Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

CHIEC NON LA TRONG DOI SONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.93 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Chiếc Nón Lá Trong Đời Sống Và Văn Hoá Việt Nam
[07/03/2008 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]
Trần Văn Chi


03-03-2008


“Trời mưa thì mặc trời mưa
Em khơng có nón thì chừa em ra”
(Ca dao)


Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc “nón lá” đã theo chân người phụ nữ miệt quê miệt vườn, cùng
với chiếc xuồng ba lá, bồng bềnh theo con nước lớn nước ròng, dầm dãi nắng mưa sớm
chiều... Từ lâu chiếc nón lá đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của
người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.


Ngày nay chiếc nón là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, nhưng có ai biết đâu để
có cái nón lá đội đầu che mưa che nắng, và để làm duyên nữa, ngày xưa tổ tiên chúng ta đổ
bao tâm sức để nghĩ ra và làm nên?


oo0oo


Chiếc nón có lá mặt ở xứ mình từ khi nào thì khơng ai biết? Nhưng từ xưa cái nón đã xuất
hiện trong thơ cổ, khơng biết tác giả là ai.


“Dáng trịn vành vạnh vốn không hư,
Che chở bao la khắp bốn bờ.


Khi để (đội) tưởng nên dù với tán,
Khi ra thì nhạt (lạt) nắng cùng mưa.
Che đầu bao quản lòng tư túi,
Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa.


Vịi vọi ngồi trên ngơi thượng đỉnh,
Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.”


(Thơ cổ)


Nón như vậy đã có mặt lâu đời ở nước mình rồi. Nón là là “Ðồ dùng để đội đầu, hình chóp,
trịn, thường lợp bằng lá màu trắng”.


Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng,
theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà
mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường.


Nón cùng với người lính thú xơng pha ngồi chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội,
nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng cơng chúa, các bà hồng đi chùa cầu
dun cầu tự.


Nón cũng được các bà mẹ sục sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước
khi lên xe hoa về nhà chồng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nhiều loại nón ngày xưa, nay khơng cịn được sử dụng và mai một.


Có loại nón được cách tân cho hạp với thời đại và thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm cho
chiếc nón vượt lên khỏi chức năng “che mưa che nắng”, trở thành đồ trang sức, làm duyên
cho người phụ nữ. Có thể nói khơng sợ q lời rằng: khơng có dân tộc nào có chiếc nón, như
chiếc “nón lá” gắn bó, gần gũi với con người như dân tộc Việt Nam mình!


Nói về tên gọi chiếc nón thì ở nước mình phong phú lắm.


Theo thơng thường, chiếc nón khi ra đời được đặt tên theo vật liệu làm nên nó. Như nón lá,
nón rơm, nón đệm, nón lá bng, nón dứa, nón gõ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ...


Chiếc nón cũng được đặt tên theo hình dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón
thúng, nón chân tượng giống chân voi...


-“Tiếc vì nón lá quai mây,


Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm”.
-“ Ơng già ơng đội nón cịi,


Ơng ve con nít ơng Trời dánh ơng.”
(Ca dao)


Nón cũng còn được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh,
nón Tân Hiệp (Mỹ tho)...


“Chợ Dinh bán áo con trai,


Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”
(Ca dao Huế)


Nón chun dùng thì có tên như “nón tu lờ” của các nhà sư, “nón ngựa” dùng cỡi ngựa, “nón
cụ”, nón quai thao, dành cho cơ dâu, “nón dấu” dành cho lính thú đời xưa,...


(Cùng có nhiệm vụ để “đội chụp trên đầu”, nhưng khơng làm bằng lá thì gọi là cái mũ. Như
mũ nan, mũ ni, mũ bạc, mũ cánh chuồn, mũ cánh tiên, mũ tai bèo, mũ bê rê, mũ cối,...)
“Ngang lưng thì thắt bao vàng,


Ðầu đội nón dấu vai mang súng dài.”


Chiếc nón xuất hiện ở nước mình đầu tiên ra sao? - Không ai biết.



Bùi Xuân Phát chỉ biết lúc cái nón Bắc xuất hiện ở phố cổ Hà Nội cách đây 500 năm. Nón
Bắc bấy giờ sản xuất ở làng quê với cái tên là làng Chuông, Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Rồi chiếc
nón làng Chng được đem ra bán cho người Hà Hội. Tại phố cổ Hà Nội, nơi phố phường
chật hẹp, người đơng đúc, có khoảng 100 con đường nhỏ gọi là Phố, với bao ngõ ngách chằng
chịt. Nhà mặt tiền dành buôn bán, hẹp thắp và tối phát triển theo chiều sâu, được ngăn làm nơi
ăn ở sanh hoạt gia đình, vừa bn bán.


Nón Bắc làng Chuông là mặt hàng đặc trưng ở Bắc lúc bấy giờ, bày bán ở phố Hàng Nón,
cùng với phố Hàng Ðiếu, hàng Ðồng, Hàng Ðào, Hàng Buồm, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, Hàng
Than,... làm nên Hà Nội “băm sáu phố phường”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cẩm, Hàng Gà bây giờ khơng bán gà mà bán phở bị; Hàng Than nay bán quần áo; Hàng Giày
nay bán khăn. Và Hàng Nón nay khơng cịn bán nón nữa!)


Nón làng Chng “mang tánh lịch sử”, ngày nay được người Hà Nội làm sống lại qua/trong
các lễ hội, được biết/được nhắc tới như là chiếc nón tiêu biểu cho Hà Hội.


Tới chiếc cái nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm, đan bằng những sợi tre chuốt nhỏ, to và
nặng, có đơi quai thao dài 1m50 làm bằng 8 sợi tơ, hai đầu có một quả găng... Quai thao xưa
nổi tiếng thời thế kỷ 17, được làm ra ở làng Triều Khúc, Thanh Trì, cịn gọi là làng Ðơ Thao.
Làng Ðơ Thao là làng nghề làm quai nón nổi tiếng ngày xưa, có thờ tượng tổ sư của nghề dệt
quai thao, tới nay còn được dân làng tự hào.


Cái nón từ lúc xuất hiện, đi liền với đơi quai được làm bằng dây, mây, vải,... vừa để giữ chiếc
nón, vừa để điểm tơ cho người đội thêm dun, thêm dáng, thêm sang trọng và quí phái theo
cái nhìn thẩm mỹ bấy giờ.


-“Nón em nón bạc quai thao,


Thì em mới dám trao chàng cầm tay.”


-“Trịng trành như nón không quai,


Như thuyền không lái như ai không chồng!”
(Ca dao)


Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài
thơ, nón Bình Ðịnh...


Chiếc nón giờ đây có dáng vẻ nhẹ nhàng, mang theo trong nó cái “duyên ngầm” của người
con gái Huế đội “nón nghiêng che” lãng mạn.


Chiếc nón Triều Sơn huyện Hương Trà, nón Gị Găng, nón bài thơ... lộng bên trong bài thơ,
hình ảnh cầu Tràng Tiền, chùa Linh Mụ, núi Ngự, sông Hương:


“Con sông dùng dằng, con sơng khơng chảy,
Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu.”
(Câu hị Huế)


Nón Huế nhìn soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, mãi mãi là là cái gì
đặc trưng và “rặt Huế” khơng sao tả hết được!


-“Chợ Dinh bán áo con trai,


Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”
-“Nón này là nón u mê,


Nón này là nón đi về che chung.”
(Ca dao)


Chiếc nón càng về sau này càng xa rời “nhiệm vụ che nắng che mưa”, trở thành cái để làm


duyên của thiếu nữ và cũng được dùng để bày tỏ tình trai gái, tình nghĩa vợ chồng hay ẩn dụ
điều gì đó...


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chồng tơi đi bừa đã có nón che.”
(Ca dao)


Vào đến miền Nam, chiếc nón được gọi nơm na là “nón lá bng”. Nón làm bằng lá bng,
với tre, chỉ sợi... vật liệu có sẵn và nhiều ở Trảng Bàng Tây Ninh, Tân Hiệp Mỹ Tho... Chiếc
nón lá miền Nam kiểu dáng nhẹ nhàng, rẻ tiền, rất ư là đời thường nên thực dụng, nhưng vẫn
giữ cái dáng vẻ “duyên” của người con gái miệt vườn, sơng nước!


Nón Tây Ninh, Tân Hiệp từ lâu ln tìm cách đáp ứng nhu cầu và thị hiếu khách hàng nên sản
xuất làm 3 hạng nón: hạng nón thường, nón dày, nón lỡ.


Việc tổ chức làm nón ở Tây Ninh qui mô, khoa học, sản xuất chia ra ba công đoạn để giảm
giá thành, như: làm khung tre, lựa lá và chằm nón.


Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung có hình chóp, kích cỡ bằng chiếc nón.
Khung và bộ vành với 16 chiếc vòng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tròn và khéo, cân xứng,
nghệ thuật và nhẹ nhàng.


Lá bng có nhiều ở địa phương, là nguyên liệu chánh làm nên cái nón. Lá phải chọn lá già,
lá mật cật, đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi/sấy và ủ khơ sao cho lá còn giữ màu trắng tự nhiên
vẫn xanh-trắng mịn màng, không bị ngả màu đen hay vàng. Lá phải cán hay vuốt thẳng, sao
cho sau khi lợp, sau khi chằm không bị co bị dúm lại.


Giai đoạn cuối cùng là chằm nón bằng những sợi chỉ trong suốt dọc theo nan tre. Chính giữa
hai lớp lá được đặt vào các hoa văn, hoặc câu thơ cắt bằng giấy, có khi là hình cầu Tràng
Tiền, núi Ngự, Sơng Hương...



Người thợ nón Tây Ninh mỗi ngày làm ra từ 2 đến 4 cái nón tùy theo hàng. Những chiếc nón
ra lị ở đây trơng “rất Huế” nhưng khơng phải Huế, do bàn tay những nghệ nhân Tây Ninh
khéo léo, bằng những đường kim mũi chỉ sắc sảo. Ðó là những người thợ nón bước vào nghề
từ lúc còn bé 5, 6 tuổi đến già, yêu cái nghề làm nón và cả đời làm nón Huế dầu chưa có một
lần bước chân đến Huế! Nên có hai câu hát “Nón rất Huế nhưng đời khơng phải Huế/Mà chỉ
để làm đẹp nón ai nghiêng...”


***


Chiếc nón từ khi có mặt, đã phục vụ cho người thường, cho quan chức, cho cả người chết.
Nón cịn được làm để dâng cho thần linh trong đình chùa đền miếu miễu... phục vụ cho tín
ngưỡng con người.


Kể sao xiết những chiếc nón của người Việt mình xưa nay. Bởi:


Cịn những chiếc nón xuất hiện nơi thị thành đèn hoa đơ hội: ngồi chiếc nón của thầy thơng
thầy ký mắc tiền đội hờ cho có, cịn chiếc nón của bác xích lơ, người phu qt đường, người
“cu li” bốc vác... dùng để đội, để chắn gió mồi thuốc, để che mặt ngủ trưa hay chờ khách!
Còn những chiếc nón ra đồng, chiếc nón dùng để múc nước rửa mặt, múc nước uống tạm bên
sơng, chiếc nón của bà mẹ quê tạm dùng đựng mớ rau tập tàng mới hái được đâu đó để dành
nấu canh cho chồng cho con ăn!


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Dầu chiếc nón lá làm ra khơng dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay
người mình có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ “nón nghiêng che” đầy ấn tượng!
“Ra đường nghiêng nón cười cười,


Như hoa mới nở, như người trong tranh”
(Ca dao)


</div>


<!--links-->
CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
  • 20
  • 12
  • 25
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×