa đất, lợi dụng mái núi dốc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

ma chay nói lên tài nghệ của người sản xuất ra nó: dệt vải, thêu thùa,
nhuộm màu sắc, chạm trỗ khuy bạc v.v… Trừ người Hmơng có lối ăn
mặc riêng cịn phần lớn cư dân Khơ - mú, Thổ và ơ - đu trong vùng đều
mặc quần áo Thái.


Người Thái trước đây trồng lúa nếp, ăn cơm nếp, gần đây họ trồng
lúa tẻ và ăn cơm tẻ. Các loại giống mới đã gia nhập vào nguồn giống địa
phương ngày càng nhiều. “Nâm pịa”, nắm cá chua, ăn thức ăn cay
đắng, hút thuốc lào, ăn trầu… là những tập quán truyền thống của đồng
bào.


<b>3. Về quan hệ xã hội, dòng họ, hơn nhân và gia đình.</b>


Cho đến nay, những ý kiến về lịch sử cư trú của cư dân trong địa
bàn miền núi Nghệ An trước khi người Thái tràn vào vẫn đang là các giả
thuyết. Người ta chỉ mới biết được khi người Thái vào Nghệ An họ đã
tiếp xúc với các cư dân Môn-Khơ-me vốn đã từng cư trú ở đây. Những
cuộc tranh chấp đất đai đã xảy ra ở vùng này muộn nhất là trước thế kỷ
XIII. Những đơn vị hành chính thời Lê được ghi chép khá rõ trong các
thư tịch cổ ở vùng này là những chứng cớ cho sự tồn tại việc tổ chức xã
hội ở đây đã được ổn định khoảng từ thế kỷ XV.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Chẩu mường. Cho đến nay vai trò của họ Sầm vẫn cịn có thế lực trong
vùng.


Dưới mường lớn do chúa đất cai quản là các mường nhỏ do các
lý trưởng (chẩu bản) cai quản. Cơ cấu xã hội cổ truyền Thái được các
triều đại phong kiến khéo "lồng ghép" hệ thống chức dịch của mình để
dễ bề quản lý. Triều đình vẫn coi là các "phu -ki-mi" nhưng thực chất
triều đình vẫn nắm được họ và điều hành thông qua tầng lớp chức dịch


thuộc các dòng họ lớn và thường là chúa đất, lý trưởng (tương đương
chẩu bản) có thế lực vì được trao thực quyền và có bổng lộc. Vào đầu
thế kỷ XX sau khi cơ bản đã "binh định" được miền núi, thực dân Pháp
đặt thêm một số tay sai giúp việc (thông lại, thư ký...) và để nguyên bộ
máy cai trị cổ truyền Thái nhưng những quyền lực của chúa đất và lý
trưởng bị hạn chế.


Các mường đều có chiềng là vùng trung tâm. Trung tâm này chỉ là
vị trí lớn, chủ yếu là sinh hoạt cộng đồng. Tên gọi Tày Chiềng chính là
tên của nhóm cư dân di cư cả mường trong đó có chiềng. Dưới các
mường nhỏ là các "xống" (một số nơi ở Nghệ An gọi là "phổng" đây là
cách gọi phổ biến ở Nghệ An khác với vùng Thái ở Tây Bắc). Các "lộng"
(trong các tài liệu văn bản trước đây đều là ghi chép là "động"). Trong
thực tế, những khái niệm của đơn vị hành chính nói trên từ mường,
xổng, lộng đến mường trong, muờng ngồi và bản đều chỉ có ý nghĩa
tương đối tùy điều kiện lịch sử.


ở vùng đường 7 đã hình thành các mường nhỏ tương đương với
Xống như: Mường Quả, Mường Chai (Con Cuông). Mường Mi, Mường
Mèn (Tương Dương), Mường Xén (Kỳ Sơn). Cơ cấu các mường này
khác với các mường ở Tây bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Bản xưa là đơn vị cơ sở của mường, là nơi tậphợp các gia đình phụ hệ.
Trưởng bản do cuộc họp "hua hườn" của bản bầu lên được "ăn ruộng",
được hưởng chế độ biếu thịt thăn, có thế lực nên thường cha truyền con
nối. Chắm bản phụ trách lễ lạt, tôn giáo trong bản, chủ trì lễ "Xên bản"
nhưng khơng được "ăn ruộng" như trưởng bản.


Bản có chung bến nước, bãi chăn thả trâu, bãi tha ma, mương
phai. Bản có lệ, luật đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mọi cư dân. Trong


thực tế, ruộng đất tư đã phát triển, ruộng cơng chỉ có nghĩa hình thức
hoặc số lượng ít khơng đáng kể. Ruộng dân, ruộng chức dịch, "ruộng
gánh", "ruộng cơm gói", "ruộng góp"... đã thể hiện các mỗi quan hệ xã
hội, tổ chức xã hội đã định hình với những luật tục khắt khe mà mọi
thành viên trong bản, mường phải chấp nhận.


Những cuộc tranh chấp đất đai giữa các thế lực phong kiến địa
phương trong nội tộc và các dân tộc kề cận diễn ra liên miên, làm cho
ranh giớ hành cũng luôn thay đổi. Bên cạnh hệ thống cai trị của chúa đất
người dân thực hiện những tập quán pháp cổ truyền. Xã hội Thái kể từ
khi thực dân Pháp đặt ách cai trị đã tồn tại một cơ cấu cai trị khác là hệ
thống tổ chức hành chính thực dân nhằm thu thuế và thực hiện chức
năng quản lý hình pháp... Cơ cấu này là sản phẩm của chế độ thường
công cho những tên tay sai xuất thân hoặc từ dòng họ quý tộc cũ hoặc
từ dân có quyền dung nạp nơng nơ và những người khác tộc di cư đến
khai khấn thêm đất đai canh tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63></div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

vùng đất mới được đánh giá, họ trở thành chủ đất nhỏ như ở Mường
Quạ (Con Cuông), Xá Lưiợng (Tương Dương).


Những người bị thống trị có thể bị gọi chung là lớp nông dân lao
động. Những "Páy, táy" (nông dân tự do) là bộ phận đông đảo nhất,
phần lớn thuộc những người đi đầu trong việc dựng mường, lập bản.
Nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi được hưởng đều có ý nghĩa như nhau
vì thực chất việc thực hiện nghĩa vụ là quyền sinh hoạt cộng đồng, nộp
tô lao dịch, cống nạp..."Páy, táy" ở trung tâm của mường ("chiềng") có
uy tín hơn ở các vùng xa trung tâm. Người nào có cơng học khá giả mà
thuộc dịng họ tạo thì được chúa cho chức quan bản hoặc "chá" trơng
coi các bản nhỏ. Trong "Páy" lại có "Páy đinh" (ở các bản Tày Mường)
và "Páy cử" (ở các bản Man Thanh và Tày Mười).



Tầng lớp "cng, nhốc, thín" (nơng dân bán tự do) ở người Thái
là tầng lớp bị bóc lột nặng. Họ thường là dân ngụ cư và số đông là
người khác tộc. ở Nghệ An thành phẩn của đẳng cấp này phần lớn là
những nông dân người Khơ-Mú, Ơ-đu và một số vùng Hmông do đến
muộn hơn. Thành phần "cuông, nhốc" ở mỗi vùng có một tên gọi khác
nhau. Người Man Thanh, Tày Mường gọi là "cng", ngưịi Tày Mường
gọi là "nhốc", có nơi gọi họ là "thin"(có thể do ảnh hưởng tên người Thái
ở Thanh Hóa)


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

tựa, người phạm tội khơng có tiền nộp phạt, gái chửa hoang, trốn lao
dịch hoặc tuyệt tự...nhưng chủ khơng có quyền diết đầy tớ. Người Thái
quan niệm họ là người nhà nên có chung ma nhà. ở Nghệ An, "cơn,
hươn" có thân phận tự do thân thế hơn "côn, hươn" ở Tây Bắc.


Thân phận của "cơn, hươn": có thể được thay đổi như họ có tiền
chuộc lại hoặc con gái lấy chồng "páy". Vì quan hệ ràng buộc đan kết đó
mà ít thấy họ đứng lên chống lại giai cấp thống trị. Còn giai cấp thống trị
cho dù bị mất quyền lực do bị phá sản phải đi nhận ruộng nộp tô, vẫn
giữ nguyên giá trị hư danh hão thuộc dòng dõi quý tộc mà được miễn
lao dịch và còn vai trò hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng... Căn cứ vào vỏ
bề ngồi của tên gọi các dòng họ người Thái hiện nay người ta có thể
biết được những dịng họ mang gốc Thái và có những dịng họ tiếp
nhận từ những tộc người khác. Những dòng họ mang gốc Thái có
những biểu hiện giống nhau trong thờ cúng, ma chay và kiêng khem...
Mỗi họ có một tên hèm kèm liên quan đến một sinh vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

những dịng họ có quan hệ hơn nhân với con gái của "ải nọng" (bên rể).
Đây có thể là vết tích của hơn nhân liên minh 3 thị tộc trước kia.



Gia đình người Thái ở Nghệ An trước cách mạng là gia đình nhỏ
phụ quyền. Dấu vết gia đình lớn chỉ còn lại ở vùng xã Khăm muộn (Quế
Phong) là trung tâm của mường lớn trước đây. Hiện nay hình thái gia
đình đó đã tam rã. Trong gia đình phụ quyền người Thái quyền lực tập
trung trong tay chủ gia đình. Chỗ ngủ của ơng ta ngay dưới chân cột
chính và được treo các vật thiêng của nhà, cạnh bàn thờ ma nhà.


Hôn nhân của người Thái trước đây cịn mang tính chất mua bán.
Tiền "cá hua" là giá của người con gái mà chàng rể phải trả dưới hình
thức lễ vật, bạc nén và ở rể. Nếu chưa trả hết tiền "cá hua" cho nhà vợ
thì ngay cả đến lúc chết ma chồng vẫn không "chung sống" được với
ma vợ. Tục lệ không ủng hộ các trai gái các đẳng cấp khác nhau lấy
nhau. Tính chất mua bán trong hơn nhân rõ ràng là mâu thuẫn với tình
yêu tự do của trai gái. Tục lệ cổ truyền cho phứp nếu cha mẹ không
đồng ý cho trai gái lấy nhau, chàng trai có thể tổ chức lễ "cướp" hoặc có
thể cùng nhau trốn sang mường khác hoặc chạy vào nhà chùa xin làm
"côn, hươn", hoặc nằm lì ở nhà gái chờ thuyết phục mới về nhà. Gia
đinh người Thái là gia đình nhỏ phụ quyền một vợ một chồng bền vững
được luật tục quy định chặt chẽ. Trường hợp đa thê chỉ xảy ra ở nững
gia đình quý tộc. Dư luận xã hội lên án những trường hợp vợ chống bất
hòa, bỏ vợ,chê chồng và lối thoát của họ là chịu thân phận đầy tớ cho
nhà chúa. Luật tục xử phạt bằng tiền bạc, trâu, lợn...rất nặng đến với
các trường hợp vi phạm sự ổn định của gia đình như ngoại tình, quan
hệ loạn ln.


<b>4. Tơn giáo, tín ngưỡng, văn nghệ dân gian.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

có Then Bua (hạnh phúc). Then Chăng (chức dịch). Then Xội (tội lỗi).
Then Ló (bà mụ sinh đẻ). Then Chát (tuổi thọ). Then Chương (chiến
tranh). Then Thum (tạo ra gió mưa). Then Khao (giữ linh hồn và sắc đẹp


phụ nữ)...Đồng bào coi vùng trú ngụ của tổ tiên con người là các "dẳm
doi" (vùng quần tụ của các "phi" bao gồm quý tộc và dân). Mường Then
Hịt, Then Hay là vùng quần tụ của các "phi"của nhưngc ngường nghèo
khổ chết bất đắc kỳ tử không được vào khu "dẳm doi" và vùng "liên pán
luông", "liên pán mọi" là nơi linh hồn quý tộc quần cư vĩnh viễn giàu
sang. đây là sự phản ánh ảnh hưởng của Phật giáo "Liên pán" ở đây là
Niết Bàn.


Then cai quản các thần, các loại ruộng nương, ma nương, ma tổ
tiên, phần hồn và phần xác các thần dân sống trong đất chúa cai quản.
Quỳ Châu cũ, dòng họ Sầm thế tập làm chẩu mường, chẩu hua. Bên
cạnh các cai mường, chẩu bản (mường nhỏ) chẩu đin có các ơng mo
nắm phần hồn. Ơng mo rất có uy tín trong quần chúng mặc dù ơng ta có
thể nghèo khổ. Tín ngưỡng đó rõ ràng được phát sinh từ ý niệm sùng
bái chúa đất nhằm củng cố sự ổn định trật tự thống trị do những người
này hoặc cha ông họ tạo lập ra. Vì thế, trong nội bộ bản, mường khơng
có những xáo trộn xã hội lớn. Cịn điều hạn chế lớn là quần chúng nhân
dân không dám đứng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị, cam phận
"cng, nhốc", "cơn, hượn" của mình.


Trật rự gia đình phụ quyền đuợc khẳng định và củng cố bằng hình
thức thờ cúng tổ tiên. Các dòng họ quý tộc đều ghi chép gia phả hệ
thống thân tộc "ải nọng" bằng chữ Thái. Mỗi dòng họ có một nơi thờ
cúng riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

ghép với các lễ nghi nông nghiệp.... Vào mùa xuân những hội lễ xiên
mường, xên bản, xên hươn được tổ chức rất trang trọng. Họ mời thần
trời, thần đất, thần sông, thần núi, tổ tiên các dòng họ về dự và tổ chức
các cuộc vui chơi mang đậm nét yếu tố văn hóa cổ truyền mang màu
sắc tơn giáo. Tín ngưỡng liên quan đến nơng nghiệp được đồng bào rất


quan tâm: Tục đón tiếng sấm đầu xuân, tục cúng hồn lúa và vua ruộng
khi gieo mạ, cấy lúa, lễ cơm mới, lễ cúng cơm cảm ơn "hồn lúa" đqã làm
cho mùa màng bội thu. Mỗi khi bị ốm đau, bệnh tật, đồng bào phải nhờ
ông mo cúng các lực lượng siêu linh như thần, ma...để điều chỉnh, minh
nén, khó" hài hịa để bệnh nhân khỏe mạnh. ở một số vùng, biểu hiện
trong sinh hoạt hội lễ còn dấu vết của "phồn thực", dấu ấn văn hóa
nguyên thủy.


Người Thái có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú và đặc sắc.
Từ Tây Bắc vào Nghệ An và cùng đi với họ là cả kho tàng văn hóa của
một dân tộc người có lịch sử hàng ngàn năm sinh tụ-ổn định trên một
địa bàn tương đối rộng. Đó chứ kể dọc đường hành trình của họ, họ đã
từng gặp gỡ, tiếp xúc với các cư dân Việt - Mường, những cư dân
Mon-Khơ-Me, cư dân Lào..v..v....làm cho kho vốn văn nghệ dân gian Thái
mang thêm nhiều màu sắc của nhiều dân tộc. Những tri thức văn hóa
được hình thành từ công cuộc khai khẩn trên vùng đất này càng làm
giàu, đa dạng văn hoa truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

một khơng hai khơng chỉ vùng núi rừng rộng lớn phía Tây Nghệ An mà
rất độc đáo ở khu vực Đông Nam á.


Truyện thần thoại của đồng bào Thái thể hiện thế giới quan của
một cư dân đã ở vào trình độ xã hội phát triển cao. Đồng bào quan niệm
thế giới có 5 tầng: Tầng 1 là thế giới mường trời, tầng 2 là thế giới các vị
thần và tổ tiên do Then Luôn cai quản, tầng 3 là thế giới trên từng mây
vòm trời, tầng 4 là thế giới thực của loài người và muôn vật, tầng 5 là
thế giới dưới mặt đất của những người tý hon ăn đất.


Quan niệm trìu tượng đó hịa cuộc sống của họ trong vũ trụ bao la
và qua đó càng củng cố nhân sinh quan phong kiến với các đẳng cấp


khác nhau đã được định hình hàng trăm năm. Kho tàng truyện cổ tích
của đồng bào rất phong phú. Người ta kể và giải thích sự hình thành tạo
vật của con người ít nhiều mang yếu tố huyền thoại, tôn giáo. Loại
truyện ngụ ngôn, chuyện cười dân gian...mang ý nghĩa đạo đức- xã hội
được đồng bào ưa thích.


Loại chuyện đã sử, truyền thuyết như những bản trường ca và
công tích những người khai phá đất đai đầu tiên, những người có kỳ tích
trong việc dưẹng bản lập mường, chiến đấu dũng cảm hy sinh (Cầm
Quý, Lạng Chương, Chương Han...) được đồng bào kể hết đêm này
qua đêm khác.


Truyện thơ dân gian Thái có nhiều tác phẩm nổi tiếng vượt ra
ngồi phạm vi dân tộc như Xống Chụ xôn xao, Khun Lú Nàng úa, làm
thơ và hát luôn đi bên nhau. Người hàng Tổng, Tày Mười thích "xuối"
(ngân vịnh có sáo đệm), người Man Thanh thích "khắp" (hát theo lời thơ
có đệm đàn).


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

đi rẫy (nhóm Man Thanh), bộ cồng chiêng 4 âm đánh theo lối "liệp nậm"
như nước chảy, bộ khắc gỗ chày trên cối và bộ gõ sống nứa...là những
sản phẩm độc đáo mang dấu ấn văn hóa đậm nét vùng ní Nghệ An.
Nhờ nền tảng văn hóa truyền thống đặc sắc, nhiều tác phẩm văn hóa
nghệ thuật mà nhiều nghệ sĩ của đồng bào Thái Nghệ An đã xuất hiện
và trở thành sản phẩm văn hóa khơng chỉ của một vùng quê, một dân
tộc mà còn là tài sản quốc gia làm phong phú kho tàng văn hóa Việt
Nam.


III. Dân tộc khơ mú


ở Nghệ An người Khơ-mú có số dân đơng nhất so với cộng đồng


Khơ- mú của cả nước và vùng cư trú tương đối tập trung. ở Tây Bắc, họ
sống phân tán trên địa bàn quá rộng thuộc các tỉnh Lai Châu (huyện
Điện Biên, Tuần Giáo), Sơn La (huyện Sông Mã, huyện Thuận Châu,
huyện Mường La, huyện Mai Sơn, huyện Mộc Châu). Yên Bái (huyện
Văn Chấn) và Thanh Hóa (huyện Quan Hóa)..v..v..


Số dân Khơ - mú tăng nhanh trong mấy chục năm gần đây. Lu-pơ
cho biết vào năm 1934 người Khơ - mú có khảng 1.500 người. Theo số
liệu của Ban dân tộc Nghệ An cho biết năm 1956 có 2.422 người, và
đến 1990 là 20.235 người <b>(1) (*)</b><sub>.</sub>


(1): Con số này cần khảo sát lại bởi trong 2 năm 1990-1991 đồng
bào liên tục di cư sang Lào và biến động trong khoảng tăng, giảm 500
người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Hiện nay vùng cư trú của người Khơ mú ở Nghệ An gồm 4 huyện:
huyện Kỳ Sơn có 13.035 nguời, huyện Tương Dương (5.562 người),
Quế Phong (1.366 người ) và Quỳ Châu (302 người), với tổng số 2.713
hộ. Một vài địa danh hang động, doi đất còn được gọi tên là của người
"Xá". Điều đó cho phép người ta nghĩ đến một địa bàn sinh tụ trước đây
của người Khơ -mú và Ơ đu hiện đang sinh sống ở đầu nguồn các khe
suối. Đồng bào kể lại rằng họ mới từ Lào sang Nghệ An khoảng 8-10
đời, tức khoảng trên dưới 200 năm nay do lánh nạn các cuộc chiến
tranh giữa các tộc người trong vùng, trốn thuế nặng nề và đi tìm vùng
đất mới. Người Khơ mú còn kể rằng lúc mới tràn sang, họ đã xuống tận
vùng Huội Nguyên (nay là một phần huyện Con Cuông, một phần của
huyện Tân Kỳ) nhưng bị người Thái đẩy lùi vào trong khe núi.


Đồng bào Khơ mú ở phía Tây Nam thị trấn Mường Xén có quan
hệ thân tộc, hôn nhân gần gũi với cư dân Khơ mú đang cư trú ở Lào,


quãng đường chỉ một buổi đường. Trong tâm thức của đồng bào vùng
cư trú của cư dân Khơ mú ở Trung Hạ Lào luôn luôn là vùng tưởng nhớ
có ý nghĩ thiêng liêng. Ta có thể nghĩ đến một giả thiết về mỗi quan hệ
gần gũi cư dân này trong lịch sử.


Người Khơ mú sống chủ yếu bằng nương rẫy. Trình độ canh tác
nương rẫy của họ có thể nói là một trong những dân tộc có trình độ sản
xuất thấp nhất ở nước ta. Cơng cụ điển hình của lối canh tác này là
chiếc gậy chọc lỗ (người Thái gọi là "mạy cu". Gần đây, chiếc gậy được
bọc đầu bằng sắt. Cịn trước đây họ chỉ vót nhọn rồi hơ qua lửa.


Quá trình sản xuất nương rẫy diến ra trong một năm với rất nhiều
công việc nhưng rất đơn giản. Nông lịch của họ so với âm lịch người
Kinh có sớm hơn 2 tháng. So với những người đồng tộc của họ ở Tây
Bắc lịch sản xuất vùng này có một số điểm khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

1 <b>Cúng ma nhà</b>


2 Làm nhà, cưới, làm cỏ thuốc phiện


3 <b>Làm nhà, cưới, chọn đất đẻ phát rẫy, thu hoạch</b>
<b>thuốc phiện</b>


4 Phát đốt rẫy, hái măng nấm dự trữ, hái ngô
5 Gieo lúa rẫy, làm cỏ ngô


6 Làm cỏ ngô, trồng cây có củ


7 Thu hoạch ngơ, làm cỏ lúa, trồng đậu
8 Làm đất thuốc phiện



9 Gieo thuốc phiện làm kho lúa
10 Thu hoạch lúa rẫy


11 Làm cỏ thuốc phiện


12 Làm cỏ thuốc phiện, chuẩn bị làm nhà


ở đây thời tiết rất thất thường ngay cả trong cùng một vùng hẹp. Vì thế
thu nhập do nơng nghiệp đưa lại hết sức bập bênh. Có bản gặp may
mưa thuận gío hịa vào kỳ gieo hạt thì được mùa. Cõ bản ở kề cạnh
khơng gặp mưa lại lâm vào mất mùa đói kém. Năm đủ mùa cũng chỉ đủ
sống được 6-7 tháng/năm. Năm mất mùa phải dựa vào ngô non, rau
ừng, măng, nấm và củ mài. Săn bắn, hái lượm đóng vai trò quan trọng
trong đời sống của đồng bào. Sản phẩm chăn ni khơng đáng kể. Nó
chỉ đáp ứng nhu cầu nghi lễ tôn giáo. Do điều liện sống như vậy nên đất
đai kiệt màu nhanh, chu kỳ canh tác trong mấy chục năm trước đây đến
khoảng 7-8 năm nay chỉ cịn 2-3 năm. Vì thế đồng bào thường chỉ có 10
- 20 nóc nhà. Có những gia đình do di chuyển chỗ ở đã có 10-15 lần làm
nhà. Đến nay diện vận động định canh định cư ở đồng bào Khơ mú vẫn
còn rất cao so với các dân tộc trong vùng(<b>1)</b><sub>. </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

và phần lớn quần áo phụ nữ phải đổi của người Thái. Vì thế trang phục
của họ khơng có gì đặc biệt chỉ


...


(1) Nếu chỉ định cư mà cịn du canh thì định cư đó chỉ là kết quả của sự
bắt buộc bằng biện pháp hành chính. Thực tế, đồng bào sinh sống ngay
trên lán du canh ở Kỳ Sơn có nhiều bản phải đi tìm đất canh tác xa hàng


ngày đường. đây là hình thức định cư du canh mà thực chất vẫn là du
canh du cư. Điều này dễ làm cho nhứng cán bộ thống kê kết quả định
cư ngộ nhận dẫn đến sai lệch lớn.


khác ở áo phụ nữ là hàng tiền đồng xu nhỏ dính trước ngực áo, có nơi
có vỏ ốc núi. Trước đây khi còn ở Lào, họ dùng vỏ ốc này làm tiền trao
đổi.


Do lối sống lang thanh nay đây mai đó như vậy nên nhà cửa của họ
cũng rất đơn giản. Chỉ cần 1 con dao là có khả năng hồn thiện một
ngơi nhà: Cột tre, phên nứa, sàn bương...


* *
*


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

những "phông" lệ thuộc vào mường Thái). Trưởng bản (gan cung)
thường là trưởng tộc của dịng họ có dân số đơng nhất trong bản nhưng
phải được chúa đất địa phương người Thái chấp nhận. Một số bản cư
trú kề cạnh ngưuơì Hmơng như một số cư dân ở vùng Keng đu và Huội
Giảng (Kỳ Sơn).


ở Tây bắc cũng như ở Nghệ An chúa đất toàn quyền sở hữu đất
đai tồn mường bởi ơng ta tượng trưng cho quyền lực của "Then" và
được luật lệ cổ truyền đảm bảo. Vì thế rừng rú, ruộng đất, sản vật rừng
và kể cả con người cùng là sở hữu của Mường. Người Khơ- mú lệ
thuộc do thân phận ngụ cư nương nhờ chúa, được chúa dung nạp phải
chịu làm "cuông, pua". Chế độ đẳng cấp khắt khe của xã hội Thái, lại
thêm kỳ thị dân tộc, cư dân Khơ mú phải thực hiện nghĩa vụ tập thể theo
từng bản nên đời sống vốn đã cơ cực lại càng cơ cực hơn.



Điều đáng chú ý là mặc dầu thân phận đó nhưng tính độc lập
tương đối vẫn tồn tại đối với xã hội cổ truyền của người Khơ mú chiếm
cư một vùng đất nhất định để lập bản. Họ sinh hoạt văn hóa cộng đồng
với nững phong tục, tập quán cổ truyền của mình. Mọi thành viên có
quyền chiếm hữu đất đai trên vùng đất được sử dụng tập thể (bản) chứ
khơng có quyền sở hữu sử cá thể vì đó là đất của Mường. Nếu ai rời
mường bản thì mất cả quyền sở hữu sử dụng đất đó. Nếu ai khai phá
trước thì được hưởng quyền nhượng bán, đổi chác cho nhau trong nội
bộ bản. Nếu bỏ hóa thì mất và thuộc về bản. Nếu ai thu nhặt được
những sản vật quý hoặc săn bắn được thú lớn phải nộp cho chúa 1/3,
chia cho bà con trong bản 1/3 và cá nhân được hưởng 1/3.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

gặp đất tốt, lúa không bị thú rừng phá hoại trong nhiều năm..v..v...Tài
sản tích lũy của họ thường là tiền vỏ ốc, bò đàn và chiêng. Trong các
dân tộc trong vùng hiếm thấy sự tương trợ trong đời sống đồng bào hết
lòng như Khơ mú. Trong bản nếu một nhà cịn ăn thì cả bản cịn ăn.
Quan hệ anh em trong dòng họ và bạn bè đã cố kết họ lại tất bền vững.
Tổ chức cộng đồng khá bền chặt mặc dầu sống giữua lòng xã hội Thái
là xã hội có giai cấp nhưng ở người Khơ mú sự phân hóa giai cấp mới
chỉ ở giai đoạn mạch nha. Trước đây sự xảy ra các hình thức hợp tác
nơng nghiệp ở vùng đồng bào Khơ mú khó đứng vững vì phương thức
phân cơng lao động theo lối bình quân của đồng bào được bảo lưu khá
chặt chẽ. Hậu quả của lối canh tác du canh và xã hội cịn đang ở trình
độ thấp.


Gia đình của người Khơ mú ở Nghệ An trước cách mạng tháng
tám là gia đình nhỏ phụ quyền. Người cha, người chồng là người chủ
gia đình. Ơng ta quyết định những công việc làm ăn, làm nhà, chuyển
cư. Nhưng trong thực tế quyền lực đó cịn được chia sẻ cho các thành
viên trong gia đình khơng kể trai hay gái. ở đồng bào những việc hệ


trọng thường được bàn bạc trong gia đình, bên bếp lửa của gian trong
thờ ma tổ tiên (tạ dạ). Quan hệ gia đình ấm cúng, hòa thuận. Đồng bào
rất coi trọng dư luận xã hội. Nó như là tập thể để duy trì sự ổn định của
xã hội. Tình thân ái, trọng nghãi và kiên cường là những truyền thống
cao đẹp của cư dân người Khơ mú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

di cư vào vùng này họ là cư dân ở vùng gần Luông - Pra - Băng hơn ở
Tây Bắc. Vùng Luông - Pra - Băng là một trung tâm có số dân Khơ mú
sống tập trung hơn. ở đó cịn giữu được hình thái gia đình lớn này nhiều
hơn các vùng khác<b>(1)</b><sub>. Theo quy luật phát triển các hình thái gia đình của</sub>
xã hội loài người, do tác động của yếu tố tư hữu tài sản, gia đình lớn ở
người Khơ mú ở Nghệ An đang trên đường tan rã. Đây là hiện tượng
đặc biệt ở người Khơ mú ở Vịêt Nam có những gia đình có hàng chục
người duy trì sinh hoạt hịa thuận tồn tại mãi đến nay. ở Tây Bắc hay
Thanh Hóa khơng có hiện tượng này.


Các dịng họ của người Khơ mú có nhiều tên gọi mang ý nghĩa
Tơ-tem giáo. Tên gọi đó có thể là tên một loại thú như Hổ (Rvai), chồn
(Moong), Khỉ (Họa)... có thể là tên một lồi chim như họa mi (Lang tu),
chim sẻ (Dịt), chim quốc (Khưt lộc). Trong mỗi dòng họ người trên kẻ
dưới được phân biệt qua tục lễ cổ truyền như cậu hỏi vợ cho cháu, luật
quy định chỗ ngồi trong khi thực hiện nghi lễ tôn giáo ..v..v...


Dấu vết của liên minh 3 thị tộc được thể hiện ở các mỗi quan hệ
"ati hem" (anh em cùng tổ tiên), "đồng êm mại êm" (bên ngoại của Êgô),
"mạ cưu đông quynh" (bên rể của Êgô). Tàn dư xã hội mẫu hệ vẫn còn
nhiều trong đời sống xã hội. Vai trị của ơng cậu rất lớn trong gia đình
của những cặp vợ chồng mới cưới. Ơng ta có ý kiến quyết định cuối
cùng trong việc gả chồng cho cháu gái. Khi người ta cịn ở rể ơng ta làm
Kư-đúp (khau cút), lập bếp thờ tổ tiên, nhóm lửa, cho hạt giống, đặt tên


cháu đầu lòng..v..v...Một tập tục thể hiện tàn dư xã hội mẫu quyền là khi
ở rể chàng trai thuộc họ vợ, con gái thuộc họ mẹ, đến khi nào về nhà
chồng mới đổi họ theo bên chồng..v.v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

tay sai có khả năng khiến được mưa, gió, lũ, lụt. Dưới đất có ma đất
(hrơi ptê có quyền khiến ma bản (hrôi cung), ma rẫy (hrôi hrế), ma rừng
(bri) trong nhà có ma tổ tiên (tạ dạ) và ma nhà (hrôi gang). Bàn thờ tổ
tiên đặt ở bếp trong nhà, mỗi dịng họ có một phương thức riêng để
cúng tổ tiên của mình. Người ta dấu kín khơng cho người ngồi dịng họ
và người khác tộc biết. Nghi lễ tơn giáo này cịn được biểu hiện ở tập
tục ăn tô tem vào ngày cúng tổ tiên là ngày Một tháng Giêng hàng năm.
Mỗi dịng họ có một cách giải thích dịng


………..


(1)Theo tài liệu điền gia của tác giả năm 1978 gia đình Moong Thao On
ở bản Thằm Lân xã Mường Típ (Kỳ Sơn). 77 tuổi có 4 thế hệ cùng
chung sống, có 7 cặp vợ chồng, tổng số nhân khẩu là 32 người. Gia
đình Cút Xen Thay (thơn Chà Ca, xã Bảo Thắng) có 4 thế hệ, 6 cặp vợ
chồng, 32 người. Gia đình Pít Phó Nhi ở bản Huồi Phn xã Keng Đu
(Kỳ Sơn) có 32 người, 3 thế hệ, 5 cặp vợ chồng.


họ của mình bằng một câu chuyện có tính chất huyền thoại và mong
muốn khi về thế giới bên kia là về với tổ tiên. Tập tục mang ý nghĩa
phồn thực, sinh sôi nảy nở ở người Khơ mú rất nhiều : Tục thờ sinh
thực khí, trồng khoai sọ trên rẫy lúa có quan niệm "có vợ có chồng" <b>(1)</b><sub>,</sub>
tục hai vợ chồng chủ nhà đến gieo hạt cùng ăn ngủ trên nhà tạm ở rẫy,
trên bồ lúa có đặt thêm ít củ khoai sọ.


Nền văn nghệ dân gian của dân tộc Khơ mú có nhiều đặc sắc.


Điệu hát "tơm" khá độc


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

Đoàn ca múa nhạc Nghệ An dàn dựng tiết mục văn nghệ được nhiều
giải thưởng lớn.


Kho tàng chuyện cổ tích, chuyện kể tô tem ở đồng bào cũng rất
phong phú và độc đáo. Điều kiện nghiên cứu và giới thiệu chưa được
quan tâm đúng mức nên chưa được nhiều người biết tới.


Có thể nói trong số các dân tộc đang sinh sống ở Nghệ An, dân
tộc có những bước tiến đổi đời nhất là dân tộc Khơ mú. Tuy hiện nay
đời sống đồng bào cịn nhiều vấn đề cực kỳ khó khăn cần được quan
tâm hơn nữa, nhưng những bước tiến đó thực sự là kỳ tích. Một lời
"Tơm" sau đây nói nên điều đó.


<i>"Đang chết rục chết mịn</i>
<i>Bác Hồ về Đảng đến</i>
<i>Người Khơ mú ta đổi đời</i>


<i>Không chết nữa mà làm người tự do"</i>
...


(1) Đồng bào cho rằng khoai sọ là bạn tình của lúa.


IV. Dân tộc ơ đu


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

Trước đây người Thái trong vùng gọi họ là người Tày Hạt (tày
nghĩa là người - hạt là rách- Người rách rưới). Đồng bào tự gọi là Phrom
Ơ-đu), và rất tự hào với tên gọi đó. Tiếp xúc với các dân tộc lân cận, họ
đều có tên gọi riêng khơng gọi theo tên gọi của dân tộc nào (ví dụ:


Người Thái là Ơraay, người Kinh là Dênh)..v...v..


Hiện nay người Ơ đu sống ở các bản Xốp Pột, xã Kim Hòa và bản
Coom xã Kim Đa thuộc huyện Tương Dương, xen kẽ với cư dân Thái và
Khơ mú. Người Ơ đu khơng có một


bản nào thuần tộc, ngôn ngữ giao tiếp của họ trong sinh hoạt hàng ngày
là tiếng Thái hoặc tiếng Khơ mú. Chỉ người già biết sử dụng tiếng nói
của dân tộc mình trong hệ số đếm từ 1 đến 10 và một số từ vị trí cơ bản
trong sinh hoạt đời sống. Cịn phần đông đồng bào đã quên tiếng Ơ đu<b>(1)</b>
.


Số lượng cư dân ít ỏi, hơn nữa lại đang trong q trình hịa hợp
và đồng hịa với các dân tộc khác (Thái và Khơ mú) cho nên người Ơ
đu cần được đặc biệt quan tâm nghiên cứu.


Về nguồn gốc lịch sử người Ơ đu, cho đến nay các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội cũng chỉ dừng lại ở sự đốn định có tính chất giả
thuyết.


Đặng Nghiêm Vạn khi giới thiệu về người Ơ đu cho biết: Qua các câu
chuyện kể lại, nếu lược bỏ những điều hoang đường thì xưa cả một
vùng lưu vực sông Nậm Nơn và Nậm Mộ và cả vùng rộng lớn bên kia
biên giới Việt Lào là vùng cư trú của họ. Dân tộc này khá đông, làm chủ
một vùng đất đai rộng lớn, không cư trú xen kẽ với bất cứ một dân tộc
nào khác. ở


………


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<i> (1) Tiếng Ơ đu thuộc nhóm ngơn ngữ Khơ me. Trong vị trí từ cơ bản</i>


của họ có một số yếu tố của ngôn ngữ Việt - Mường. Nhiều nhà nghiên
cứu cho rằng đây là một tiếng cổ còn giữu được nhiều phụ âm đầu kép,
cặp ba (như brt, drb, brm, phv, thrm...) vẫn còn phụ âm cuối.


Việt Nam họ có trung tâm lớn là Xốp Tâm (tức vùng Tà Cạ và Keng Đu
huyện Kỳ Sơn hiện nay). Mường Lâm (tức vùng Hữu Khuông huyện
Tương Dương hiện nay), Xiêng Mèn (tức vùng Yên Hòa huyện Tương
Dương hiện nay).


<i>Những dấu vết người Ơ đu còn để lại vùng này là những di tích thành lũy ở xã</i>
<i>Hữu Khng (Tương Dương). Tương truyền: xưa người Ơ đu có những "Nhà</i>
<i>nước" những nơ lệ và bầy voi, có vua trị vì ở vùng này. Họ làm ruộng phát rẫy</i>


<i>và làm nương để sing sống, có nghề đãi vàng truyền thống <b>(1)</b><sub> có bn bán xi</sub></i>


<i>ngược với những thuyền bè tấp nập.v..v… Như vậy đã có một thời xã hội của họ</i>
<i>đạt đến trình độ khá cao. Nhưng cuộc sống bình yên của họ bị phá vỡ không</i>
<i>biết vào thời gian nào. Gặp phải thời loạn lạc, triều đình mang quân lên đánh</i>
<i>phá, người Ơ đu bị tan tác. ít lâu họ lại tụ tập với trung tâm ở Huổi Puông,</i>
<i>Huổi Xan, tức vùng xã Kim Đa huyện Tương Dương hiện nay. Tại đây "vua quan"</i>
<i>Ơ đu lại bắt dân đắp thành ở núi Pú Pâu nằm giữa thung lũng, còn dân cư trú ở</i>
<i>xung quanh. Thành núi Pu Pâu và những vùng rừng trồng (mít, cau, tre, met)</i>
<i>nay vẫn cịn vét tích. Nhưng trong vài trăm </i>


năm gần đây trước những làn sóng di chuyển dân tìm đất sinh sống của
người Thái, Khơ mú và Hmông ồ ạt từ Tây Bắc và từ Lào tràn sang số
dân ít ỏi của người Ơ đu bị dồn vào những


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

dịp cúng ma mường, ma bản, ma khe suối... của người Ơ đu. Trong các
dịp này địa vị tinh thần của người Ơ đu được các dân tộc khác coi trọng.


Tập quán này được biểu hiện về mặt tôn giáo: sự tơn trọng của những
người có cơng khai phá đất đai trong vùng.


Khi thực dân Pháp về cơ bản "bình định" xong miền đồng bằng
chúng giữ lại thổ tỵ chúa đất thống trị trong tầng lớp quý tộc Thái ở miền
núi, thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc, bóc lột nặng nề đồng bào các
dân tộc, đời sống của các dân tộc thiểu số nói chung, đời sống của
người Ơ đu nói riêng càng cơ cực hơn và đồng bào đứng trước nguy cơ
bị diệt vong.


...


(1) Diệp Đình Hoa cho rằng:" người Ơ đu hiện nay vẫn còn làm nghề
đãi vàng. Điều đặc biệt mà chúng tôi ghi nhận được là đồng bào nuôi rất
nhiều vtj. Hàng ngày đồng bào đãi phân vịt để lấy vàng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

trang phục cổ truyền. Ngày hội mùa đầu năm đồng bào tổ chức riêng
không cùng một ngày với cư dân Thái và Khơ mú trong vùng.


Gia đình của người ơ đu là gia đình nhỏ phụ quyền. Hơn nhân
thuận chiều đã trở thành nguyên tắc khá bền vững. Sự phân biệt thứ
bậc anh em giữa các con vợ cả, vợ lẽ rõ ràng. Chủ gia đình là người
chồng người cha quyết đoán mọi việc. Dấu vết chế độ mẫu hệ vẫn còn
như tục ở rể, tục lại mặt, tục nộp tiền "klây-glẩy" cho cha mẹ vợ, tục
dâng tổ tiên món ăn thịt sóc khơ và cá ướp muối, tục đổi tên và họ theo
tên họ vợ trong suốt thời gian ở rể.v.v...


Trong tiếng nói của người Ơ đu, khơng có tên gọi của dịng họ.
Các tên họ và cách giải thích nguồn gốc của dịng họ đồng bào rất giống
cách gọi của người Thái trong vùng. Số đồng bào ít ỏi cịn lại hiện nay


chỉ cịn một số họ: Đó là họ Lị gồm 2 chi là Lị Văn và Lị May. Họ Lị có
2 chi là Lò em kiêng ăn "nộc táng lò" và Lị anh kiêng ăn chim phượng
hồng đất. Nhưng ở đây, phần lớn cư dân thuộc chi Lò em. Điều dễ
nhận là các q giang của ngơi nhà của chi Lị em đều có gốc quay về
một phía.


Người Ơ đu tính thời gian trong năm bắt đầu từ ngày có tiếng sẩm
đầu năm. Đây là một tục lệ rất cổ của các cư dân nông nghiệp ở vùng
Đông Nam á. Vào ngày này, người ta mới đặt tên cho đứa trẻ sinh ra
trong năm và bắt đầu tính tuổi cho nó. Cũng vào ngày này những người
chết mới được về với tổ tiên vĩnh viễn, những người góa bụa mới được
phép đi bước nữa. Ngày sấm đầu năm (chăm phtrong)- lễ sấm năm mới
được đồng bào tổ chức rất long trọng. Các nơi quanh vùng tập trung về
bản Xốp Pột (xã Kim Đa). Tương truyền vua của người Ơ đu xưa đã
ngự ở đó. Đồng bào mổ trâu và lợn ăn mừng, múa hát. Phổ biến ở đồng
bào Ơ đu tín ngưỡng vạn vật hữu linh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

mất. Trong gia đình nếu gặp điều chẳng lành như ốm, đau, có người
chết, hỏa hoạn người ta cho rằng ma nhà (bua đinh) hoặc ma ở chỏm
tóc làm hại. Người ta tổ chức cúng ma nhà với nhiều lễ vật và tổ chức
cưới vợ cho người đàn ông đã chết hoặc cưới chồng cho những người
đàn bà đã chết để khỏi nhớ vợ, nhớ chồng mà luấn quấn làm hại người
nhà. Thầy cúng (doang xưa ỏ) nói hộ nguyện vọng gia đình và đưa lễ
vật cho ma nhà để giúp gia đình qua khỏi hoạn nạn.


Quan niệm về thế giới bên kia của đồng bào về cơ bản giống như
người Thái trong vùng. Điều khác là bên cạnh Then Luông, Then Vi,
Then Bắc..v..v.. Người Ơ đu cịn đặt thêm vị Then Na (một thứ Then
khơng có trong điện thần của người Thái). Đồng bào giải thích rằng:
Những người bị hổ vồ chết khơng phải do ma rừng bắt mà do Then Na


về bắt làm lính hầu.


* *
*


Lịch sử của dân tộc Ơ đu có những nét đặc biệt mà nhiều người
vẫn nhận thấy là phải quan tâm nghiên cứu và có chính sách xã hội sát
hợp. Đây là một dân tộc đang trên đường đi đến chỗ tiêu vong đã và
đang được cách mạng cứu sống. Trong lịch sử của mình họ đã từng có
một thời oanh liệt nên khi được hồi sinh mức sống nội tại mãnh liệt bùng
lên. Sự tiến bộ vượt bậc của một vài trăm con người này làm cho nhiều
người phải ngạc nhiên. Bản Xốp Pột trở thành ngọn cờ tiêu biểu của
công tác định cư ở vùng cao Nghệ An trên chục năm liên tục, tỷ lệ dân
số thoát nạn mù chữ cao hơn nhiều so với các dân tộc khác trong vùng,
nhiều con em của cộng đồng đã trưởng thành nhanh chóng. Nhưng điều
đáng tiếc là cộng đồng gười Ơ đu đã và đang bị "hòa tan" vào các cộng
đồng dân tộc trong vùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

đáng được quan tâm đúng mức. Cần có một chính sách đặc biệt đối với
một bộ phận rất nhỏ cư dân các dân tộc Nghệ An để trong tương lai
dòng máu của người Ơ đu vẫn chảy trong huyết quản của mạch sống
các dân tộc thiểu số trong vùng và nền văn hóa truyền thống của họ
được phát huy như bông hoa sặc sỡ, ngát hương trong vườn hoa các
dân tộc Nghệ An.


<b>V. dân tộc Hmông</b>


ở Việt Nam, người Hmông cư trú chủ yếu ở Tây Bắc. Người
Hmông ở Nghệ An là điểm phía Nam xa nhất của họ trong q trình di
cư từ phía Bắc vào. Trong hơn số 40 vạn dân của cả nước, người


Hmông ở miền núi Nghệ An chỉ có 17.665 người <b>(1) (*)</b><sub>. Họ cư trú ở vùng</sub>
cao hiểm trở ở biên giới Vệt Lào sống xen kễ với các dân tộc Thái và
Khơ mú <b>(2)</b><sub>. Có 2 vùng sinh tụ tương đối tập trung ở Nghệ An là: vùng núi</sub>
cao ở phía Bắc thị trấn Mường Xén (huyện Kỳ Sơn) gồm các xã Huồi
Tụ, Mường Lống, Đoọc May, Bắc Lý, Mỹ Lý (giáp huyện Quế Phong).
Vùng núi cao phía Nam Mường Xén gồm các xã Na Ngoi, Hin Ngộn,
Mường Típ, khối cư dân tập trung trong vùng này chiếm 83% dân số
người Hmông ở Nghệ An.


ở Nghệ An người Hmông thường được các dân tộc khác gọi là
người "Mẹo" là cách phát âm nặng của địa phương từ tiếng "Mèo" mà
thành. Từ sau khi đổi tên Mèo thành Hmơng đồng bào rất phấn khởi vì
được gọi đúng tên của mình <b>(3)</b><sub>.</sub>


Người Hmơng ở Nghệ An có 2 ngành: Hmơng trắng và Hmông
đen, sự phân biệt này được dựa trên một số đặc điểm khác nhau chủ
yếu về ăn mặc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

thứ VII - IX mới tách thành tộc riêng. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI người
Hmông thường xuyên di cư về phía Nam và Tây Nam để tránh sự bóc
lột của bọn chúa đất phong kiến Hán. Đến thế kỷ XVII triều đình Mãn
Thanh đổi chế độ cai trị thổ ty bằng chế độ bổ nhiệm làm cho mâu thuẫn
dân tộc ngày càng tăng thêm. Qua những biến động lớn của lịch sử
Trung Quốc trong thời kỳ này đồng bào Hmơng muốn thốt khỏi sự tàn
sát và phải đi tìm nơi sinh sống yên ổn hơn. Các cuộc thiên di kéo dài từ
thời Thái bình Thiên Quốc đến


...


(1) Người Hmông ở nước ta cư trú ở các tỉnh Hà Tuyên, Lai Châu, Yên


Bái, Lào Cai và Thanh Hóa. ở Nghệ An họ sinh sống tại 3 huyện Kỳ
Sơn, Tương Dương và Quế Phong.


<i>(*): Theo tổng hợp của Ban DT & MN Nghệ An từ báo cáo của các</i>
<i>huyện, thị, tính đến ngày 30/6/2009, người Mông ở Nghệ An có</i>
<i>29.412 người, chiếm 6,72% dân số các DTTS..</i>


(2) Địa bàn cư trú của họ ở sườn núi có độ cao trung bình từ
800-1500m so với mặt biển. Đây là vùng dọc biên giới Việt - Lào có nhiều
đỉnh núi cao nhất ở vùng núi Bắc Trường Sơn. Nhiệt độ trung bình trong
năm là 15-20 độ C. Địa hình bị chia cắt mạnh. Hiện nay rừng dã bị tàn
phá gần hết, đất bị dã ong hóa, sa-van hóa.


(3) Thực ra đồng bào tự gọi là "Hmơng" (có thanh sắc), khi nói phụ âm H
được lướt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

nay từ 100 - 150 năm<b>(1)</b><sub>. Q trình di cư của dân tộc Hmơng cũng là q</sub>
trình đấu tranh chống áp bức bóc lột, đi tìm cuộc sống cơng bằng và tự
do. ý thức tộc người của đồng bào rất cao. Dưới thời thực dân Pháp,
người Pháp lừa phỉnh đồng bào cho rằng đồng bào có cùng tổ tiên với
người Pháp và tiến hành truyền bá thiên chúa giáo vào vùng Hmông
nhưng không được đồng bào chấp nhận. Người Hmông ở Nghệ An sinh
sống bằng sản xuất nương rẫy. Có thể nói trình độ canh tác rẫy dốc của
họ cao hơn nhiều so với các dân tộc khác cư trú trong vùng, nhất là
những nương định canh. Trên loại nương này đồng bào trồng các loại
hoa, ngô và thuốc phiện. Trước đây rừng rậm còn nhiều, đất canh tác
màu mỡ, nương du canh trồng lúa thường làm từ 5 đến 6 vụ rồi mới bỏ
hóa. Sau hàng chục năm phá rừng, hiện nay rừng rậm khơng cịn, tầng
đất canh tác mỏng, chu kỳ sản xuất chỉ còn 2 đến 3 vụ. Hiện tượng
sa-van hóa đã trở thành phổ biến. Hiện nay đồng bào khơng có tập qn


dùng cày (khác với Tây Bắc) có thể là do khi mới vào Nghệ An rừng rậm
còn nhiều nên khơng có nhu cầu dùng cày.


Từ năm 1960 trở đi thực hiện cuộc vận động định canh định cư
đồng bào bắt tay vào khai phá đất đai và làm ruộng lúa nước. Nông lịch
sản xuất ở vùng này khác với vùng Tây Bắc. Về công cụ lao động đáng
chú ý là công cụ sắt đều do đồng bào tự chế. Đồng bào Hmông ở Nghệ
An đều ăn cơm gạo tẻ, khác với những người đồng tộc của họ ở Tây
Bắc phổ biến chế biến các món ăn từ ngơ. Điều đó chủ yếu là do điều
kiện canh tác ở miền núi Nghệ An có điều kiện thuận lợi hơn ở Tây Bắc.
...


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

dẫn đồng abị sang Kỳ Sơn rất đơng. Lúc đầu họ cư trú ở các xã Thằm
Phà, Mường Típ, sau lan rộng ra Huồi Giảng và Nậm Càn, thuộc huyện
Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An.




Trước đây đồng bào sản xuất rất nhiều thuốc phiện. Kỷ thuật sản
xuất cao có nhiều kinh nghiệm. Trong vùng việc sản xuất và lưu thông
thuốc phiện trước đây chủ yếu ở người Hmông. Đây cũng là địa bàn
thuận lợi cho cây thuốc phiện sinh trưởng mạnh.


Chăn nuôi ở đồng bào Hmông khá phát triển. Nhiều gia đình có
đàn lợn hàng chục con. Nghề chăn ni ngựa và bò phổ biến ở đồng
bào này.


Việc thu lượm nông thổ sản của núi rừng được coi là một nguồn
thu nhập đáng kể trong đời sống của đồng bào. Nhiều sản vật quý có ý
nghĩa kinh tế cao như đẳng sâm, cánh kiến đỏ, hà thủ ô, măng,


nấm.v.v… Săn bắn trở thành một nghề phụ phổ biến đối với hầu hết
nam giới từ tuổi trưởng thành.


Việc trao đổi sản vật chỉ là quan hệ đổi chác giữa các cá nhân với
nhau chứ chưa trở thành nền kinh tế hàng hóa. Cả một vùng rộng lớn từ
Kỳ Sơn, Tương Dương sang tận Noọng Hét (Lào) từ trước tới nay chưa
hề có chợ. Điều này khác hẳn với vùng Tây Bắc. Ngày nay, vùng này có
chợ, đồng bào nhanh chóng thích nghi bởi 1 thời hội lễ, mua bán...đã
xảy ra xung quanh chợ vùng cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

Nhìn trên đại thể của người Hmơng Nghệ An các mỗi quan hệ đơn giản
hơn các nơi khác. Điều này có thể giải thích được bởi 2 lý do: Trước hết
là do kết quả của sự di cư cách xa khối cộng đồng sống tương đối tập
trung ở vùng Tây Bắc và ở Nam Trung Quốc. Tình trạng biệt lập với số
dân ít ỏi làm cho những sinh hoạt cộng đồng trên quy mơ lớn khơng có
điều kiện thực hiện được nên cơ cấu xã hội dần dần phải giản đơn hóa.
Thứ hai, là do sống cộng cư với những người Thái đã từng sinh sống
lâu đời ở vùng này nên khi họ đến cư trú kề cận buộc phải lệ thuộc chúa
đất Thái và chịu nhiều ảnh hưởng về văn hóa xã hội của người Thái.


Thực dân Pháp đã lợi dụng bộ máy sẵn có của xã hội trước
đó cải tạo thành tổ chức chính quyền của chúng nhằm đặt ách thống trị
ở vùng đồng bào Hmông. "Giào" là đơn vị cư trú như bản của người
Thái. Thường thường mỗi Giào có 15-20 hộ. Dân cư của Giào có thể
thuộc 1 hoặc nhiều dịng họ. Giào có đất đai cư trú và sản xuất, có luật
tục, tơn trọng dư luận xã hội, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau..v..v..Đứng đầu
Giào là ơng "lủng Thầu". Ơng ta là người có uy tín được dân cử ở
những vùng có vài ba Giào, có cơ cấu "Liên Giào". Người đứng đầu gọi
là "Nai Bản". Nai Bản chăm lo bảo vệ trị an, đốc thúc thu thuế. Khoảng
10-15 "Giào" là một "Phống". Đầu "Phống" là "Tà Xẻng". Khi thực dân


Pháp trực tiếp thu thuế, Tà Xẻng được gọi là Lý Trưởng. Do quan hệ
phức tạp ở trong vùng và do mâu thuẫn với nhau về quyền lợi thể hiện
trong việc định mức thu thuế nên trong nhiều đời người Thái và Hmông
liên tục kiện tụng lẫn nhau<b>(1)</b><sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

ông Hmông hàng năm phải đi phu 2 đến 3 lần, mỗi lần 15 -20 ngày và
được coi như một khoản thu thuế nếu như không đủ lương thực để nộp.
Chức dịch người Hmơng có nhiều đặc quyền. Có đất tiếp khách (Khơ
Củ), có người làm phục dịch trong gia đình (Tý súng), có người bảo vệ
(Thú dung).v.v… Các chức dịch đã biết cho dân vay lãi và độc quyền
đường dây buôn thuốc phiện trong vùng và có ảnh hưởng lớn đến một
vùng rộng lớn ở Bắc và Trung bộ Lào.




...


(1)Dù bất bình với người Thái trong vùng, đầu năm 1930 Vừ Như Huồi
(Bản Huồi Giảng) dẫn đồn người Hmơng ra Hà Nội xin gặp tồn quyền
Đơng Dương và đưa đơn kiện địi thay chế độ "Phìa Tạo" của người
Thái bằng chế độ "Tà Xẻng" của người Hmơng. Sau đó ít tháng thực
dân Pháp tổ chức gặp mặt các phìa tạo Thái và chức dịch của người
Hmông tại thị trấn Mường Xén và đồng ý để dân Hmông tự quản. Chúng
công nhận 3 "Tà Xẻng" do dân bầu ra là Vừ Như Huồi (Huồi Giảng), Lẩu
Xe Chò (Mường Lống) và Sùng Nọ Dinh (Mường Típ). Sùng Nọ Dinh là
con Pá Chay lãnh tụ nơng dân khởi nghĩa ở Tây Bắc từ đầu thế kỷ XX
đến năm 1923. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất của đồng bào
các dân tộc thiểu số trước cách mạng tháng 8 năm 1945.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

Nhiều chức dịch kiêm luôn cả nghề thầy cúng như Trùm Bản Cư


Ba Măng (bản Thăm Khốm, xã Tà Cạ). Những người khá giả và có chức
vụ vẫn trực tiếp lao động, quan hệ thân thiện với quần chúng và có uy
tín trong làng bản. Phần lớn họ là những tộc trưởng nên càng có uy
quyền hơn. Vì thế trên thực tế trong xã hội người Hmông từ trước đến
nay cuộc đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc chưa bao giờ xảy ra
một cách gay gắt. Đây là điều đángchú ý trong việc nghiên cứu quan hệ
dòng họ ở người Hmông không chỉ ở Nghệ An mà đối với cả cộng đồng
Hmông ở Việt Nam.


Cũng giống như ở Tây Bắc quan hệ dòng họ rất được coi trọng.
Từ quan niệm của một ông tổ sinh ra, mỗi một dịng họ có tên gọi riêng.
Dù cư trú cách xa nhau đến mấy dù ở các địa phương và quốc gia khác
nhau, dù không quen biết nhau, nhưng có chung những quy ước như
tên gọi hoặc cùng tập tục trong giao tiếp và thờ cúng, ma chay.v.v… đều
được đối xử


như người trong họ<b>(1)</b><sub>.</sub>


Có một điều cần chú ý là người Hmông nếu như quan hệ giữa thứ
bậc chức dịch và tài sản mang ý nghĩa giai cấp khơng có gì lớn xảy ra
thì giữa các dòng họ thường xảy ra các mâu thuẫn, hay dẫn đến các vụ
kiện tụng xung quanh vấn đề tranh chấp đất đai hoặc tranh chấp một
chức vụ nào đó. Có trường hợp cả họ góp tiền cho một người theo đuổi
một vụ kiện để giữ uy tín của dịng họ mình<b>(2)</b><sub>. Mỗi thành viên trong dịng</sub>
họ có ý thức phục thù cho dòng họ mỗi khi dòng họ bị thua thiệt hoặc bị
xúc phạm. Người Hmơng có "cái lý" của người Hmông. "Cái lý" của
người Hmông vừa biểu hiện yếu tố thẳng thắn, trung thực nhưng có lúc
cũng thể hiện năng lực ngụy biện cực đoan khá rõ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

hợp gia đình bất hịa. Nếu người chồng có lỗi thì phải đền tiền tạ lỗi cho


bố mẹ vợ. Nếu người vợ có lỗi thì người vợ khơng được trả về nhà cho
mẹ đẻ mà phải đến ở nhờ nhà chức dịch cho đến khi tái giá. Trường
hợp chồng chết người vợ phải lấy em trai chồng. Nếu không chịu tuân
theo tập quán thì người vợ phải đền tiền dầu cho cha


...


(1) Mỗi dịng họ có một cách thờ cúng riêng thể hiện rõ nhất là trong ma
chay,cách đặt bát cúng, bài cúng của thầy cúng, cách khiêng người
chết, cách đặt mộ..v..v..


(2) Đặc điểm này đã để lại hậu quả rất đáng quan tâm trong đời sống xã
hội hiện nay. Về đặc điểm tâm lý nngười Hmông đậm nét duy lý.


mẹ chồng <b>(1)</b><sub>. Người con trai trong gia đình được dạy làm quen với lao</sub>
động từ thủơ nhỏ: Từ 10 tuổi trở đi các em đã thạo việc bắn nỏ, sản
xuất; 15 tuổi các chàng trai bắt đầu biết các bài cúng tổ tiên và khá
thành thạo các nghề cổ truyền. Từ đó các chàng trai được đổi tên theo
một nghi thức như lễ thành đinh của người Dao. Từ sau nghi thức này
chàng trai có thể "cướp vợ" theo tập quán của dân tộc mình. Trước đây
tục cướp vợ phổ biến trong thanh niên dân tộc Hmông. Trong trường
hợp cơ gái đồng ý thì việc "cướp" chỉ xảy ra như một nghi thức. Trường
hợp cô con gái phản đối thì "cướp" để buộc cơ con gái phải lấy (thường
xảy ra ở những chàng trai nhà giàu) và nhà trai phải trả tiền đền danh
dự cho nhà gái. Có trường hợp trai gái đồng tình lấy nhau nhưng cha
mẹ cơ gái khơng gả thì họ tổ chức cướp nhiều lần buộc cha mẹ cô gái
phải đồng ý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

Người Hmơng quan niệm có rất nhiều loại ma: Ma trâu (nhiu
dáng), ma nhà (Xủa cá), ma cửa (Xìa mình), ma lơn (Bùa dáng), ma bếp


(Hú sinh), ma lò (Khơ trù).v.v... Đồng bào quan niệm mọi vật đều có hồn
(Pli). Người chết hồn lìa khỏi xác và biến thành ma. Người ta có 3 hơng:
1 hồn ở đỉnh đầu, 2 hồn ở tay. Vì thế người ta kiêng xoa đầu trẻ em và
kiêng trẻ em vỗ tay vì sợ hồn đi mất.


* *
*


Đồng bào Hmơng có kho tàng truyện cổ dân gian rất phong phú
thể hiện thái độ và tình cảm của mình đối với thiên nhiên, đất nước, con
người, về cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, ca ngợi nền giáo dục
truyền thống.v.v...




………..


(1) Tập tục này cho đến nay vẫn chưa đượ chấm dứt hẳn. Gần đây tại
huyện Kỳ Sơn có trường hợpngười chống chết, gia đình chồng buộc em
trai của chồng mới có 13 tuổi phải lấy chị dân 27 tuổi đã có 3 con. Trước
đây đồng bào cịn quan niệm nếu em chồng đa có vợ thì chị dâu phải
làm vợ lẽ. Nếu khơng có em chồng thị chị dâu lấy em họ của chồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

của họ đêm đêm tiếng khèn, tiếng đàn môi, kèn lá vang động cả núi
rừng. Trai gái Hmơng tìm hiểu nhau qua những tiết tấu, nhịp điệu của
nhạc cụ ấy. Truyện dài dân gian "Tiếng hát làm dâu" của đồng bào thể
hiện chất trữ tình mang tính chất giáo dục, tính nhân đạo sâu
sắc.v.v..được nhiều dân tộc trong cả nước biết đến. Nhiều sinh hoạt
cộng đồng mang sắc thái tộc người rõ nét: Múa khèn của nam và múa ô
của nữ trong dịp lễ hội "Gầu Tào", trong đám ma tiến đưa người chết về


với tổ tiên. Những trò chơi dân gian cổ truyền, những câu đố vui lưu lại
trong lứa tuổi nhi đồng.v.v... Những làn điệu hát "Cự Xìa", "Lù tơ", "Vàng
Hủa" đến thi hát giữa các cặp trai gái thổ lộ tâm tình của những đêm
trăng.v.v… Trong hai nhóm Hmơng của huyện Kỳ Sơn mỗi nhóm có một
điệu "Cự Xia" riêng: "Cự Xia" Hmông đu và "Cự Xia" Hmông
lênh.


Trong màu sắc của các dân tộc thiểu số ở Nghệ An đa dạng về
ngôn ngữ, phong phú về tính cách đặc trưng người Hmơng rực rỡ trong
trang phục cổ truyền độc đáo càng làm cho bức tranh văn hóa cư dân
các dân tộc Nghệ An thêm sinh động và hấp dẫn. Du khách nếu đã một
lần đặt chân đến cổng trời, "thung lũng vang" Mường Lống hay Na Ngoi,
Huội Giảng...


……….


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

(2) Để giáo dục thanh niên ham thích thổi sáo, đồng bào kể rằng:
Trước đây có 6 anh em ruột, mỗi người thổi 1 sáo 1 lỗ, về sau mấy anh
em cùng làm chung 1 sáo 6 lỗ đề khi thổi anh em hòa nhạc thêm vui và
nhớ đến nhau.


hẳn không bao giờ quên những ấn tượng đẹp đẽ của thiên nhiên kỳ thú
và lịng mến khách của đồng bào Hmơng Nghệ An.


<b>Chương III</b>
<b>Kết luận</b>


Trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số
ln được đánh giá cao vai trị và vị trí quan trọng của mình. Địa bàn mà
đồng bào sinh sống là một bộ phận đất đai dân cư gắn liền máu thịt với


lãnh thổ, cộng đồng quốc gia dân tộc. Đại gia đình các dân tộc Việt Nam
đã trải qua thử thách qua trường kỳ lịch sử chứng minh đúng đắn truyền
thống đoàn kết, chiến đấu bảo vệ vùng đất sinh sống. Dải đất rộng lớn
về phía Tây Nghệ An là địa bàn sinh tụ các dân tộc thiểu số bao gồm
phần lớn các cư dân thuộc nhóm ngơn ngữ khác nhau, có trình độ kỹ
thuật canh tác chênh lệch nhau rất lớn và vì thế mà mức độ khác nhau
về đặc trưng văn hóa cũng khơng nhỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

Miền núi cao Nghệ An với bao tiềm năng to lớn đã và đang được
khai thác cải tạo, qua bao biến động của lịch sử luôn luôn là cái nôi ấp ủ
che chở và nuôi dưỡng đồng bào. Các dân tộc trong vùng gắn bó với
thiên nhiên trong vùng, gắn bó với nhau trong quá trình lao động và bảo
vệ quê hương đã tạo nên những truyền thống tốt đẹp trong việc bảo vệ
trong lành nguồn môi sinh sinh tồn, trong quan hệ dân tộc, trong sản
xuất và đời sống hàng ngày.


Miền núi Nghệ An với thiên nhiên và con người còn nhiều khả
năng khai thác cho việc nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học xã hội
và nhân văn. Nhu cầu hiểu biết sâu sắc, nhận thức đúng đắn về con
người trên vùng đất này càng trở nên cấp bách. Sự hiểu biết của chúng
ta về đồng bào chưa nhiều, chưa có điều kiện quan tâm đến tận tâm
can của đồng bào nên chưa thể động viên được một cách tế nhị nhất để
đồng bào bộc lộ hết khả năng, ý chí và tâm tư của mình. Đó cũng là một
trong những ngun nhân gây nên những xáo trộn khơng đáng có đã
xẩy ra trong thời gian gần đây.


Vùng đất liền khoảnh của miền núi Nghệ An cả về tự nhiên, cả về
dân cư đối với miền núi Lào, tỉnh Thanh Hố và phía Nam là Hà Tĩnh
trong lịch sử, trong bản đồ học là khơng địa danh hành chính. Vì thế khi
những quan hệ dân tộc ngày càng cởi mở, khi gia thông, thông tin ngày


càng được nâng cao thì nhu cầu giữ dìn và phát huy bản sắc văn hóa
của mỗi dân tộc của khu vực càng trở nên cấp bách. Các nhà nghiên
cứu sử học, dân tộc học, Ngơn ngữ học...bước đầu và đây đó đã lên
tiếng về một vùng lịch sử-văn hóa ở miền núi xứ Nghệ.


Trong truyền thống, trong thực tế có một vùng lịch sử - văn hóa ở
miền Tây Nghệ An.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

tác ở vùng núi tỉnh ta, công lao chiến đấu hy sinh cho việc bảo vệ lãnh
thổ thiêng liêng, cơng lao dìn giữ, tiếp thu và sáng tạo các di sản văn
hóa vơ giá đối với cộng đồng các dân tộc Việt Nam của đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Nghệ An. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Nghệ An
có quyền tự hào về những cống hiến lớn lao đó. Đức tính giản dị, tinh
thần lạc quan, lao động hết sức mình và thủy chung, lối sống cương
trực thẳng thắn, đồng bào đã và đang tạo cho cộng đồng của mình một
phong cách địa phương độc đáo mang bản sắc, cốt cách của cư dân
miền Tây Nghệ An nói riêng, phong cách xứ Nghệ nói chung. Việc giới
thiệu hương sắc các vườn hoa của dân tộc thiểu số ở Nghệ An về văn
hóa tộc người là điều cần làm sớm trong tương lai để sao cho khi trình
độ dân trí của đồng bào càng được nâng cao, nhu cầu hiểu mình càng
được đáp ứng và thỏa mãn, nhu cầu hiểu biết và tiếp xúc giữa các dân
tộc cũng như du khách từ nơi khác đến diễn ra với nhịp độ cao và làm
phong phú thêm nền văn hóa khu vực.


Trên lĩnh vực văn hóa dân tộc, q trình tiếp biến văn hóa đang
diễn ra mãnh liệt. Có một cộng đồng trên 80 triệu người nói ngôn ngữ
Thái ở Đông Nam á, Nam Trung Quốc và ấn Độ. Có một quan hệ về
giao lưu kinh tế, văn hóa của đồng bào người Hmơng trong khu vực
Đơng Nam Trung Quốc, ấn Độ và Đông Dương qua quan hệ ngơn ngữ
và dịng họ. Có một cộng đồng Khơ mú hàng chục vạn người đang cư


trú ở Lào, Miến Điện, Thái Lan.v.v... Ngày nay vấn đề dân tộc không chỉ
là quốc gia chính trị. Vấn đề đã trở thành mỗi quan tâm khu vực hay
toàn cầu. Miền núi Nghệ An với những thành phần dân tộc đa dạng
càng thêm quan hệ tác động nhiều chiều bởi vị trí địa lý, chất lượng dân
cư và những yếu tố kinh tế, xã hội khác.v.v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

tự nhiên, đánh giá đúng nhân tố con người trong sự nghiệp lao động,
cải tạo tự nhiên, xã hội hóa cao những giá trị tinh thần tốt đẹp, tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa văn hóa các dân tộc kề cận và của nhân
loại...là điều cần thiết và cấp bách để tạo đà cho nhứng tiến bộ lớn của
phát triển xã hội của các dân tộc thiểu số ở miền núi và trung du Nghệ
An.


<b>Phụ lục</b>


<b>dân số dân tộc kinh ở các huyện miền núi và trung du</b>
(Có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú)


<b>Theo tài liệu của Ban dân tộc và miền núi Nghệ An-1992</b>


<b>TT Huyện</b> <b>Số hộ</b> <b>Số nhân</b>


<b>khẩu</b>


1 Kỳ Sơn 327 2.157


2 Tương Dương 1.201 5.624


3 Con Cuông 3.984 18.884



4 Quỳ Châu 2.263 10.186


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

6 Quỳ Hợp 9.831 47.162


7 Nghĩa Đàn 24.691 121.664


8 Tân Kỳ 17.159 84.488


9 Anh Sơn 480 2.977


<b>dân số dân tộc kinh ở các huyện miền núi và trung du</b>
(Có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú)


<b>Theo tổng hợp của Ban Dân tộc và Miền núi Nghệ An- đến</b>
<b>30/6/2009</b>


<b>TT Huyện</b> <b>Số nhân</b>


<b>khẩu</b>


1 Kỳ Sơn 3.579


2 Tương Dương 8.926


3 Con Cuông 20.335


4 Quỳ Châu 8.942


5 Quế Phong 6.545



</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

7 Nghĩa Đàn 92.016


8 Tân Kỳ 109.193


9 Anh Sơn 106.199


10 Thị xã Thái Hoà 58.104


11 Thanh Chương 235.040


Khái quát về dân tộc kinh ở miền núi Nghệ An


Trong số 596.524 cư dân đang sinh sống ở miền núi Nghệ An có
đến 297.161 người Kinh, chiếm tỷ 49,8% dân số toàn vùng<b>(*).</b><sub> Họ sinh</sub>
sống ở hầu hết các huyện miền núi và trung du của tỉnh bao gồm Nghĩa
Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn. Nơi ở của họ tập trung ở các thị trấn, các huyện
lỵ, dọc các trục đường giao thông lớn trong vùng như đường 7, đường
48, dọc các con sông lớn như sông Dinh, sông Hiếu và dọc sông Lam,
các vùng đất đồi thoải đất ……….


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

bazan như vùng Phủ Quỳ cũ (bao gồm đất Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Quỳ
Châu), trong các công - nông - lâm trường quốc doanh và ở một số
vùng người Kinh sống đan xen với địa bàn người Thổ, người Thái.


Sự hình thành cộng đồng người Kinh ở miền núi Nghệ An khá phức
tạp. Có nhiều nguồn hình thành nên khối dân cư này nhưng cho đến
nay do phân bố trên địa bàn rộng, sống xen kẽ nhiều dân tộc trong vùng
nên việc tái lập quá trình tộc người trong lịch sử của người Kinh ở vùng
này là một điều kiện khó khăn.



Những dấu vết văn hoá của con người thời Cổ Trung đại trên vùng
đất Nghệ An, Hà Tĩnh nói chung, miền núi Nghệ An nói riêng cho phép
các nhà Khảo cổ học, Sử học đốn định đây là một địa bàn hình thành
và phát triển của con người khá liên tục. Tài liệu lịch sử chưa cho phép
kết luận đó là những cư dân nào nhưng hiện nay căn cứ vào những kết
quả nghiên cứu của nhiều ngành người ta có thể biết rằng:


Người kinh là một trong những cư dân có mặt tương đối sớm. Nếu
người ta coi người Tày Poọng, Đan Lai - Ly Hà (thuộc dân tộc Thổ)… là
một hậu duệ của những người nói ngơn ngữ tiền Việt - Mường địa bàn
sinh sống của họ đã từng được trải rộng từ đồng bằng ven biển đến
miền núi Nghệ An.


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

lượng người Kinh từ miền xuôi lên miền núi chưa bao giờ liên tục và với
số lượng nhiều như từ những năm sáu mươi của thế kỷ này trở lại đây.
Sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) miền
núi dần dần tiến hành cải cách dân chủ (1963). Theo chủ trương của
Nhà nước ta ………..


(1) ở Con Cng vẫn cịn bài thơ khắc trên đá của Nguyễn Trung
Ngạn. Nhiều nơi ở vùng núi Nghệ An, người Kinh, người Hàng Tống
(Thái) vẫn còn thờ Kha Lam Quốc Công, thờ Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa Lê
Duy Mật (1738 – 1771) trải rộng địa bàn từ Thanh Hoá và Tân Kỳ lên
Trấn Ninh (Lào), về Quế Phong, Tương Dương


hàng vạn bộ đội, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc sau 1954 được tổ
chức lại thành lập các Nông - Lâm trường quốc doanh. Hàng loạt nông
trường mọc lên ở miền núi thu hút lực lượng lao động không chỉ bộ đội,
cán bộ tập kết mà cả hàng vạn thanh niên từ miền xuôi lên miền núi với
chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới. Làn sóng di dân theo kế hoạch


xây dựng vùng kinh tế mới. Làn sóng di dân theo kế hoạch của địa
phương cùng với làn sóng di dân tự do của đồng bào miền xuôi lên đã
tăng nhanh một cách đột ngột số lượng dân xư miền núi Nghệ An. Số
lượng chuyển cư hàng năm từ đồng bằng lên miền núi trong những năm
gần đây vẫn cịn cao mặc dù nhịp độ có được giảm xuống so với trước:
từ 3000 – 3500 người/năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

cư dân người Kinh lên miền núi vẫn tiếp tục làm ruộng nước. Đặc biệt
cư dân Kinh ở miền núi Nghệ An rất thành thạo làm rẫy, coi thu hoạch
nương rẫy là một nguồn thu quan trọng với lúa khô, ngô, sắn, đỗ, lạc
v.v… Đây thực sự là một vấn đề quan tâm bởi việc tranh thủ thu nhặt
lâm thổ sản, đốt rẫy làm nương của một bộ phận cư dân đông đảo như
vậy sẽ đẩy nhanh tốc độ phá rừng đến mức khủng khiếp. Một trong
những người đốt phá rừng nhiều nhất ở miền núi là người Kinh chứ
khơng chỉ có những cư dân du canh, du cư sống trên các triền núi cao.
Nhiều vùng dân cư người Kinh tập trung đông đúc ở miền núi được hình
thành như: Thị trấn Thái Hồ, thị trấn Anh Sơn, thị trấn Lạt (Tân Kỳ),
điểm tụ cư Cây Chanh (Anh Sơn), thị trấn Hồ Bình.


Do mở rộng vùng canh tác nương rẫy không hạn chế trong hàng
chục năm trước đây nên việc phát - đốt rừng bừa bãi dẫn đến tranh
chấp đất đai giữa người mời được di cư đến và cư dân các dân tộc ở
địa phương liên tục từ trước đến nay đã xẩy ra. ở một số vùng trung du,
nơi có vùng đất tương đối bằng phẳng, màu mỡ, nơi cư trú của đồng
bào Thổ và Thái, một số làng của người Kinh được di cư đến theo chủ
trương khai hoang phát triển kinh tế mới trong nhưng năm 60 - 70. Thực
ra diện tích khai hoang không đáng kể mà là sự xen ghép thêm dân. Vì
thế người ta phải san sẻ bớt ruộng của đồng bào cho những người mới
đến. Đến nay, khi cơ chế khốn giao đất giao rừng, giữa những nhóm
cư dân này bắt đầu xuất hiện những vấn đề thắc mắc về chủ quyền đất


đai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

Hiếm thấy có người thuộc các dân tộc khác trong vùng làm nghề
buôn bán chuyên nghiệp.


Chợ miền núi liên tục được lập thêm từ những năm sáu mươi trở lại
đây. ở một số xã, làng, bản đã có chợ riêng. Nhiều chợ miền núi có quy
mơ lớn thu hút hàng nghìn lượt người trong mỗi phiên như chợ Thái
Hoá, chợ Dinh (Nghĩa Đàn), chợ Bãi, chợ Đồng Minh (Quỳ Hợp) chợ
Bông Khê, chợ Phủ (Con Cng), chợ Hồ Bình (Tương Dương), chợ
Lạt (Tân Kỳ), chợ Mường Xén, chợ đường biên Việt Lào (Kỳ Sơn), chợ
Mường Noọc (Quê Phong)… Kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh, đến nơi
chợ búa đông đúc khắp miền núi Nghệ An, tiền Ngân hàng Việt Nam và
bạc nén là hai loại tiền tệ được lưu hành phổ biến trên cơ sở của nền
sản xuất hàng hố mới cịn ở giai đoạn hàng đổi hàng, vật đổi vật của
nhiều dân tộc trong vùng. Những người Kinh từ trước đến nay vẫn
thường mang các sản vật từ miền xuôi lên đổi chác khắp vùng miền núi
như muối, vải, dầu, đèn, đồ sành sứ v.v… Gần đây, khi một số nơi sản
xuất được lâm đặc sản với khối lượng lớn như quế, san chân, cánh
kiến, cà phê… những thương nhân người Kinh lại mang các loại hàng
như xe máy, ra - đi - ô - cát - xét, máy khâu… lên trao đổi bán cho đồng
bào. Xu thế của nền kinh tế hàng hoá thể hiện khá rõ trong cơ cấu sản
xuất, trao đổi trong toàn vùng mà sự chỉ đạo trực tiếp sản xuất cũng như
gián tiếp là vai trò của người Kinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

Một số nghề thủ công ở miền núi rất phát đạt. Hiên nay nghề xẻ gỗ,
nghề mộc, nghề chế biên nông lâm sản… do người Kinh đưa từ miền
xuôi lên. Làn sóng di cư của những người thợ thủ cơng lưu động trong
cac làng bản đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng tăng thêm. Phần
lớn họ là những cư dân từ Quỳnh Lưu, Diễn Châu hoặc gốc Hà Nam


Ninh đến, Bộ phận cư dân này xuất hiện vừa mang ý nghĩa tich cực
trong việc đẩy mạnh sản xuất và phục vụ kịp thời nhu cầu sinh hoạt của
đồng bào nhưng cũng vì thế mà nảy sinh những tiêu cực xung quanh
vấn đề quan hệ dân tộc.


Làng của người Kinh ở miền núi khơng cịn là thiết chế cơ cấu làng
truyên thống của người Kinh ở vùng đồng bằng. Nhà cửa phần lớn dưới
chân núi, theo lối mật tập. ở một số nơi đồng bào được di cư cả làng
đến, nên từ đầu đã được chia đất làm nhà ở ngay hàng thẳng lối, cơ
cấu dân cư như thị trấn huyện vùng xuôi.


Nhà cửa người Kinh khi lên miền núi có quy mơ rộng lớn hơn do dễ
dàng tìm kiếm vật liễu gỗ, tre, nứa… Vườn rộng hàng mẫu đất ở những
vùng đồi, 2 - 3 sào dọc các đượng giao thơng. Có một số đồng bồ làm
nhà sàn như nhà ở của người Thái. Đây là một hiện tượng cần chú ý
bởi ở nhiều nơi đồng bào Thái vốn là cư dân ở nhà sàn lại “phấn đấu”
làm nhà đất kê cột, trong lúc đó người Kinh lên miền núi lại thích làm
nhà sàn (ở những hộ có điều kiện kinh tế) bởi nhà sàn cao ráo, ít ruồi,
muỗi…


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

phần lớn các chức vụ quan trọng của các cơ quan cấp huyện đều lo
người Kinh nắm giữ. Mỗi quan hệ con người trong lĩnh vực cơ cấu cán
bộ lãnh đạo chính quyền cấp huyện miền núi là một vấn đề phức tạp, rất
tế nhị, và ngay cả cho đến nay nó cũng đang là một trong những vấn đề
nổi cộm lên cần nhanh chống giai quyết. Tuy vậy, ở một số nơi đông
bào Kinh do sống trong hồn cảnh tự nhiên khơng thuận lợi đã gặp nạn
đói đe doạ thường xun, q trình thối hố cũng đã xảy ra. Có một số
đồng bào sống xen kẽ với người Thái, người Thổ dần dần sinh hoạt
cộng đồng hoá tự nhiên. Điều này đã xảy ra ở một số nhóm cư dân
người Thổ ở Tân Kỳ, Quỳ Hợp, ở cư trú nhóm Hàng Tổng (dân tộc Thái)


ở Con Cuông, Anh Sơn v.v…


Bộ phận khá lớn cư dân người Kinh sinh sống trong các Công
-Nông - Lâm trường quốc doanh là công nhân viên chức Nhà nước. Họ
là lực lượng đông đảo nhất mang những sắc thái văn hố của giai cấp
cơng nhân. Sự giao lưu văn hố trong khu vực có ý nghĩa quan trong
trong việc xác lập các mối quan hệ giữa giai cấp công dân và giai cấp
nông dân, giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số trong vùng. Hoạt
động nhiều mặt : Kinh tế, chính trị, văn hố… của bộ phận dân cư này
tác động mạnh lịêt vào sự thay đổi các hoạt động sống của đồng bào
các dân tộc khác trong vùng.


Các dân tộc ở miền núi Thanh Hoá <b>(1)</b>


TT Dân tộc Thuộc nhóm
ngơn ngữ


Dân số
(người)


Tỷ lệ so
với dân
so miên
núi


Tỷ lệ so với
dân số dân
tộc thiểu số
1



2


Mường
Thổ


Việt – Mường
Việt – Mường


267.282
11.510


38,40
1,60


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

3
4
5
6


7


Khơ - mú
Thái
Hmông
Dao
Tổng
cộng
Dân tộc
Thiểu số
Kinh


Tổng
cộng
Dân số
miền núi


Môn – Khơme
Tày – Thái
Hmông - Dao
Hmông - Dao


Việt – Mường


330
181.275
3.781
3.980
0,04
25,20
0,52
0,54
0,06
38,00
0,46
0,79
477.032
242.643
66,30
33,70

719.675



(1) Theo số liệu của Ban dân tộc Thanh Hóa, 1992
<b>Thư mục sách tham khảo chính</b>


1. ăng ghen (F)


Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước
Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội, 1972.


2. Ban dân tộc tỉnh Nghệ An


Nghệ Tĩnh 40 năm một chặng đường
Nhà xuất bản Nghệ Tĩnh, 1985.


3. Ban dân tộc và miền núi Nghệ An:


Mộ số chính sách về dân tộc và miền núi Nghệ An
Nhà xuất bản Nghệ An, Vinh, 1992.


4. Ban nghiên cứu lịch sử và địa lý Nghệ Tĩnh:
Lịch sử Nghệ Tĩnh – Tập I


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

5. BRETON (H.LE):


An Tĩnh xưa (bản tiếng Việt).


Thư viện Nghệ Tĩnh, Số NN 18 – 21.
5. BU-ON (BOUILLON):


Nhân chủng chí người Mường và người Thái Dong ở hai tỉnh Nghệ


An và Thanh Hố.


Trích cuối “Địa dư Đơng Dương” phần Trung kỳ Thư viện quốc gia,
số M2 – 9402.


6. Phan Hữu Dật:
Cơ sở dân tộc học.


Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1973
7. Bế Viết Đẳng:


Kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc
Viện Dân tộc học, Hà Nội, 1989


8. Mạc Đường:


Các dân tộc miền núi Bắc Trung Bộ
Khoa học, Hà Nội, 1964


9. Cao Đăng Hy:
Địa dư tỉnh Nghệ An


Thư viện Nghệ Tĩnh, số NN 20 – 21
10. Trần Danh Lâm:


Hoan Châu phong thổ ký, (Ngô Đức Thọ dịch)
Thư viện Nghệ Tĩnh, số HT 73 – 75


11. Bùi Dương Lịch:



Nghệ An ký. (Bản đánh máy)


Thư viện Nghệ Tĩnh, số HT 2.4 – 5
12. Phan Huy Lê:


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

Giáo trình Lịch sử Việt Nam tại khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội,
1990


13. LU – PƠ (LOUPPE ALBERT)
Người Mường ở Cửa Rào


H.Uma d’Extrême Orient, 1934 (bản dịch)
14. Lê Đình Thiêu:


Chuyện cổ tích miền núi Nghệ An
Hội Văn nghệ Nghệ An, Vinh 1975
15. Vương Hoàng Tuyên:


Sự phân bố dân tộc và dân cư ở miền Bắc Việt Nam
Giao Dục, Hà Nội, 1966


16. Viện dân tộc học:


Các dân tộc ít người (các tỉnh phía Bắc)
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978


17. Viện dân tộc học:


Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc miền Bắc Việt Nam
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975



+ Các loại tạp chí:
- Dân tộc học
- Ngơn ngữ
- Khảo cổ học
- Văn hoá dân gian


- Những vấn đề lịch sử và địa lý Nghệ Tĩnh


+ Tư liệu tại ban sử - địa thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An, Ban
dân tộc và miền núi tỉnh Nghệ An, Phòng tư liệu khoa sử trường đại học
tổng hợp hà nội…


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

<b>Mục lục</b>


<i>* Lời giới thiệu (giáo sư Phan Hữu Dât) ………5</i>


<i>* Mở đầu:………..7</i>


<i><b>Chương một:</b></i>
Đặc điểm địa lý tự nhiên và dân cư……….9


<i>I. Điều kiện tự nhiên……….9</i>


<i>II. Lịch sử quá trình tộc người cư dân</i>
<i>thời Cổ – Trung đai ở miền núi Nghệ An………...15</i>


<i>III. Về lịch sử phân bố tộc người………..19</i>


<i>IV. Một số đặc điểm về kinh tế</i>


<i>xã hội và văn hoá………32</i>


<i><b>Chương hai:</b></i>
Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An………..35


<i>I – Dân tộc Thổ………...35</i>


<i>II. Dân tộc Thái………...49</i>


<i>III. Dân tộc Khơ mú……….72</i>


<i>IV. Dân tộc ơ đu………..79</i>


<i>V. Dân tộc H’mông………..84</i>


<i><b>Chương ba:</b></i>
Kết luận………..93


<i>+ Phụ lục……….97</i>


<i>- Dân số dân tộc kinh ở các huyện miền núi và trung du………97</i>


<i>- Bản đồ các di tích khảo cổ học trong vùng……….98</i>


<i>- Bản đồ phân bố dân tộc ở miền núi Nghệ An……….99</i>


<i>- Khái quát về người Kinh ở miền núi Nghệ An………..100</i>


<i>- Dân tộc thiểu số ở Thanh Hoá……….106</i>



</div>

<!--links-->

×