Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN SỬ DỤNG THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.11 KB, 36 trang )

THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN SỬ DỤNG
THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Sự hình thành, phát triển của thị trường thẻ thanh toán tại Việt Nam
2.1.1. Môi trường kinh tế xã hội
Trong giai đoạn từ những năm 1990 trở lại đây tình hình kinh tế-xã hội nước ta
đã có những thay đổi vượt bậc. Những cải cách quan trọng và toàn diện về kinh tế đã
được Chính phủ tiến hành như:
- Chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, bao gồm việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường,
hoàn chỉnh hệ thống phát luật về đầu tư và kinh tế, đổi mới chính sách tài chính tiền
tệ… nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, cải
cách hành chính Nhà nước.
- Củng cố và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm (%)
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 12/2007)
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu quan
trọng. Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoái và đạt mức tăng trưởng
liên tục, nhiều năm có tốc độ tăng cao và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. GDP
trong 10 năm từ 1991-2000 tăng bình quân 7.56% ; năm 2005 và 2006 tăng trưởng trên
8%/năm; trong năm 2007 vừa qua mức tăng trưởng đạt 8,44%, tỷ trọng xuất khẩu đạt
hơn 48 tỷ USD, thu hút đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục trên 20 tỷ USD, tỷ lệ hộ nghèo
giảm từ 19% xuống 14,87% và 1,68 triệu lao động được giải quyết việc làm.
Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội liên tục tăng qua các năm. Liên tục trong vòng 20
năm tăng trưởng GDP tăng bình quân 7% / năm. Đất nước đã chuyển mạnh sang nền
kinh tế thị trường và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Chính phủ Việt Nam
đang hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Theo số liệu của IMF, tổng sản phẩm quốc
dân của Việt Nam tăng từ 45 tỷ USD năm 2004 lên hơn 60 tỷ USD năm 2006, kim
ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 40 tỷ USD, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vượt trên 10 tỷ USD. Đến nay, đã có 76 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào


Việt Nam với hơn 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm 2007
đã thu hút được 20,3 tỷ USD. Việt Nam hiện có quan hệ kinh tế thương mại với hơn
220 quốc gia và nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều
năm qua, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48,387 tỷ USD, vượt 3,4% kế hoạch và
tăng 21,5% so với năm. Giá trị các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như dầu thô, dệt may,
giầy dép, thuỷ sản, và cà phê đạt nhiều tỷ Đô-la hàng năm và năm sau cao hơn năm
trước. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập hoàn toàn của Việt Nam vào nền kinh tế toàn
cầu, mang đến những cơ hội to lớn về thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính tiền tệ cũng đạt được
những thành công đáng kể. Nạn lạm phát từ mức ba con số đã được chặn lại và giảm
xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995; 6% năm 2000 và 6,8% năm 2007. Nhiều
biện pháp đã được tiến hành như dỡ bỏ việc hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước cho các
doanh nghiệp, tự do hóa giá cả, thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Một khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường đã được hình thành từng bước
nhằm đảm bảo thuận lợi cho đầu tư trong nước và nước ngoài, như việc ban hành Luật
đầu tư, Luật doanh nghiệp…
Hiện nay chúng ta đang từng bước mở cửa, thực hiện các cam kết gia nhập
WTO, tự do hóa khu vực tài chính ngân hàng, dỡ bỏ các hạn chế đối với việc thành lập
và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài. Điều này buộc các NHTM trong nước phải
quan tâm đến việc hiện đại hóa hệ thống hạ tầng kỹ thuật, nâng cao khả năng cạnh tranh
và hợp tác của mình để có thể đứng vững và giữ được thị phần trước sự cạnh tranh của
các ngân hàng nước ngoài.
2.1.2. Cơ sở pháp lý của hoạt động thanh toán thẻ
Sau một thời gian hình thành, đến nay chúng ta đã và đang được chứng kiến sự
phát triển vượt bậc của thị trường thẻ Việt Nam với số lượng thẻ phát hành hơn 3,5
triệu thẻ; tổng số lượng máy ATM đến thời điểm này trong toàn hệ thống là 2.600 máy
ATM, 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS). Thị trường thẻ tăng trưởng bình
quân 300%/năm, với các sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng. Cơ sở pháp lý cho sự
phát triển mạnh mẽ trên của thị trường thẻ thanh toán tại Việt Nam hiện chủ yếu dựa

vào những quyết định do NHNN và tổ chức thẻ quốc tế ban hành.
Các quyết định của NHNN Việt Nam được ban hành liên quan đến hoạt động
thanh toán thẻ gồm:
Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt do Thống đốc NHNN ban hành cùng
quyết định số 22/QĐ-NH ngày 21/2/1994. Văn bản này quy định thẻ thanh toán nói
chung gồm 3 loại: thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ thanh toán và thẻ tín dụng. Tuy nhiên văn bản
này cũng tồn tại một số điểm không hợp lý là chưa xác định rõ rang sự khác biệt giữa
thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Điều này một phần là do việc thanh toán không dùng tiền
mặt ở nước ta trong khoảng thời gian đó còn khá mới mẻ cả với những nhà hoạch định
chính sách lẫn số đông dân chúng nên việc tồn tại những bất cập là điều không thể tránh
khỏi.
Năm 1999, NHNN ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân
hàng. Đây là một văn bản pháp lý với những quy định tương đối đầy đủ, cụ thể, với 7
chương và 29 điều quy định quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể hoạt động trên thị
trường thẻ tại Việt Nam. Trong Quy chế này, NHNN đã phân biệt cụ thể các loại sản
phẩm thẻ, trong đó chỉ rõ các loại thẻ như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ nội địa, thẻ
quốc tế…tất cả đều được gọi chung là Thẻ ngân hàng. Ngoải ra Quy chế cũng đã quy
định các vấn đề như: điều kiện phát hành thẻ, thời hạn sử dụng, phạm vi sử dụng của
thẻ…
Năm 2005, Luật giao dịch điện tử đã được Quốc hôi thông qua. Luật được ban
hành đã tạo điều kiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội và hoạt động thanh toán thẻ, tạo dựng một hành lang pháp lý đầy
đủ, rõ ràng cho các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển.
Theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến
2020, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về trả
lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; đồng thời, xây dựng
đề cương, kế hoạch chi tiết cho từng đề án thành phần do NHNN chủ trì và phối hợp
xây dựng các đề án thành phần do các bộ, ngành khác chủ trì. Nhìn chung, việc trả
lương qua tài khoản đối với cán bộ, công chức đã được triển khai mạnh mẽ tại một số

nơi, một số lĩnh vực, ngành như: tài chính – ngân hàng, các khu công nghiệp, khu chế
xuất…Ở một số thành phố lớn bước đầu đã triển khai thành công việc trả lương hưu
qua thẻ ngân hàng. Theo lộ trình này dự kiến đến năm 2010, thẻ do một ngân hàng phát
hành đều có thể sử dụng được tại tất cả các máy ATM và POS của các ngân hàng khác;
Chính phủ đang chủ trương xây dựng một trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, kết
nối hệ thống ATM của các liên minh thẻ hiện có thành một hệ thống thống nhất, điều
này sẽ tăng tính thuận tiện cho người sử dụng dịch vủ thẻ. Đề án khuyến khích và tạo
điều kiện cho các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và
các thiết bị phục vụ cho các giao dịch thanh toán qua thẻ; tạo điều kiện phát triển thanh
toán qua Internet.
Chỉ tiêu đặt ra đến cuối năm 2010, sẽ có khoảng 20 triệu tài khoản cá nhân; 70%
cán bộ hưởng lương ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh
nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua tài khoản. Đến năm 2020, những con số này lên
lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân; 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao
động được trả lương qua tài khoản. Tại khu vực doanh nghiệp, sẽ có khoảng 80% các
khoản thanh toán giữa doanh nghiệp với nhau được thực hiện qua tài khoản tại Ngân
hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% vào năm 2020. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các
doanh nghiệp nhà nước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi, đối
tượng nhất định; có chính sách cụ thể đối với chủ thể kinh doanh để khuyến khích
thanh toán qua ngân hàng. Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử, tạo điều
kiện để các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử
Trong năm 2007, NHNN đã ban hành một số văn bản có liên quan đến việc phát
hành thẻ thanh toán như: Quyết định 32/2007/QĐ-NHNN ngày 3/7/2007 về hạn mức số
dư đối với thẻ trả trước vô danh: quy định số dư trên một thẻ trả trước vô danh không
được vượt quá 5 triệu đồng Việt Nam; Quyết định 38/2007/QĐ-NHNN ngày
30/10/2007 ban hành Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ
trợ hoạt động thẻ ngân hàng; Quyết định số 3113/QĐ-NHNN phê duyệt đề án xây dựng
Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất của Việt Nam.
Ngoải ra các ngân hàng Việt Nam đang hoạt động trên thị trường thẻ quốc tế
cũng phải chịu sự chi phối bởi những quyết định do các tổ chức thẻ quốc tế ban hành.

Việc tuân thủ theo các quy định quốc tế này một phần nhằm đảm bảo cho việc bảo vệ
uy tín của các tổ chức thẻ quốc tế, một phần khác sẽ giúp cho quá trình hội nhập quốc tế
của các ngân hàng Việt Nam diễn ra thuận lợi hơn.
2.1.3. Khái quát thực trạng hoạt động của dịch vụ thẻ thanh toán
2.1.3.1. Về số lượng thẻ được cung cấp
Ở Việt Nam hiện nay tuy thị trường dịch vụ thẻ thanh toán đã có những bước
tiến vượt bậc nhưng theo tính toán trên 90% chi tiêu tiêu dùng cá nhân vẫn được thanh
toán bằng tiền mặt. Theo các chuyên gia ngân hàng, thực trạng này là một nguyên nhân
quan trọng khiến thanh toán thẻ sau hơn 14 năm ra đời ở Việt Nam, vẫn chưa phát triển
hiệu quả như mong đợi.
Sau 5 năm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đưa vào khai thác một loại hình
dịch vụ bán lẻ mới, đến 1996, một loạt các ngân hàng khác bắt đầu tham gia thị trường
bằng việc ký kết hợp đồng phát hành và thanh toán với các tổ chức thẻ quốc tế lớn như
Visa, MasterCard, American Express... Đến nay, đã có 10 ngân hàng là thành viên chính
thức của các tổ chức này, với số lượng phát hành lên tới 125.000 thẻ thanh toán quốc tế,
đạt tốc độ tăng trưởng 49% mỗi năm.Thẻ ghi nợ nội địa ra đời chậm hơn, vào năm
2002, nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều, trung bình trên 200%/năm. Do điều
kiện phát hành đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với thị trường Việt Nam, đến nay đã có
760.000 thẻ nội địa của 15 ngân hàng được phát hành.
Biểu đồ 2.2: Số lượng thẻ ATM qua các năm và dự tính đến năm 2020
(Nguồn: Tạp chi Ngân hàng, 2007)
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng thẻ thanh toán của các tổ chức phát hành thẻ trong nước
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2007)
Số lượng phát hành thẻ thanh toán quốc tế cũng như nội địa kể trên vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và quy mô của thị trường. Trong tổng số hơn 20 triệu dân cư
thành thị, 10 triệu người có thể trở thành đối tượng sử dụng tiềm năng các loại thẻ ghi
nợ trả trước. Song trên thực tế, số lượng 10.000 đơn vị chấp nhận thẻ cùng với gần 800
máy rút tiền tự động (ATM) còn quá ít để phục vụ các chủ thẻ người Việt Nam. Chưa
kể những điểm chấp nhận thẻ này chỉ tập trung tại các thành phố lớn hoặc các địa điểm
du lịch. Nhu cầu ngày một tăng cao, hạ tầng chưa đáp ứng kịp đã dẫn tới tình trạng một

số hệ thống ATM bị quá tải vào thời gian cao điểm. Việc tiếp quỹ thường xuyên cho
máy, xử lý sự cố cũng là một bài toán nan giải khi hệ thống này phát triển rộng. Đã vậy,
các ngân hàng còn giẫm chân nhau khi chạy đua lắp đặt ATM và lập điểm chấp nhận thẻ
cùng một nơi.
Trong năm 2007, nhiều ngân hàng đã phát hành các loại thẻ có độ bảo mật cao
và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng sử dụng thẻ. Có thể nói, thẻ ngân
hàng đã trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu phục vụ cho các
giao dịch bán lẻ. Hiện tỷ trọng thanh toán bằng thẻ hiện chiếm 6% trong tổng số món
giao dịch của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Tốc độ tăng trưởng bình
quân của lượng thẻ phát hành ra lưu thông những năm gần đây năm khoảng 150-
300%/năm. Tính đến tháng 11/2007 lượng thẻ phát hành ra lưu thông là 8.282.793 thẻ,
so với 234.677 thẻ của năm 2003 và 3.500.000 thẻ của năm 2006. Theo thống kê của
Hiệp hội Thẻ, tính đến 31/12/2007, tổng số thẻ phát hành lên tới 10 triệu thẻ. Tuy nhiên, những
sản phẩm thẻ tiện ích như MTV hiện chỉ có khoảng 40.000 thẻ, tương đương 0,4%.
Trong tổng các loại thẻ do các tổ chức phát hành thẻ trong nước phát hành, hầu
hết là thẻ ghi nợ nội địa (chiếm 93,87%), tiếp theo là thẻ ghi nợ quốc tế (3,65%), thẻ tín
dụng quốc tế (2,22%), thẻ tín dụng nội địa (0,31%). Điều này phản ánh đặc điểm tiêu
dùng của người Việt Nam nói chung, đồng thời cho thấy dịch vụ thẻ đã tạo ra một kênh
dẫn vốn quan trọng cho các ngân hàng, vì hầu hết lượng thẻ phát hành đều gắn với tài
khoản tiền gửi cá nhân và một số dư tiền gửi nhất định trong đó
2.1.3.1. Về chất lượng thẻ được cung cấp
Trong hệ thống ngân hàng hiện nay đã có 32 ngân hàng triển khai phát hành thẻ,
với khoảng 130 thương hiệu thẻ khác nhau, trong đó 54% là thương hiệu thẻ nội địa.
Theo nguồn tài chính sử dụng thẻ thì 59% là các thương hiệu thẻ ghi nợ, 39% là các
thương hiệu thẻ tín dụng và 2% là thương hiệu thẻ trả trước. Các dịch vụ tiện ích đi
kèm thẻ bao gồm: rút tiền mặt; chuyển khoản; thanh toán hoá đơn hàng hóa dịch vụ;
mua hàng hoá trực tuyến, thấu chi tài khoản, hưởng các ưu đãi về dịch vụ và giảm giá
mua hàng tại các điểm liên kết, vấn tin tài khoản và in sao kê, chi lương qua tài khoản,
nhận tiền kiều hối, bảo hiểm tai nạn, giao dịch qua kênh ngân hàng điện tử và các dịch
vụ khác.

Các ngân hàng không ngừng đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật cho hoạt động thẻ, tính
đến tháng 11/2007 bao gồm 4.280 ATM, 22.959 POS, so với 2.500 ATM và 14.000 POS
của năm 2006. Bên cạnh đó, nhằm chia sẻ cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thẻ và
tạo thuận lợi cho người sử dụng, các công ty làm dịch vụ kết nối trung gian cũng ra đời
nhằm đón đầu xu thế thanh toán không dùng tiền mặt. Các liên minh thẻ hiện nay bao
gồm:
- Công ty Smartlink có 25 thành viên, với 2056 máy ATM (48%), 17.502 máy
POS/EDC (57%) và số lượng thẻ đã phát hành 4.721.946 thẻ (57%).
- Liên minh thẻ Đông Á có 5 thành viên tham gia đã phát hành 1.766.053 thẻ (21%),
với 783 máy ATM (18%), 1682 máy POS/EDC (57%)
- Công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Banknetvn với số lượng máy ATM
chiếm 62% (2654 máy), máy POS/EDC chiếm 46% (10.548) và đã phát hành
5.170.229 thẻ (chiếm 62%).
Các liên minh này đã phần nào kết nối hoạt động thẻ của các ngân hàng lại với
nhau. Tuy nhiên có một thực tế là tại các điểm đặt máy ATM thường có 2 thậm chí 3
máy của 3 ngân hàng khác nhau cùng hoạt đông, trong khi nơi khác không có.
Thị trường thanh toán thẻ Việt Nam vẫn còn manh mún, có sự khác biệt lớn
trong quan điểm của các ngân hàng, giữa các liên minh về lợi ích kinh tế và lợi ích cộng
đồng. Phạm vi phát hành và sử dụng thẻ còn hạn chế, mới chủ yếu tập trung ở một số
tỉnh, thành phố lớn; đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu tập trung vào tầng lớp đang làm việc
trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, cán bộ, công chức làm việc trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất và mới đây là đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy
các nhà phát hành thẻ đều ra sức quảng bá cho những tiện ích mà thẻ của mình đem lại
cho khách hàng nhưng đều không thể phủ nhận rằng những tiện ích mà họ đưa ra đang
bị hạn chế rất nhiều trong một thị trường còn thiếu liên kết như hiện nay.
Để tăng cường hiệu quả về chi phí, tạo thuận lợi cho các chủ thẻ trong các giao
dịch cá nhân, Ngân hàng Nhà nước đã phê duyệt Đề án xây dựng Trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất để kết nối các liên minh thẻ (bắt đầu đưa vào triển khai từ đầu năm
2008). Trong khuôn khổ đề án phát triển các phương tiện và dịch vụ thanh toán phù hợp
với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành việc đánh

giá sơ bộ về thực trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho chương trình chuyển đổi
công nghệ thẻ từ sang thẻ chip theo chuẩn EMV và đang phối hợp với các tổ chức thẻ
quốc tế nghiên cứu các kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu về mặt kỹ thuật để xây dựng
lộ trình, kế hoạch nâng cấp công nghệ thẻ theo chuẩn EMV.
Nhìn chung, do đòi hỏi của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế đời sống
kinh tế xã hội cũng như hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng hoàn
thiện và đó là có sở vững chắc cho việc xuất hiện tất yếu của dịch vụ thanh toán sử
dụng thẻ của các ngân hàng tại Việt Nam.
2.2. Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ trong hệ thống NHTM Việt
Nam
2.2.1. Hoạt động phát hành
2.2.1.1. Hoạt động phát hành thẻ tín dụng
a. Thẻ tín dụng quốc tế
Sau hơn 10 năm đưa vào sử dụng, đến thời điểm hiện nay tại Việt Nam đã có 9
ngân hàng triển khai dịch vụ với tốc độ tăng trưởng 49%/năm. Đối tượng khách hàng
sử dụng thẻ tín dụng chủ yếu là những người Việt Nam có nhu cầu đi công tác, du lịch,
học tập ở nước ngoài. Một phần khách hàng là người nước ngoài đang công tác và làm
việc tại Việt Nam.
Doanh số phát hành thẻ tín dụng của các ngân hàng đang có chiều hướng ngày
một tăng, một phần là do nhu cầu của thị trường, một phần là do các hoạt động tuyên
truyền, marketing quảng cáo của các ngân hàng.
Biểu đồ 2.4: Thị phần thẻ tín dụng quốc tế
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hội nghị thẻ của Vietcombank)
Dẫn đầu trong số các thương hiệu thẻ quốc tế hiện nay ở Việt Nam là Visa. Đến
cuối năm 2007 ở Việt Nam đã có hơn 170.000 thẻ Visa với tổng giá trị giao dịch là hơn
200 triệu USD, số tiền khách hàng nước ngoài thanh toán qua thẻ tín dụng tăng 325%,
đạt 412 triệu USD.
Ngoài hai thương hiệu thẻ quốc tế quen thuộc là Visa, MasterCard, tại Việt Nam
đã xuất hiện thêm nhiều sản phẩm thẻ với nhiều hình thức mới như sản phẩm thẻ Amex
do Vietcombank phát hành, Thẻ tín dụng quốc tế bằng đồng Việt Nam do HSBC và

ACB phát hành, Thẻ ACB-Saigon Co-op, ACB-Saigon Tourist, ACB-Mai Linh và ACB-
Phước Lộc Thọ đây là nhưng thẻ do ACB hợp tác với hệ thống Siêu thị Maximark,
Citimart, Siêu thị Miền Đông , SaiGon Coop, SaiGon Tourist, công ty Mailinh để phát
hành, những thẻ này sẽ phát huy được nhiều tiện ích hơn khi thanh toán tại các đại lý
trực thuộc tại đơn vị hợp tác với ACB, chủ thẻ được hưởng ưu đãi qua các chương trình
khuyến mãi đặc biệt của các đơn vị hợp tác này.
Bảng 2.1: Số lượng thẻ TDQT phát hành tại Sở giao dịch Vietcombank
Đơn vị: thẻ
Loại thẻ Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tỉ lệ so với 2005 %
Visa 3147 5051 4506 87,35
Master 680 1402 1310 93,44
Amex 155 1244 907 72,91
Tổng số 3982 7697 6723 87,35
Nguồn:Vietcombank)
Không chỉ là ngân hàng đại lý thanh toán lớn nhất cho các tổ chức thẻ quốc tể ở
Việt Nam mà Vietcombank còn trực tiếp phát hành thẻ tín dụng quốc tế: Viecombank
MasterCard, Vietcombank Visa và Vietcombank American Express. Trong đó,
Vietcombank là ngân hàng độc quyền phát hành thẻ American Express – một trong
những sản phẩm thẻ có uy tín và dịch vụ tốt nhất trên thế giới và tại thị trường Việt
Nam.
Hiện nay ngân hàng ngoại thương đang có được thị phần lớn nhất trong hoạt
động phát hành thẻ tín dụng tại thị trường trong nước, chiếm tới 38%; tiếp sau đó là các
ngân hàng ACB, ANZ…Tổng số thẻ tín dụng quốc tế trên thị trường hiện nay là khoảng
200.000 thẻ.
Biểu đồ 2.5: Tình hình phát hành thẻ tín dụng quôc tế của Sở giao dịch
Vietcombank
(Nguồn: Vietcombank)
b. Thẻ tín dụng nội địa
Bên cạnh việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế, hiện nay các ngân hàng còn chú
trọng đến việc phát hành và phát triển dịch vụ thẻ tín dụng nội địa.

Tại NHNo, thực hiện việc đưa thẻ trở thành sản phẩm cơ bản trong quá trình đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, mở rộng và phát triển dịch vụ ATM, ngân hàng
đã tiếp tục triển khai phát hành thẻ tín dụng nội địa và đã thu được một số kết quả. Mặc
dù ban đầu việc phát hành thẻ tín dụng nội địa gặp phải không ít khó khăn do thói quen
dùng tiền mặt của người dân, kiến thức về thanh toán thẻ trong dân còn thấp, nhưng với
sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo, các chi nhánh đã và đang đẩy mạnh công tác
phát hành thẻ tín dụng nội địa song song với việc phát triển mạng lưới đại lý chấp nhận
thanh toán thẻ của NHNo. Năm 2006, số lượng thẻ tín dụng nội địa là 1100 thẻ, tăng
130% so với năm 2005, dư nợ thẻ tín dụng đạt 1125 triệu đồng, tăng 180% so với năm
2005.
Bảng 2.2: Kết quả triển khai thẻ tín dụng nội địa (2006)
Đv: VND
Chi nhánh
Số lượng máy
ATM
Tổng
cộng
Doanh số giao dịch
Dư nợ
Thẻ
chuẩn
Thẻ
bạc
Thẻ
vàng
Số món Số tiền
SGD - 32 3 35 34 2.576.200
65.305.000
Long Biên 3 - - 3 - -
-

Hoàng Mai - - 7 7 - -
49.415.000
Thăng Long 1 6 1 8 18 350.000
-
Láng Hạ 31 16 4 51 139 42.276.500
33.609.000
Hà Nội 72 74 6 152 656 152.945.782
85.396.000
Sài Gòn 10 81 35 126 141 25.412.325
247.289.000
NHNo 3 5 8 3 16 32 2.838.000
29.969.000
Phú Nhuận 28 18 1 47 188 116.209.000
112.879.000
TP HCM 86 3 - 89 512 123.751.718
46.822.000
Cần Thơ 103 29 - 132 321 61.534.414
90.496.000
Mạc Thị Bưởi
38 11 5 54 39 3.290.900
15.877.000
NHNo 4 25 5 2 32 - -
2.040.000
Đà Nẵng 207 73 20 300 316 53.838.909
298.682.000
Hải Phòng 44 3 - 47 34 1.161.000
44.844.000
Tổng cộng 653 359 87 1.099 2.394 517.867.748
1.121.603.000
(Nguồn: NHNo&PTNT, 2006)

Ngân hàng Á Châu đang phát hành hai loại thẻ tín dụng nội địa đầu tiên: ACB -
Saigon Tourist và ACB - Saigon Co.op. Hai đơn vị Saigon Tourist và Saigon Co.op phối
hợp với ACB sẽ dành nhiều ưu đãi đối với khách hàng sử dụng thẻ hai loại thẻ nay. Đã
có 10.000 thẻ tín dụng nội địa ACB được phát hành ngay trong năm 2001, năm ACB
phát hành 2 loại thẻ trên.
Với hệ thống 43 máy ATM và hơn 20.000 thẻ Đông Á Card đã phát hành, Đông
Á hiện xếp thứ 2 trong các ngân hàng phát hành thẻ tín dụng nội địa. Đông Á cũng đang
tung ra thị trường dịch vụ mới cho phép khách hàng có thể nạp tiền vào tài khoản thẻ
qua máy ATM, thay vì phải đến ngân hàng nộp tiền như các loại thẻ khác.
Theo một dự báo từ Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới, hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng sẽ tăng từ 10-12 nghìn giao dịch/ngày hiện nay lên 25-30
nghìn giao dịch/ngày trong vòng ba đến bốn năm tới, với số tiền 15-20 nghìn tỷ
đồng/ngày (gấp đôi con số hiện nay).
2.2.1.2. Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ
a. Thẻ ghi nợ quốc tế
Theo các ngân hàng để làm thẻ ghi nợ rất đơn giản, khách hàng chỉ cần
photocopy chứng minh thư rồi nộp tiền vào tài khoản, và rồi có nhiều sử dụng nhiều lần
để rút tiên. Số tiền trong tài khoản khách hàng sẽ được hưởng lãi suất không kỳ hạn nếu
như chưa sử dụng. Và theo như nghiên cứu của VISA người Việt Nam thích dùng thẻ
ghi nợ (Debit Card) hơn thẻ tín dụng (Credit Card).
Tính đến nay ở nước ta có 2 thương hiệu thẻ ghi nợ quốc tế do 2 ngân hàng phát
hành là ANZ Access Card của chi nhánh ngân hàng ANZ phát hành từ năm 2000 và thẻ
ACB Visa Electron do ngân hàng ACB phát hành năm 2003. Đây là loại thẻ ghi nợ
thuộc hệ thống thẻ ghi nợ của hai tổ chức thẻ quốc tế là Meastro và MasterCard. Những
thẻ này cho phép khách hàng có thể rút tiền mặt và thanh toán tiền hàng hóa tại hơn 1,5
triệu máy ATM và hàng triệu cửa hàng có biểu tượng của Meastro, Master, Visa trên
khắp thế giới. Trong những năm qua, ngân hàng ANZ đã phát hành được hơn 20.000
thẻ ghi nợ quốc tế trong đó có 25% thẻ phục vụ cho người nước ngoài. Số lượng trên là
rất nhỏ bé so với số lượng thẻ tín dụng quốc tế mà các ngân hàng hiện đang phát hành ở
Việt Nam, đó là do khách hàng khi sử dụng thẻ ghi nợ quốc tế không được cấp tín dụng.

Tuy nhiên đặc điểm này cũng lại trở thành một ưu điểm của chính loại thẻ này khi được
sử dụng tại thị trường Việt Nam bởi tâm lý người Việt vốn thích sử dụng đồng tiền tự
có của bản thân hơn là đi vay mượn để tiêu dùng. Tại thị trường trong nước việc sử
dụng thẻ ghi nợ quốc tế đang có rất nhiều thuận lợi một phần do đối tượng sử dụng chủ
yếu là học sinh, sinh viên du học tự túc đang ngày một tăng đã dùng loại thẻ này để
nhận trợ giúp tài chính của gia đình từ Việt Nam; một phần khác là do sự thuận tiện khi
thanh toán tại nhiều CSCNT; và một phần khác là do phí để làm thẻ ghi nợ quốc tế rẻ
hơn nhiều so với làm thẻ tín dụng quốc tế.
Nắm được những đặc điểm nêu trên, vừa qua Visa đã thỏa thuận với 7 ngân hàng
thương mại để phát hành thẻ ghi nợ mang thương hiệu Visa Debit. Eximbank là ngân
hàng đầu tiên, đã phát hành thẻ Visa Debit và tiếp sau đó là 6 ngân hàng khác cũng sẽ
tung loại thẻ này ra thị trường. Các ngân hàng này gồm (Ngân hàng TMCP Á Châu,
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương, Ngân hàng
TMCP Kỹ thương).Với Visa Debit, chỉ cần có tiền trong tài khoản, khách hàng có thể
sử dụng khắp nơi trên thế giới. Hiện thẻ này có thể thanh toán trực tiếp tại hơn 6.000
điểm thanh toán tại Việt Nam và 20 triệu điểm trên khắp thế giới. Ngoài ra, thẻ Visa
Debit còn cung cấp nhiều dịch vụ gia tăng như chuyển tiền tức thời với phí thấp, thanh
toán hóa đơn điện, nước, bảo hiểm… Phụ huynh có con du học nước ngoài có thể kiểm
soát chi tiêu của con qua thẻ Visa Debit. Khi du học sinh có thẻ Visa Debit sử dụng ở
nước ngoài, phụ huynh ở trong nước có thể đóng tiền vào tài khoản ở ngân hàng trong
nước; phụ huynh đóng vào bao nhiêu, con ở nước ngoài được nhận bấy nhiêu.
Nhận định về triển vọng của thẻ ghi nợ quốc tế tại nước ta, ông Gordon Cooper,
trưởng đại diện Visa International Việt Nam cho biết: “Có một thực tế là người tiêu
dùng trên thế giới rất ưa chuộng thẻ ghi nợ. Ngay khi Visa đưa thẻ Visa Debit ra thị
trường vào năm 2003, rất nhiều người đã chuyển từ thẻ tín dụng sang thẻ Visa Debit”.
Hiện có hơn 90 triệu thẻ Visa Debit trong khu vực và dự đoán 2008 số lượng này sẽ
tăng lên rất nhiều.
Các ngân hàng trong nước hiện đang đầu tư rất nhiều để mở rộng mạng lưới
chấp nhận thanh toán thẻ tại các điểm gần gũi với người sử dụng hơn như các siêu thị,

các trung tâm giải trí và các cửa hàng bán lẻ địa phương hay thậm chí tại mỗi điểm chợ
và khu dân cư. Tuy nhiên tại thời điểm hiện nay mạng lưới ATM và ĐVCNT trong nước
vẫn còn hạn chế. Để khắc phục tình trạng này và đẩy mạnh sự phát triển của thẻ Visa
Debit nói riêng và thẻ ghi nợ quốc tế nói chung tại thị trường Việt Nam, các tổ chức
phát hành thẻ và các ngân hàng thành viên phải hoạt động trên cơ sở chia sẻ, hỗ trợ lẫn
nhau về thương hiệu và cơ sở hạ tầng. Ví dụ như việc Vietcombank cùng công ty giải trí
và truyền hình MTV công bố kế hoạch khai trương sản phẩm thẻ thanh toán quốc tế
Vietcombank – MTV sử dụng thương hiệu Mastercard Unembossed vào tháng 4/2006.
Đây là loại thẻ ghi nợ quốc tế được sự hậu thuẫn của các yếu tố mạnh nhất:
- Thương hiệu MTV - một trong những thương hiệu nổi tiếng nhất trong lĩnh vực giải
trí truyền thông trên thế giới.
- Độ an toàn về tài chính của Ngân hàng Vietcombank - Ngân hàng thương mại lớn
và chuyên nghiệp nhất Việt Nam, có mạng lưới rút tiền tự động ATM lớn nhất Việt
Nam (705 máy ATM trên toàn quốc), hơn 5000 điểm chấp nhận thẻ và hàng nghìn
các máy đọc thẻ tự động EDC trên toàn quốc của Vietcombank cùng 6 ngân hàng
đại lý.
- Tính toàn cầu của thẻ MasterCard : Thẻ MTV sẽ được chấp nhận ở 220 quốc gia
với 7,5 triệu đối tác và 25.000 ngân hàng thành viên trên toàn thế giơi.
Đây là sản phẩm thẻ đầu tiên của dòng thẻ thanh toán Mastercard Unembossed
liên kết với MTV tại Việt Nam và cũng nằm trong số những sản phẩm Mastercard
Unembossed liên kết đầu tiên trên thế giới. Tấm thẻ Vietcombank – MTV sẽ không chỉ
đơn thuần là một phương tiện thanh toán mà còn là một biểu tượng của tuổi trẻ, thời
trang và sự đổi mới.
b. Thẻ ghi nợ nội địa
Với thẻ ghi nợ, khách hàng có thể thanh toán hàng hoá, dịch vụ cũng như rút
tiền mặt tại các điểm rút tiền và các máy rút tiền tự động ATM. Hạn mức chi tiêu,
mua sắm không hạn chế, tuỳ vào số dư trên tài khoản của khách hàng. Đối với giao
dịch rút tiền mặt tại ATM, lượng tiền rút phụ thuộc vào hạn mức ngày của thẻ. Số dư
trên tài khoản của khách hàng được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Thẻ ghi nợ nội địa là loại thẻ phổ biến nhất trong tất cả các hình thức thanh

toán thẻ. Hiện nay nó là loại thẻ đang được các ngân hàng chạy đua với nhau về số
lượng thẻ phát hành và cũng như phát triển các dịch vụ kèm theo. Tốc độ tăng trưởng
bình quân của loại thẻ này trong toàn hệ thống ngân hàng đạt khoảng 300%/năm.
Năm 2005 số lượng thẻ ATM phát hành trong năm của các NHTM là khoảng 760.000
thẻ nhưng đến cuối năm 2005 con số này đã đạt 2.5 triệu thẻ và đến năm 2007 đã là
gần 7 triệu thẻ. Sở dĩ có sự gia tăng đột biến trong số lượng thẻ là do các ngân hàng
thực hiện các chiến dịch khuyến mại rẩm rộ, giảm phí đăng ký thẻ và có sự phân
đoạn khách hàng khi cung cấp dịch vụ và do quy định của Chính phủ về việc trả
lương qua tài khoản cho người lao động.
Bảng 2.3: Số lượng thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng (2005)
STT Ngân hàng Năm 2004 Năm 2005
1 Vietcombank 460.000 950.000
2 BIDV 45.000 259.000
3 Agribank 100.000 220.000
4 Incombank 70.000 150.000
5 Đông Á 60.000 158.000
6 Techcombank 18.000 35.000
7 Ngân hàng khác 80.000 172.000
Tổng cộng 83.3000 1.944.000
(Tạp chí Ngân hàng, 2006)
Theo số liệu báo cáo, Vietcombank hiện vẫn đang là ngân hàng dẫn đầu toàn
hệ thống về số lượng thẻ phát hành, hơn 900.000 thẻ ghi nợ nội địa (cho hai thương
hiệu thẻ của ngân hàng này là Thẻ Connect 24 và thẻ ghi nợ nội địa SG24) trên tổng
số 1.913.614 thẻ ghi nợ nội địa của cả thị trường, chiếm gần 50,68% thị phần thẻ.
Tháng 4/2002, Vietcombank lần đầu tiên ra mắt thẻ ghi nợ nội địa Connect 24.
Với thẻ Connect 24 của Vietcombank, khách hàng sẽ thực hiện các giao dịch tự động tại
các máy ATM của Vietcombank trên toàn quốc, đồng thời có thể thanh toán hàng hoá,
dịch vụ tại các ĐVCNT của Vietcombank. Có thể nói rằng từ khi ra đời đến nay, thẻ
Connect 24 đã chứng tỏ là một công cụ hữu hiệu để sản phẩm thẻ của Vietcombank
thâm nhập vào mọi tầng lớp dân cư, giúp họ quen dần với việc sử dụng dịch vụ ngân

hàng bán lẻ, góp phần tạo dựng nền văn minh thanh toán tại Việt Nam. Xét tại số thẻ
phát hành của Vietcombank tại Sở giao dịch của ngân hàng này trong vài năm gần đây
có thẻ thấy số lượng thẻ ghi nợ nội địa được phát hành đang ngày càng tăng:
- Năm 2004: Số lượng thẻ đã phát hành là 35.077 thẻ, tăng 20.204 thẻ (tăng hơn 2 lần
so với cùng kì năm 2003).Thẻ đã được bổ sung thêm một số tiện ích mới như thanh
toán phí bảo hiểm, ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, thanh toán qua tài khoản
USD… Đây là thời gian thị trường thẻ ATM đang ngày càng sôi động, các tầng lớp
dân cư đã làm quen dần với thẻ, các yêu cầu phát hành và sử dụng thẻ dễ dàng, đơn
giản đáp ứng nhu cầu người sử dụng. Ngày càng nhiều các cơ quan, công ty hoạt
động trên địa bàn Hà Nội mở tài khoản và thẻ ATM để thanh toán lương cán bộ,
công nhân viên.
- Năm 2005: Số lượng thẻ phát hành là 41.000 thẻ, tăng 17% so với năm 2004, nhưng
so với chỉ tiêu đặt ra thì chưa đạt được do 6 tháng cuối năm 2005 các ngân hàng
khác phát hành thẻ ATM hoàn toàn miễn phí, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến doanh
số phát hành thẻ ATM. Thẻ ATM năm 2005 của ngân hàng đã được gia tăng thêm
về tiện ích của sản phẩm đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu của người sử dụng.
Lượng khách hàng chủ thẻ phát hành để thanh toán lương tăng nhiều cũng góp phần
vào việc huy động vốn thông qua các tài khoản của công ty mẹ cũng như tài khoản
của các cá nhân.
Biểu đồ 2.6: Số thẻ Connect 24 của Sở giao dịch ngân hàng Vietcombank
(Nguồn: Vietcombank)
- Năm 2006: Số lượng thẻ ATM phát hành trong năm 2006 đạt hơn 40.000 thẻ tương
đương với cùng kỳ năm 2005. Mặc dù số lượng thẻ chỉ bằng năm 2005 nhưng năm
2006 lại là năm sản phẩm thẻ của Vietcombank gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ,
gay gắt hơn từ một số ngân hàng mới có nghiệp vụ thẻ. Những ngân hàng này có
các chính sách không thu phí phát hành với chủ thẻ, nên con số phát hành này cũng
thể hiện một sự nỗ lực lớn trong việc giành giật thị phần với các ngân hàng. Năm
2003 thẻ ghi nợ nội địa của NHNo&PTNT-Success được đưa vào sử dụng. Đối
tượng của thẻ này là các doanh nghiệp có đông công nhân, sinh viên các trường đại
học, người về hưu, những người có thu nhập khá. Ngân hàng đã thực hiện được dịch

vụ chi trả lương cho nhân viên của một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn Hà Nội và
đang thực hiện triển khai thí điểm việc trả lương hưu cho các cán bộ nghỉ hưu tại
một số phường trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các NHTMCP cũng đang tích cực tham gia vào thị trường thẻ thanh toán bằng
nhiều sản phẩm đa dạng, tiện dụng thậm chí còn hơn cả thẻ của các NHTM quốc doanh:
- Ngân hàng ACB có thẻ Thẻ ATM2+ là thẻ ghi nợ nội địa kết nối trực tiếp với tài
khoản tiền gửi thanh toán do ACB phát hành, mang thương hiệu VISA.
- Techcombank có thẻ thẻ F@stAccess với tính năng đặc biệt 3 trong 1:
o Thẻ ghi nợ nội địa
o Gửi tiết kiệm với F@stSaving (cho phép chủ thẻ đầu tư các khoản tiền nhàn rỗi
sang tài khoản tiết kiệm với lãi suất hấp dẫn)
o Vay tiền ngân hàng với ứng trước tài khoản cá nhân F@stAdvance (cho phép
chủ thẻ có thể sử dụng vượt số tiền có trong tài khoản thanh toán của mình).
Với những tính năng tích hợp đa dạng, thẻ của Techcombank đã thu hút được một
số lượng khách hàng đông đảo. Đến cuối năm 2006 đã có 60.000 thẻ F@stAccess
được phát hành.
Bảng 2.4: Tình hình phát hành thẻ của Techcombank
Chỉ tiêu 2005 2006 2007
Lượng thẻ phát hành 17.848 59.566 178.000
Số dư tiền gửi trên thẻ
(VND) 67.504.239.316 256.175.045.485
445.500.000.0
00
Số dư tiền gửi BQ
(VND) 3.782.173,875 4.300.692,433 2.502.808,989
(Nguồn: Techcombank)
- Ngân hàng Đông Á có các loại thẻ như Thẻ đa năng Đông Á, Thẻ liên kết sinh viên
(dưới hình thức là Thẻ sinh viên kết hợp Thẻ đa năng Đông Á). Hiện ngân hàng đã
liên kết được với 2 trường đại học là Đại học khoa học tự nhiên thành phố Hồ Chí
Minh và Đại học kinh tế Đà Nẵng để phát hành loại thẻ này cho sinh viên. Thẻ của

Đông Á còn bổ sung thêm một tiện ích mới của thẻ ghi nợ bằng cách cung cấp dịch
vụ thấu chi hay nói cách khác là khách hàng sử dụng thẻ Đông Á có thẻ vay tiền tại
ngân hàng thông qua thẻ.
Biểu đồ 2.7: Tình hình phát hành thẻ nội địa của các Ngân hàng
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng, 2007)
- Ngân hàng Quốc tế (VIB Bank) là ngân hàng đầu tiên đưa thẻ thanh toán đến với
sinh viên, giảng viên kể từ năm 2006 và đang phối hợp với 7 trường đại học, cao
đẳng trong cả nước xây dựng hệ thống quản lý sinh viên. Kể từ năm học 2007-2008,
mỗi sinh viên của các trường này đều sẽ được mở 1 tấm thẻ “2 trong 1” - vừa là 1
chiếc thẻ ghi nợ nội địa (VIB Values) thông thường, vừa là chiếc thẻ sinh viên dùng
để ra vào lớp học, thư viện, phòng máy tính... Ngân hàng đang có mạng lưới ATM
liên minh với khoảng 20 ngân hàng khác nên sinh viên có thể sử dụng thẻ của mình
tại mạng lưới 1.500 máy ATM ở Việt Nam.
Nói tóm lại có thể thấy hoạt động phát hành thẻ của các ngân hàng Việt Nam
hiện đang diễn ra hết sức sôi động, các ngân hàng không ngừng đua nhau đưa ra thị
trường các sản phẩm với nhiều tiện ích hơn, tích hợp nhiều công nghệ hiện đại hơn.
2.2.2. Hoạt động thanh toán
2.2.2.1. Hoạt động thanh toán thẻ tín dụng quốc tế
Theo thống kê từ phía các ngân hàng, hiện nay dịch vụ thanh toán thẻ quốc tế
vẫn đang được coi là một nguồn thu chính từ hoạt động thẻ của các ngân hàng (bao
gồm doanh thu rút tiền mặt và doanh thu thanh toán mua bán hàng hóa dịch vụ). Doanh
số thanh toán thẻ tín dụng của các ngân hàng liên tục tăng qua các năm, 270 triệu USD
năm 2003; 310 triệu năm 2004 (tăng gần 15% so với năm 2003), 370 triệu USD năm
2005 và đạt hơn 400 triệu USD năm 2006. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam vẫn là
ngân hàng có tổng doanh thu từ hoạt động thanh toán thẻ tín dụng quôc tế cao nhất
trong toàn hệ thống ngân hàng, đạt 55%.
Biểu đồ 2.8: Thị phần doanh thu từ hoạt động thanh toán thẻ tín dụng quốc tế (2006)

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hội nghị thẻ của Vietcombank)

×