Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BINH THUANQUE HUONG TOI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.56 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Bình Thuận là tỉnh thuộc miền duyên hải Nam Trung Bộ với hơn 192 km chiều dài bờ biển,diện
tích tự nhiên 7.849 km2, dân số trên một triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau sinh sống .


Nằm trên vị trí quan trọng là cửa ngõ giao lưu kinh tế -
văn hoá - xã hội với các khu vực Đông Nam Bộ, Nam
Trung Bộ và Tây Ngun, Bình Thuận có nhiều điều kiện
để phát triển kinh tế và phát huy tiềm năng du lịch . Bình
Thuận được biết đến với những bãi biển có cảnh quan
đẹp, mơi trường trong lành và hoang sơ như: Cà Ná, Cù
Lao Câu, Mũi Né, Hòn Bà, Đồi Dương... cùng các di tích
lịch sử văn hóa mang kiến trúc độc đáo: Khu di tích Dục
Thanh, tháp chàm Pôshanư, chùa Cổ Thạch... tất cả đã
tạo nên yếu tố quan trọng nâng cao vị trí du lịch Bình
Thuận trong hiện tại và tương lai.


Thời tiết Bình Thuận khá thuận lợi cho việc tổ chức các họat động du lịch. Đây là khu vực có độ
nắng cao, lượng mưa thấp và tập trung, nhiệt độ trung bình hàng năm đạt khoảng 26,5-27,50<sub>C, </sub>


được mệnh danh là vùng đất: "<b>Biển xanh - nắng vàng - cát trắng</b>"


<b>THẮNG CẢNH BÀU TRẮNG (BẠCH HỒ) - BÀU SEN </b>


<b>Bàu Trắng là một hồ nước ngọt, trưóc đây thuộc xã Bình </b>


Nhơn, huyện Hịa Đa, Tỉnh Bình Thuận, nay thuộc thơn Hồng
Lâm, xã Hịa Thắng, huyện Bắc Bình cách Phan Thiết khoảng
62km về hướng Đơng Bắc.


Bàu Trắng hình thành từ lâu đời, nằm giữa vùng đồi cát rộng
mênh mơng xen lẫu nhiều nhóm cây rừng thấp. Nước trong
hồ rất ngọt và trong. Từ xa nhìn lại một màu xanh mát dịu phủ
lên những đồi cát trắng. Bàu Trắng chia thành 2 phần bởi một


đồi cát vắt ngang qua. Nhân dân ở đây từ xưa đã gọi là Bàu
Ông và Bàu Bà, mặc dầu bàu nước do thiên nhiên tạo nên, nhưng trong dân gian vẫn tỏ lịng biết
ơn vì đã cung cấp nguồn nước nuôi sống con người (một số ngưuời Chăm đã sử dụng nguồn
nước trong hồ làm nuớc sinh hoạt của họ) và động vật rừng ở đây vào mùa khô. Nơi sâu nhất
của Bàu Trắng là 19m và cạn dần về phía bờ. Quanh bờ có nhiều bông sen, vào mùa hạ sen nở
rộ tô thêm cho vùng cát trắng những màu sắc rực rỡ.


Bàu Sen thuộc xã Hồ Thắng, huyện Bắc Bình (Bình Thuận), cách thành phố Phan Thiết chừng
40km về hướng Ðông Bắc. Bàu Sen cịn có tên gọi dân dã khác là Bàu Bà (bởi cách bàu này một
dãy cát có một hồ nhỏ hơn gọi là Bàu Ông) hay Bàu Trắng (bởi nằm giữa ba động cát trắng), còn
các thi nhân gọi là Bạch Hồ.


Ðể đến Bàu Sen - Bạch Hồ, du khách có thể đi bằng hai đường: đi xe đặc chủng từ Hòn Rơm
(dài khoảng 12km), hoặc từ thành phố Phan Thiết theo quốc lộ 1A đến thị trấn Lương Sơn, có
ngã ba, rẽ phải chừng 18km là đến nơi. Ði đường nào cũng có cái thú, cái hấp dẫn riêng, nhưng
đi hướng Lương Sơn thì đẹp hơn, bởi xe chạy băng qua những ngọn đồi trọc, lúc lên cao, lúc
xuống thấp, xuyên qua các cánh rừng sò đo, rừng dừa xanh mướt trên những động cát trắng thơ
mộng.


Khi xe còn chạy trên đồi cao, thoạt tiên bên tay trái hiện ra một đầm nước mênh mông trông
như biển hồ, nước xanh thẳm đến “nhức mắt” (nếu du khách đi đúng vào lúc trưa), trải dài tuyệt
đẹp, ai cũng phải ngạc nhiên, trầm trồ và khơng thể khơng ngắm nhìn. Bàu Sen dài 3km, nơi
rộng nhất 500m, độ sâu trung bình 5m, rộng 70ha, được bao bọc bởi những động cát. Ðộng cát
ở đây đẹp hơn Mũi Né, bởi cát thuần khiết một màu trắng tinh anh, mịn màng.


Ngư dân địa phương cho biết, hệ sinh vật ở Bàu Sen rất phong
phú, có nhiều loại cá nước ngọt rất ngon. Trong hồ cịn có loại
cá trắm cỏ nặng đến 30kg! Ngày xưa ở đây cịn có cả cá sấu,
nhưng con cá sấu cuối cùng đã được bắt cách đây 25 năm. Sen
ở đây mọc tự nhiên, hầu như nở cả bốn mùa. Mỗi năm người


dân địa phương thu hoạch cả tấn hạt sen để làm mứt, nấu chè
trong những dịp tết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ðến với Bàu Sen - Bạch Hồ, bạn có thể thuê chiếc xuồng của ngư dân ven vùng dạo chơi,
ngắm cảnh trên hồ, hay câu cá cũng rất thú vị. Nếu thích tắm, nước ở đây trong vắt, mát lạnh,
sạch sẽ. Còn muốn cắm trại, bên phía bờ Bắc có khu rừng dương mát rượi, bạn tha hồ mắc
võng nằm nghỉ ngơi, đàn hát. Ðừng quên mang theo máy chụp hình để ghi lại những bức ảnh
tuyệt đẹp mà không phải nơi đâu cũng có.


Bàu Trắng khơng chỉ là nơi cung cấp nước ngọt mà còn là thắng cảnh đẹp ở khu vực Hịa
Thắng-Băc Bình. Với nguồn nưóc mát quanh năm đã làm dịu đi cái khơng khí nóng bỗng của đồi
cát mênh mông là thắng cảnh đẹp mà bất cứ ai đến vùng này đều phải ghé thăm.


<b>VẠN THỦY TÚ</b>


Vạn Thủy Tú được ngư dân Thủy Tú thiết lập vào năm
Nhâm Ngọ 1762 để thờ Ông (cá voi). Lúc mới xây dựng
xong cửa vạn sát ngay bờ biển, ngày nay bờ biẻn đã lùi xa


ra ngoài 100m.Ngày nay Vạn Thủy Tú tọa lạc trên đường
Ngư Ông, phường Đức Thắng, Tp. Phan Thiết.Khác với
những đình làng thường xây để thờ Thành Hồng làng,
cịn vạn, dinh lại thờ Cá Ơng (cá Voi) và thường xây dựng


ngay trước bờ biển của làng Ngư.Theo ngư dân Bình
Thuận cá Ơng là vị thần cứu giúp ngư dân mỗi khi gặp tai nạn trên biển, và là vị thần chung thủy


với Ngư dân nên được Ngư dân kính u và tơn trọng.


Vạn Thủy Tú từ ngày xây dựng xong đến nay đã chứa gần 100 bộ


xương cá Voi và nhiều loài khác cùng họ. Hơn một nữa các bộ
xương đó có niên đại trên 100 -150 năm, trong đó có những bộ
xương to lớn được thờ phụng tơn nghiêm. Trong khn viên của
Vạn có một doi đất rộng, dùng để mai táng Cá Ông mỗi khi ông
"lụy" và dạt từ biển vào. Mỗi lần mai táng xong, sau 3 năm mới
được thương cốt nhập tẩm theo phong tục.Trong số ngư dân hễ
người nào trông thấy Ơng trước thì người đó làm con trưởng của
Ngài, và nguời này phải lo đám tang chu đáo, để tang sau 3 năm


mới hết hạn v.v...


<i><b> Bí mật của những bộ hài cốt “Ơng Nam Hải”</b></i>


... Người nổi tiếng "có duyên" nhất Vạn Thuỷ Tú là ông Nguyễn Sáu -
<b>thường gọi là ông Sáu Vẹo - một ngư phủ đã gặp "Ông" lụy khơng dưới 15 </b>
<b>lần. Có lần kéo lưới lên, thấy "Ơng" mắc lưới, ơng Sáu đành bỏ mẻ cá ấy </b>
<b>để đưa "Ông" ra; nhưng đến hai lần sau vẫn thấy "Ơng" chui vào trở lại, </b>
<b>ơng Sáu cho rằng "Ơng" sắp luỵ nên đã chọn mình để ký thác xương cốt. </b>
<b>Ơng Sáu đành bỏ chuyến biển hơm ấy để đưa "Ông" vào bờ, lên Ngọc Lân </b>
<i><b>thánh địa trong đình Vạn Thuỷ Tú nằm chờ chết...</b></i>


Những ngày đầu năm này, hàng ngày có nhiều người dân Phan Thiết lui tới đình
Vạn Thuỷ Tú để xem việc phục chế bộ xương cá voi lớn nhất Việt Nam. Công
việc được tiến hành ở ngơi đình có 240 năm tuổi, gần bằng thời gian thành lập
tỉnh Bình Thuận. Dự kiến cơng trình phục


chế bộ xương cá voi cịn ngun cặp ngà ấy
sẽ khánh thành vào dịp lễ Tế Xuân, ngày
20/2 âm lịch (22/3/2003).



Thơng tín viên BinhThuantoday đã tới ngơi
đình độc đáo còn lưu giữ khoảng 600 bộ hài
cốt cá voi này.


Từ xa xưa, ngư dân duyên hải miền Trung
có tín ngưỡng thờ cúng cá voi như vị thần hộ
mệnh. Với sự tơn kính đặc biệt và nhớ ơn
lồi cá khổng lồ qua những truyền thuyết


cứu nạn người đi biển khi gặp bão to sóng dữ, họ gọi cá voi là "Ông Nam Hải".
Khoảng sau năm 1693, theo chân những đoàn quân nhà Nguyễn, những ngư
phủ vùng Nam, Ngãi, Bình, Phú… đã đưa gia đình lên thuyền xi về phương


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nam, đổ bộ lên cửa biển Phố Hài lập nghiệp. Khi những cộng đồng ngư dân đã an cư, ngồi
việc lập đình thờ Thành hồng và chư vị tiên hiền như những làng xã chuyên sống bằng
nghề nơng, họ cịn lập đền miếu thờ Ông Nam Hải. Trải qua bao dâu biển đổi thay, bên hữu
ngạn cửa sông Phan Thiết ngày nay - thuộc phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết - có
một ngơi đình toạ lạc tại số 20A đường Ngư Ông được xếp hạng di tích cấp quốc gia vào
năm 1996 là Đình Vạn Thuỷ Tú.


Đình được dựng lên vào năm Nhâm Ngọ (1762), mặt hướng ra biển Đông. Kiến trúc đình
nhỏ và bình thường như những đình làng khác ở miền Trung, nhưng bên trong có nhiều
điểm khác biệt. Hương án chính giữa đình Vạn Thuỷ Tú thờ Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn
thần; bên trái thờ Thuỷ Long thánh phi nương nương tôn thần và bên phải thờ Thái hiệu tiên
sư tôn thần. Cạnh chính điện cịn có miếu thờ đức Quan thánh. Phía sau là những phịng lưu
trữ, bảo tồn chừng 600 bộ hài cốt của các "Ông", "Bà" và "Cậu", là những hải thần phò trợ,
cứu mạng người đi biển theo quan niệm của ngư dân. Theo ông Nguyễn Xèng - một lão ngư
69 tuổi, gốc người Quảng Điền (Thừa Thiên-Huế), ngư dân địa phương gọi cá Ông lớn là
Ông Nam Hải, nhỏ là Cậu; gọi các loài rùa biển là Bà sống khến, Bà Năm, Bà Bảy... Những
vị hải thần này thường tấp vào bờ để "luỵ" (chết), cũng có khi chui vào lưới của các ngư phủ


khi sắp "luỵ". Hàng năm, ngư dân Thuỷ Tú cũng vớt được "Ông" hoặc các "Bà" luỵ, có năm
tới 6-7 trường hợp cả ven bờ và trên biển…


Người nổi tiếng "có duyên" nhất vạn Thuỷ Tú là ông Nguyễn Sáu - thường gọi là ông Sáu
Vẹo - một ngư phủ đã gặp "Ơng" luỵ khơng dưới 15 lần. Có lần kéo lưới lên, thấy "Ơng" mắc
lưới, ông Sáu đành bỏ mẻ cá ấy để đưa "Ông" ra; nhưng đến hai lần sau vẫn thấy "Ơng" chui
vào trở lại, ơng Sáu cho rằng "Ơng" sắp luỵ nên đã chọn mình để ký thác xương cốt. Ông
Sáu đành bỏ chuyến biển hôm ấy để đưa "Ơng" vào bờ, lên <i>Ngọc Lân thánh địa</i> trong đình
Vạn Thuỷ Tú nằm chờ chết.


<i>Ngọc Lân thánh địa </i>là nghĩa trang chôn cất thi hài các vị hải thần mới chết, trước khi được
bốc mộ rửa sạch xương cốt đưa vào thờ phụng trong đình. Đó là một khoảnh đất có hàng
rào bao quanh nằm trước sân đình, bên trong có một am nhỏ để thắp hương và nhiều loại
hoa được trồng xen giữa 24 ngôi mộ đắp đất. Hàng năm, đình Vạn Thuỷ Tú có 5 kỳ tế lễ vào
các ngày âm lịch: 20-2 (Tế Xuân); 20-4 (Cầu ngư); 20-6 (Chính mùa); 20-7 (Chèo dọc) và
23-8 (Mãn mùa, cúng giỗ Ơng).


Khơng chỉ những ngư phủ mới tin vào sự phù trợ của các vị hải thần như một tín ngưỡng
dân gian mang tính truyền thống. Các vị vua nhà Nguyễn cũng ghi nhận cơng lao đó với 24
điệu sắc thần. Trong số đó, riêng vua Thiệu Trị ban tặng đến 10 điệu sắc thần, còn lại là của
các đời vua Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định...


Những điệu sắc thần viết trên giấy thủ cơng - trong đó,
10 bản đã có hơn 150 năm tuổi nhưng vẫn được giữ gìn
cẩn trọng, ngun vẹn trong ngơi đình Vạn 240 năm tuổi
này. Đình Vạn Thuỷ Tú hiện cịn lưu giữ được nhiều hiện
vật có giá trị liên quan đến lịch sử hình thành và phát
triển cộng đồng cư dân nghề cá vùng hữu ngạn cửa
sông Phan Thiết do các bậc tiền bối để lại. Trong đó, có
chiếc chng đồng đúc vào năm Nhâm Thân (1872), đến


nay đã được 130 năm; thân chng có dịng chữ "Tự
Đức nhị thập ngũ niên - Xuân quý giáo đáng - Thuỷ Tú
Vạn - Bổn Vạn đồng ký".


Trong hàng trăm bộ hài cốt lưu giữ tại đình Vạn Thuỷ Tú có hai bộ xương cá voi rất lớn. Tài
liệu cũ chép rằng: "Thuở mới lập Vạn xong, một hơm Ngài bị luỵ ở ngồi khơi trơi về ngay
trước cửa Vạn. Vì Ngài lớn q (dài hơn 20m, nặng tới vài chục tấn) nên mãi hai ngày sau,
với sự giúp sức của ngư dân các làng lân cận đến giúp mới tẩm liệm xong cho Ngài". Ông
Nguyễn Xèng lại kể rằng: "Khi Ngài lụy, bạn chài nhiều làng đang đánh cá cùng phát hiện và
tranh nhau đưa về thờ phụng. Lúc ấy, Vạn Thuỷ Tú đông người, nhiều ghe nên đưa được
Ngài về vùng nước cạnh hịn Lao (trước mặt đình Vạn) rồi đóng cọc buộc giữ xác ngài để
thuỷ táng vì khơng có cách nào kéo lên bờ được. Sau ba năm mới đưa xương cốt Ngài vào
đình bảo quản, thờ phụng". Theo ông Xèng, bộ xương lớn nhất (dài hơn 18m) có niên đại
chừng 110 năm, bộ lớn thứ nhì (dài 14m) của Ơng luỵ năm 1953.


Hiện nay, UBND thành phố Phan Thiết giao cho Phòng Văn hố Thơng tin làm chủ đầu tư
cơng trình phục chế, lắp dựng bộ xương cá voi lớn nhất đặt tại đình Vạn Thuỷ Tú, dự kiến sẽ
khánh thành vào dịp lễ Tế Xuân, ngày 20/2 âm lịch (nhằm 22/3/2003). Ơng Đào Văn Chừ -
Trưởng phịng VHTT thành phố Phan Thiết cho biết, đã tham khảo, tìm hiểu nhiều nơi, cuối
cùng chọn phương án nhờ sự hỗ trợ của Viện Hải Dương Học (HDH) Nha Trang, giao cho
DNTN Lê Vũ (Nha Trang) thiết kế, thi công phục chế, lắp dựng bộ xương cá voi này. Ông
Đào Tấn Hỗ - Trưởng phòng Bảo tàng HDH Nha Trang cho biết:" Bộ xương cá Ông này sau
khi phục chế có lẽ là bộ xương lớn nhất ở nước ta và cũng có thể lớn nhất trong khu vực
Đông Nam Á, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học đến nghiên cứu và khách du
lịch đến chiêm ngưỡng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hàng ngày, nhiều người dân địa phương thường
lui tới đình Vạn Thuỷ Tú xem việc phục chế đang
được tiến hành kể từ đầu tháng 1/2003. Một
người dân nói: "Cả đời tơi chưa được tận mắt thấy


ngun hình bộ xương Ơng Nam Hải. Tơi thấy rất
vui khi ngay tại đây sẽ có một cơng trình ý nghĩa
như vậy. Tuy nhiên, việc chặt bỏ cây cổ thụ để
xây dựng ngôi nhà để đặt bộ xương Ngài chốn
hết nửa sân đình Vạn Thuỷ Tú như vật thiệt cũng
uổng vì cảnh quan bị phá vỡ, che khuất cả ngơi
đình cổ xưa nhất Phan Thiết này. Rồi đây, những
ngày tế lễ hàng năm của Vạn cũng sẽ gặp nhiều
trở ngại vì sân đình quá chật hẹp".


Đình Vạn Thuỷ Tú là di tích văn hố tín ngưỡng địa phương có niên đại sớm nhất
ở Phan Thiết và cả tỉnh Bình Thuận - tính đến nay đã được 240 năm, gần bằng
thời gian thành lập tỉnh Bình Thuận - là kiến trúc đánh dấu sự hình thành và phát
triển nghề cá và cộng đồng ngư dân địa phương, một bộ phận quan trọng trong
cơ cấu xã hội ở Phan Thiết, Bình Thuận.


Về việc phục chế bộ xương cá voi ở Vạn Thuỷ Tú


- Năm 1995, một bộ xương cá voi dài gần 18m đã được phục chế, lắp đặt tại Viện Hải
Dương Học (HDH) Nha Trang. Lúc ấy, bộ xương cá voi này được coi là có kích thước lớn
nhất được phát hiện ở Việt Nam. Thực ra, bộ xương cá voi lớn nhất ở đình Vạn Thuỷ Tú
đã được bảo quản, lưu giữ từ nửa sau thế kỷ 19 có kích thước lớn hơn nhưng chưa được
các nhà quản lý và giới khoa học biết đến. Theo ông Đào Tấn Hỗ - Trưởng phòng Bảo
tàng Viện HDH Nha Trang - dù cơng việc phục chế đang tiến hành, chưa có được số đo
chính xác nhưng có thể xác định chiều dài bộ xương ở Vạn Thuỷ Tú dài hơn 18m.
-Bộ xương ở Viện HDH Nha Trang bị vỡ nhiều xương sườn và khơng có cặp ngà. Bộ
xương ở Thuỷ Tú còn nguyên cặp ngà quý giá nhưng thiếu khá nhiều đoạn xương sống và
xương đầu bị vỡ, sứt nhiều chỗ do quá trình dịch chuyển và chất những bộ xương khác
chồng lên. Để khiêng bộ xương đầu ra khỏi hậu đình, đem ra nhà võ ca để phục chế, gần
hai chục thanh niên lực lưỡng phải gồng mình hết sức mới nhấc lên nổi.



- Bộ xương ở Vạn Thuỷ Tú thiếu: 14/63 đốt xương sống; 4/30 chiếc xương sườn; 4 đốt
xương treo, 13 đốt xương chi trước và 8 xương móng, vi.


- Cơng nghệ composite được dùng phục chế bộ xương cá voi ở Vạn Thuỷ Tú, có khả năng
chịu đựng khí hậu vùng biển nhiệt đới tốt hơn thạch cao đã dùng cho bộ xương ở Viện
HDH Nha Trang. Toàn bộ khung đỡ, giá treo dùng inox. Bục đế hình chiếc thuyền bằng gỗ
hương. Mặt sàn lót mica với hệ thống đèn chiếu tạo hình ảnh sóng biển. Thiết kế và thi
cơng do DNTN Lê Vũ (Nha Trang) đảm nhận với sự tư vấn về khoa học của các ông Đào
Tấn Hỗ và Chu Anh Khánh (Viện HDH Nha Trang).


Vạn Thủy Tú là một trong những dinh, vạn cổ xưa nhất của Bình Thuận, được ngư dân làm biển
coi như thủy tổ nghề biển. Vạn Thủy tú còn là một trong những di tích cổ có số lượng lớn sắc
phong của các vị Vua triều Nguyễn ban tặng để thờ cá Ông và các vị Hải Thần. Vạn Thủy tú đã


được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sữ cấp Quốc gia năm 1996.


<b>ĐẬP ĐÁ DỰNG</b>


Được xây dựng từ năm 1958, chắn ngang dịng sơng Dinh
nối với hai bờ Tân An và Tân Bình. Lúc đầu đập xây dài 80m
nhưng vài năm sau bị lũ rừng tràn về phá sâu vào bờ tả ngạn


nên đập phải kéo dài thêm. Đập Đá Dựng nằm ở vị trí có
nhiều khối đá thiên nhiên sừng sững nằm ngổn ngang giữa


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cải tạo, nâng cấp vẫn còn một quần thể đá lô nhô dưới làn nước đập đổ xuống tạo ra những đám
mù sương huyền ảo.


<b>HẢI</b> <b>ĐĂNG</b> <b>KHE</b> <b>GÀ</b>



Hải Đăng Khe Gà được xây dựng trên đỉnh đảo Khe Gà, đảo
có diện tích 5ha ở vùng biển xã Tân Thành, trước thuộc
huyện Hàm Tân, nay thuộc huyện Hàm Thuận Nam, cách
Phan Thiết 30km về phía Đơng Nam. Hải Đăng Khe Gà do
một người Pháp tên là Chnavat kỹ sư thiết kế, xây dựng để
hướng dẫn tàu thuyền qua lại, khởi công từ tháng 2 năm
1897, đến cuối năm 1898 mớI khánh thành, đến nay vẫn còn
một tấm đá hoa cương lớn đặt ngay trước của vào Hải Đăng
khắc số 1899. Hải Đăng Khe Gà chính thức hoạt động năm
1900. Nhân viên điều hành gồm có một người Pháp (trạm


trưởng) và 8 người Việt canh giữ đèn. Đảo Khe Gà cách bờ biển 500m, những ngày nước rịng,
từ bờ biển có thể lội ra đảo được. Lúc triều cường và có gió đi lại rất vất vả. Trên đảo ngọn Hải
đăng được xây dựng tương đối đồ sộ, có lẽ đây là ngọn Hải đăng cao nhất trong nước, xây bằng
đá hoa cương, hình bát giác. Đá hoa cương xây ở Hải Đăng Khe Gà chưa biết người Pháp đưa
từ đâu đến vì trong khu vực này khơng có loại đá này. Và khơng phải chỉ những viên đá bình
thường có 4 góc mà tất cả những khối đá hoa cương dùng xây Hải đăng đều đã được chạm,
khắc thành từng ô, từng hình cụ thể, khớp với nhau. Tháp đèn xây bằng đá cao 35m, độ cao
toàn bộ từ mặt đất đến chóp đèn là 41,5m, độ cao từ tầm ngọn đèn đến mặt biển là 65m, kích
thước cạnh của tháp (chân tháp) là 2,60m. Trên ngọn tháp có bóng đèn lớn 2000W làm tín hiệu


hướng dẫn tàu bè qua lại.


Ngồi ngọn Hải đăng, cịn có một căn nhà lớn hình vuông mỗi cạnh 40m, dưới nhà là một hầm
chứa nước sâu 3m, trước nhà có một cái giếng gọi là giếng Tiên. Từ dưới mép nước biển đến
Hải đăng hàng chục bậc tam cấp. Hai hàng hoa sứ dọc theo lối đi và xung quanh chân Hải đăng
do người Pháp trồng từ cuối thế kỷ 19 đến nay vẫn còn nguyên, tỏa bóng mát quanh năm. Lên
ngọn Hải đăng có 184 bậc thang xoắn ốc bằng thép dẫn đến đỉnh Hải Đăng cùng hàng chục bậc
tam cấp lên đến đỉnh đèn, tấc cả đều được đưa từ Pháp sang, kể cả ngọn đèn trên đỉnh, máy


phát điện. Hiện nay hòn Đảo Khe Gà và ngọn Hải Đăng đã và đang trở thành điểm du lịch hấp
dẫn đối với du khách. Bởi Hải Đăng Khe Gà vừa là thắng cảnh vừa là di tích kiến trúc độc đáo.


<b> CHÙA NÚI TÀ-CÚ</b>

<b> </b>



C

hùa tọa lạc trên đỉnh núi Tà Cú ở độ cao 475m thuộc
xã Tân Lập, Huyện Hàm Thuận Nam, cách Tp. Phan
Thiết khoảng 30km về phía Ðơng-Nam. Chùa Núi
được xây dựng từ thế kỷ 19, nãm 1879 nhưng trước
đó nhiều nãm đã có chùa thờ Phật bằng mái tranh
vách đất. Chùa Núi do nhà sư Trần Hữu Ðức trụ trì,
nơi xây dựng chùa do nhà sư chọn, ở đó quanh nãm
có cây xanh, suối chảy, chim vượn ở ngay cạnh chùa.
Về sau có nhiều lý do khác nhau, chùa tách thành hai,
chùa cũ gọi là chùa Trên với tên gọi là Linh Sơn
Trường Thọ và chùa Dưới có tên là Linh Sơn Long
Ðoàn, gọi chung là Chùa Núi.


Chùa Núi Tà Cú kết hợp, xen kẽ với núi rừng làm nên khu danh lam thắng cảnh từ xưa. Toàn thể
cảnh chùa là một tổng thể kiến trúc bao gồm: Cổng Tam Quan, điện thờ, tượng Phật, tháp mộ,
hang Tổ, …. ẩn mình dưới rừng cây cổ thụ xanh tươi bốn mùa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chùa Núi nổi tiếng cũng nhờ vào phong cảnh hùng vĩ nên thõ của núi rừng. Mặt khác, Chùa Núi
cịn có pho tượng Phật nằm khổng lồ:” Thích Ca nhập niết bàn” nằm ở vị trí cao nhất cách chùa
khoảng 100m. Tượng Phật này thuộc vào pho tượng Phật hiếm có trong lịch sử Phật Giáo Việt
Nam. Tác phẩm do kỹ sư Trương Ðình Ý chủ trì vào nãm 1962.


Cách Pho Tượng Phật nằm chừng 50m là nhóm tượng Tam Thế Phật: A Di Dà, Quan Thế Âm
Bồ Tát, Ðại Thế Chí. Cả 3 pho tượng có chiều cao khoảng 7m, với nét mặt hiền hịa đang nhìn
bao qt thế gian như để sẳn sàng cứu nhân độ thế.Vào các mùa trong nãm lúc nào cũng có


khách thập phương đến viếng Phật, ngắm cảnh chùa và rừng núi, nhất là dịp Xuân về Tết đến có
hàng vạn người kéo ðến chùa.


<b>Huyền thoại Linh sơn Tà Cú</b>


<i>Vùng đất cực Nam Trung bộ có nhiều di tích lịch sử văn hóa, nhưng với Linh Sơn Trường thọ trên núi Tà Cú (thuộc huyện Hàm </i>
<i>Thuận Nam) lại mang một bản sắc rất riêng. Từ cảnh quan thiên nhiên đến những truyền thuyết như hòa quyện vào nhau để Tà </i>
<i>Cú càng thêm hoang sơ và quyến rũ.Thắng cảnh di tích Tà Cú nằm ở vị trí đầu mối các tuyến đường giao thơng: từ thành phố Hồ</i>
<i>Chí Minh ra và các nẻo đường từ Vũng Tàu đi qua Suối nước nóng Bình Châu, Dinh Thầy Thím (Hàm Tân), Mũi điện Khê Gà… </i>
<i>rất thuận lợi cho lộ trình hành hương và những chuyến lữ hành du lịch sinh thái. Khách sẽ ngỡ ngàng khi đứng trước cảnh chùa </i>
<i>cổ kính, tượng phật trầm tư và dấu thiêng của Tổ sư từ buổi khai sơn cách đây trên 130 năm. Không đợi đến ngày giỗ tổ Hữu </i>
<i>Đức hàng năm (mùng 5 tháng mười âm lịch), hoặc Tết nguyên đán mà gần như thường xuyên đều có khách thập phương đến </i>
<i>viếng cảnh. Những tốp người lặn lội leo hàng ngàn bậc đá của những đoạn dốc cao kéo dài 2.000m mới đến được một cõi an </i>
<i>nhiên đầy bóng xanh của tán lá rừng, lẩn khuất màu mây.</i>


<i>Đã có khá nhiều trang viết, bài báo nói về chùa Tà Cú, nhưng với tôi mấy lần lên xuống núi vẫn mang nặng bao điều băn khoăn </i>
<i>xung quanh những câu chuyện tưởng chừng bí ẩn. Hỏi chuyện nhà sư trụ trì, rồi gặp những người cao tuổi từng sống dưới mái </i>
<i>ngói rêu phong của tổ đình và đến tận chùa Pháp Bửu Đàn (Hàm Tân) để nghe sư bà nói về ngôi chùa tổ cội nguồn. Tôi cảm </i>
<i>nhận ra những điều kỳ diệu ở buổi ban sơ mà nhà sư Hữu Đức và các chư hậu tổ đã dày công tạo dựng ngơi chùa, những tượng </i>
<i>Phật hồnh tráng giữa chốn non cao rừng thẳm.</i>


<i>Giữa hồn cảnh núi cao, khí hậu khắc nghiệt, cách biệt với cư dân thì nhà sư sẽ sống ra sao? nhưng được lý giải từ những môn </i>
<i>đồ kế tục rằng: Nhờ pháp thuật cao siêu mà tổ Hữu Đức thuộc dòng Lâm tế chánh tơng thứ 40 đạt được sức mạnh chuyển hóa </i>
<i>vạn vật xung quanh. Biết bao huyền thoại về tổ Hữu Đức suốt 16 năm khai sơn với sự nhiệm màu của trí huệ, đại hùng. Theo </i>
<i>nhiều người truyền tụng, có một bạch hổ ln phủ phục bên hang Tổ, quấn quít theo chân Tổ bất cứ đi đâu. Mãi cho đến ngày Tổ</i>
<i>tịch thì hổ cũng chết theo nên mới có ngơi mộ hổ ở vườn chùa. Trên cánh rừng cạnh chùa có cặp chim hồng hồng cao cát với </i>
<i>bộ lơng rất đẹp, xuất hiện từ khi có Tổ. Tiếng chim hót lên cũng là báo hiệu có khách thập phương dưới chân núi sắp lên rồi bay </i>
<i>lượn dẫn đường không sai một bước. Bữa ăn hàng ngày của Tổ là lá rừng, rau lũi hái ở vách núi bên hang, nước uống thì lấy từ </i>
<i>khe đá. Có người kể về giai thoại của Tổ cho đến sau này, đó là khi xây pho tượng Phật nằm 49m, nhu cầu vận chuyển hàng </i>
<i>trăm tấn sắt thép, xi măng lên núi đã khó trong khi khối lượng cát xây phải cần đến gấp chục lần lại giữa địa hình sườn núi đá phủ</i>


<i>kín mà khơng phải đưa từ dưới núi lên. Trước ngày thi công theo thời gian của thợ hồ, sư trụ trì lúc ấy cho trữ nước vào các hồ, </i>
<i>mái chứa rồi bít kín các lỗ mạch nước chảy hàng ngày, sáng ra từ các mạch nổi đã trào ra những đụn cát nhuyễn dùng được cho </i>
<i>cơng trình.Vào năm Tự Đức thứ 33 (tức 1880), hoàng thái hậu là bà Từ Dũ lâm trọng bệnh, mắt mù lòa nhưng các ngự y, danh y </i>
<i>tài giỏi ở triều đều bất lực. Nhà vua châu tri khắp thần dân trong nước kêu gọi ai cứu được mẫu hậu sẽ trọng thưởng. Bởi tiếng </i>
<i>đồn về danh đức, pháp thuật của Tổ từ lâu, nay quan thủ hiến đầu tỉnh Bình Thuận lập tức viết biểu tâu lên vua. Vua Tự Đức hạ </i>
<i>chiếu sai sứ xin rước Tổ về triều chữa bệnh cho Hồng thái hậu. Nhưng vì đã nguyện khơng bao giờ xuống núi nữa mà Tổ chỉ </i>
<i>trao cho sứ thần thảo dược cùng cách sử dụng. Quả là linh nghiệm, sau khi uống hết các chú chuẩn đề và thuốc, Hoàng thái hậu </i>
<i>vượt qua căn bệnh hiểm nghèo, nhanh chóng bình phục. Vua Tự Đức tỏ lịng cảm phục Tổ ban sắc phong bốn chữ “Linh Sơn </i>
<i>Trường Thọ” cho nơi Tổ sáng lập và tu tịnh.</i>


<i>Tôi lần theo vách đá xuống hang Tổ trong bóng tối âm u chỉ vài chục mét đã thấy hơi lạnh xông lên đến rợn người. Vậy mà Tổ </i>
<i>Hữu Đức chọn làm nơi thiền tịnh. Người ta kể, quăng một trái bưởi xuống hang thì vài ngày sau sẽ tìm thấy trái bưởi đó trơi trên </i>
<i>biển Khê Gà… Chui vào lịng tượng Phật nằm, len qua những gộp đá hoa cương ở lưng chừng núi mới thấy trí lực của những </i>
<i>thiền sư đã khơi dậy sự mầu nhiệm đáp ứng nỗi khao khát của con người. Tà Cú với tiềm năng đa dạng được thiên nhiên ưu đãi </i>
<i>nức tiếng linh sơn từ rất xa xưa gắn với những ngày khổ hạnh tu luyện của Tổ Hữu Đức. Nơi đây hiện là một trong những điểm </i>
<i>du lịch khá nổi tiếng của Bình Thuận.</i>


Những nãm gần đây nãm nào cũng tổ chức hội thi leo núi thu hút nhiều thanh niên từ các tỉnh
miền Ðông tham gia. Sắp tới nõi đây sẽ thực hiện dự án cáp treo để đưa du khách lên xuống
tham quan được thuận tiện hơn.


Chùa Núi cùng với những cánh rừng trong khu Bảo Tồn Thiên Nhiên đã được Nhà Nước xếp
hạng thắng cảnh quốc gia nãm 1993.


<b>CHÙA HANG</b>


Chùa Hang (Cổ Thạch): Chùa Hang còn gọi là Chùa Cổ Thạch, tọa
lạc tại bờ biển xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, cách Tp. Phan
Thiết 105km về hướng Bắc. Chùa được xây dựng trong hang đá
lớn do thiền sư Bảo Tạng lập vào khoảng giữa thế kỷ 19. Đường


lên chùa Hang có xây bậc, lan can hai bên chùa đắp rồng. Trên núi


đá nhỏ sát bờ biển có tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong
chùa có tượng Đức Phật Thích Ca. Cạnh chùa là bãi đá Cà Được
nhiều màu sắc chạy dọc bờ biển gần 1km. Xung quanh chùa Hang


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

nhiều ngôi nhà xinh xắn được xây theo kiểu nhà sàn để đón khách phương xa về viếng chùa và
thưởng ngoạn thắng cảnh.


Cổ Thạch là một vùng núi đá rộng, gồm hàng ngàn, hàng vạn tảng đá lớn
nhỏ, có tảng đá nguyên khối to như những ngơi nhà, có tảng giống như
bàn Thạch, có những tảng chồng lên nhau, úp vào nhau, như có bàn tay
con người sắp đặt, bố trí, có những tảng đá có hình thù kỳ lạ đầy tính cách


huyền bí và chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ độc đáo với nhiều hang động
nguyên sinh luồn sâu vào trong núi. Chùa Cổ Thạch ngoài vẻ đẹp tự nhiên


của hang động kết hợp với sự sáng tạo của con người, ở đây cịn lưu giữ
nhiều di sản văn hóa lịch sử q hiếm: nhiều di sản văn hóa Hán Nơm liên,


đối, hồnh phi và những tài liệu có từ ngày lập chùa. Một số cổ vật có giá
trị lịch sử văn hóa khác như Đại Hồng chung, trống sấm đều có niêm đại


từ nửa đầu thế kỷ 19.


Chùa Hang hàng chục năm nay do Hịa Thượng Thích Minh Đức trụ trì là


điểm du lịch chính ở Bình Thuận, hàng chục vạn du khách từ mọi miền đất nước và du khách
nước ngoài đến đây hàng năm để chiêm bái, lễ Phật và tham quan danh lam thắng cảnh độc đáo



hiếm có ở đây. Những giá trị về thắng cảnh thiên nhiên và về lịch sử văn hóa, Cổ Thạch Tự đã
được Nhà nước xếp hạng di tích thắng cảnh cấp Quốc gia năm 1993.


<b>DINH THẦY THÍM</b>


Dinh Thầy Thím tọa lạc giữa khu rừng già, có tên là rừng dầu
Bàu Cái thuộc xã Tân Hãi, huyện Hàm Tân cách Thành phố


Phan Thiết khoảng 70 km về phía Đơng Nam.
Tương truyền trong dân gian: Dưới Triều vua Tự Đức có hai


vợ chồng đạo sĩ quê ở làng La Qua, phủ Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Đạo sĩ là người giàu tài đức, hay giúp đỡ người


nghèo khó, căm ghét bọn quan lại hay ức hiếp dân làng,
chống lại chế độ đương thời. Ơng bị Triều đình Tự Đức kết


tội gây rối, mưu toan bạo loạn và chịu hình phạt "Tam ban


Triều Diễn". Trước lúc bị hình phạt này, Đạo sĩ đã "biến" dãi lụa điều thành rồng bay về phương
Nam. Hai vợ chồng dừng chân ở làng Tam tân, ngày ngày bốc thuốc chữa bệnh cho dân và đốn
củi kiếm sống qua ngày. Tài đức của vị Đạo sĩ nổi tiếng khắp vùng, từ đó dân làng gọi vợ chồng
Đạo sĩ bằng cái tên thân mật "Thầy, Thím". Hàng năm vào ngày 5 tháng giêng âm lịch, người ta


thường thấy một đôi hổ thường về viếng mộ Thầy.


Đến đời Thành Thái thứ 18 năm Bính Ngọ (1906), nhà vua đã xem xét lại cơng đức Thầy Thím
nên quyết định xóa án và ban sắc phong "Chí Đức Tiên Sinh, Chí Đức Nương Nương Tơn
Thần". Để tỏ lịng tơn kính và biết ơn cơng lao của Thầy Thím, dân làng đã lập dinh tại địa điểm



ngày nay để tôn thờ. Nhân dân quanh vùng coi Thầy Thím như vị Thành Hồng biểu hiện cho
nhiều tính cách đáng quý: tài đức, tính cần cù, miệt mài lao động, lòng nhân ái với người nghèo


khổ. Hơn 100 năm qua Dinh Thầy Thím trở thành nơi để nhân dân chiêm bái, những năm gần
đây là khu danh lam thắng cảnh và du lịch kết hợp với núi rừng xung quanh bãi biển, đồi dương.


Hàng năm nhân dân khắp nơi đến viếng mộ thăm Dinh, nhưng đông nhất vẫn là dịp giỗ Thầy
ngày 5 tháng giêng âm lịch và tế Thu của Dinh từ ngày 14-16 tháng 9 âm lịch.


Dinh Thầy Thím được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận cơng nhận và ra quyết định bảo vệ khu
danh lam thắng cảnh số 1377-QĐ/UB-BT ngày 6/12/1993 và Bộ Văn Hóa Thơng Tin đã được xếp


hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.


<b>LẦU</b>

<b>ƠNG</b>

<b>HỒNG</b>



Lầu Ơng Hồng bao gồm một quần thể đồi núi, sơng, biển,
chùa tháp tạo thành khu danh lam thắng cảnh nổi lên với
ngọn núi Cố tương đối cao và 4 ngọn đồi nhấp nhô sát biển,
đẹp nhất là núi Cố, đồi Bà Nài, cửa sông Phú Hài và bờ biển
cùng những làng chài xưa cách Phan Thiết 7km về hướng


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Năm 1911 một ơng Hồng người Pháp là cơng tước De Montpensier từ Pháp sang du lịch, săn
bắn ở những ngọn đồi lân cận, thấy phong cảnh sơn thủy đẹp ở đây khiến ông nảy sinh ý định
mua đất và xây dựng biệt thự, cũng để có nơi nghỉ nghơi trong các kỳ săn bắn và du lịch sau
này. Nguyện vọng của ông đã được nhà cầm quyền pháp ở Bình Thuận (cơng sứ Garnier) đồng
ý bán quả đồi Bà Nài. Ngày 21 tháng 2 năm 1911 biệt thự được khởi cơng xây dựng và gần 1
năm sau đó hồn chỉnh, với diện tích rộng 536m2<sub> chia thành 13 phịng. Khu biệt thự được xây</sub>


cách nhóm đền tháp PơSaNư gần 100m về phía Nam. Đây là khu biệt thự đẹp, đầy đủ tiện nghi,


ban đêm có máy phát điện dưới biệt thự có nhiều hầm chứa nước mưa đủ cho những nguời
trong biệt thự dùng trong 1 năm, được coi là hiện đại nhất Bình Thuận lúc bấy giờ. Từ đó nhân
dân Phan Thiết quen gọi khu vực này là đồi "Lầu Ơng Hồng". Vài chục năm sau thi sĩ Hàn Mạc
Tử đã đến địa danh này và đã để lại nhiều kỉ niệm khiến cho Lầu Ơng Hồng càng có ý nghĩa.
Hiện nay, Lầu Ơng Hồng là một quần thể du lich hấp dẫn bao gồm: Nhóm Tháp Chăm Cổ, bên
cạnh có chùa Bửu Sơn cổ kính, dưới chân đồi là bờ biển, cửa sông Phú Hài, núi Cố.... Tất cả
hợp thành một quần thể di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của Phan Thiết.


<b>"KỲ</b> <b>ẢO</b> <b>SUỐI</b> <b>TIÊN"</b>


Suối Tiên Hàm Tiến là nơi giao thoa của màu sắc thiên nhiên.
Phía bên này chạy ra biển bạc sóng là màu xanh ngút mắt
của dừa, của cỏ. Chạy theo dòng nước ra tới biển là bạt ngàn
thảm muống biển nở hoa tím. Chen trong dừa xanh có hàng
anh đào, mùa xuân nở hoa phơn phớt hồng, cứ ngỡ như buổi
sáng mùa xuân Đà Lạt. Có lần chạy ra Mũi Né, đi qua Suối
Tiên thấy ngào ngạt hoa bưởi, hoa chanh, ghé vào thấy cả
vườn chanh ra hoa trắng như tuyết thơm lừng.Cịn phía bên
kia suối là đồi cát trải dài, biến đổi theo đường đi của gió
lộng, có lúc như bình ngun, lắm khi là dốc thẳm. Từ đây vệt
lửa cháy trên cát chạy băng băng tới tận Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong, có khi nhào ra biển như
những hàm răng của rồng lửa. Và trên tất cả là bầu trời xanh ngát bình yên.
Đặc sản Suối Tiên lại là con Giông, sinh vật ngoan cường của vùng cát. Chính con giơng đã
dựng lên một phong tục nơi đây có thể gọi hội giơng. Hội giông thường diễn ra trước tết ÐOAN
NGỌ ( 5-5 ÂM LỊCH) một thời gian. Chính xác là khi giơng nước mưa đầu mùa rơi xuống làm
bừng tỉnh thiên nhiên. Những chú giông bao ngày năm im trong hang nhấm đuôi mình, giờ lao
lên mặt cát nhấm nháp những con kiến cách, mối cánh béo ngọt. Chỉ vài ngày sau, các chú giơng


choai béo lẳn.



Dân Hàm Tiến Mũi Né có thể chế biến đủ món ăn từ con giơng: bánh xéo, cà ri, nướng, rán, ram,
kho dừa. Và ngay cả đám cưới, nếu thiếu món giơng này thì coi như chưa đủ vị. được biết nhiểu
cánh bắt giông bằng bẫy hay đào, nhưng tơi thích nhất cách làm của một cậu bé vê lá cỏ tranh
làm thành tiếng vi vi, ri ri như tiếng dế vừa lãng mạn vừa lung linh.
Suối Tiên vẫn chảy kỳ ảo và nên thơ dưới mỗi bước chân người tới đây.


<b>THẮNG</b> <b>CẢNH</b> <b>HÒN</b> <b>RƠM</b>


Từ TP.Phan Thiết đi Mũi Né (22km), rồi theo đường bờ biển
thêm 4km nữa các bạn sẽ đặt chân đến khu du lịch Hòn Rơm.
Bờ biển sạch đẹp, nước biển trong xanh, êm ả, lời ru của gió
mơn man qua những rặng dừa mát rượi, trịu quả. Những đồi
cát vàng, cát trắng nối tiếp nhau ….. Tất cả đã tạo nên vẻ
hoang sơ quyến rũ, mời gọi các bạn đến với điểm du lịch nổi
tiếng này cùng chinh phục sa mạc cát, và các bạn cịn được
nhìn thấy nét đẹp kiêu hãnh của suối Hồng bên cạnh những đồi
cát hùng vĩ.


NGẢNH TAM TÂN (HÀM TÂN)


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

người tù vượt Côn Đảo, trên chiếc bè tắp vào bờ biển, trong đó có nhà cách mạng Tú Kiên sau
này là Bí thư kỳ bộ Tân Việt Nam Kỳ được dân địa phương cứu thoát.


Thuở đầu nhà Nguyễn Trung Hưng ở đây có một đồn binh
được truyền lại câu thơ buồn như lời than thở"


"Phong táp sơn yên truyền pháo hưởng
Triều phiên hải giác trợ bề thanh"


(Gió thổi trên lưng núi như tiếng súng vọng về, từng làn sóng


âm vang dội về góc biển).


Bờ biển Tam Tân còn giữ được cảnh quang sinh thái, những
cây dương liễu xanh liên hoàn với địa danh dốc Ông Bằng, với


dinh Thầy Thím đã trở thành điểm du lịch, nghỉ ngơi của khách mọi nơi.


<b>THẮNG CẢNH HÒN BÀ (HÀM TÂN)</b>


<b>L</b>à một hòn đảo nhỏ nằm cách bờ biển khoảng 2 cây số, Hịn Bà có
hình dáng con Rùa khổng lồ đang ngẩng đầu vươn mình trên sóng


biển. Hịn bà là ngọn núi trẻ, trên núi có nhiều cây cổ thụ lớn.
Quanh năm cây xanh cổ thụ rợp bóng và là nơi trú ngụ của loài
chim biển mỏi cánh bay về. Trên đảo có thờ Bà Chúa Ngọc Thiên Y


A diễn bà với nguyên bản là một tảng đá tự nhiên mang hình dáng
người mà người dân địa phương gọi là tương bà. Hàng năm vào
ngày 23 tháng 3, ngư dân tổ chức lễ vía bà rất long trọng. Từ huyền
thoại đầy tính sử thi về sự thủy chung, ghen giận, phân ly để rồi còn


lại dấu vết Hòn Bà như một dấu chấm than buồn trên biển sóng
mênh mông.


Nữa đầu thế kỷ XVII người Chăm đã dựng lên một ngôi đền thờ nữ
Thần Thiên Ya Ana - vị thần thiêng liêng của Vương Quốc Chăm-pa
cổ. Cũng từ đây hịn đảo có tên gọi là Hịn Bà. Ngơi đền thờ có kết
cấu kiến trúc và trang trí nghệ thuật giống như ngôi miếu của ngườI


Việt cùng thời. Trong ngôi đền thờ, tượng nữ Thần Thiên Y Ana


bằng đá, được các nghệ nhân Chăm tạc từ một khối đá nguyên tại
chỗ. Việc thờ tượng Bà ở trên đỉnh Hòn Bà thể hiện sự tôn vinh của
người Chăm với Nữ Thần. Mặt khác ở những thế kỷ trước đây, nghề biển là nghề chính thu hút


đơng đảo ngư dân Chăm ven bờ mà dấu vết của những làng ngư cổ vẫn còn. Do vậy, việc thờ
tượng nữ Thần ở đây là sự cầu mong cho nữ thần phù hộ, cứu nạn cho họ trên biển. Hàng năm


người Chăm ở các nơi thường đến đây làm lễ cầu mưa và các nghi lễ tơn giáo khác.
Hịn Bà người ta biết đến và ngưỡng mộ khơng phải chỉ bằng


chính ngơi đền cổ mà bởi ở đây là hòn đảo cheo leo giữa biển hấp
dẫn mọi người bằng chính cảnh đẹp của nó cộng với sự hùng vĩ
mênh mông của biển cả và đồi dương bên trong bờ càng làm cho


phong cảnh ở đây đẹp thêm.


Hịn Bà đuợc ví von là Động Tiên sa vì nơi đây dưới chân đảo là
những tảng đá mn hình mn vẽ chồng chất lên nhau tạo ra
những hang động huyền ảo. Tiếng sóng vỗ vào khe đá giữa gió


đại dương ầm ào để Hịn Bà càng thêm hoang sơ và thơ
mộng.


<b>THÁP</b> <b>CHÃM</b> <b>PÔSANƯ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lài - một trong những phong caáh kiến trúc
nghệ thuật cổ của Vương quốc Chãm-pa, mà hiện nay những ngơi tháp này cịn lại rất ít nhý một
số phế tích ở khu thánh ðịa Mỹ Sõn, cịn lại nhóm Hịa Lai (Phan Rang) nhóm PơDam (Tuy
Phong - Bình Thuận) và tương ðối nguyên vẹn là nhóm ðền tháp PơSaNư.
PơSaNư là nhóm ðền tháp Chãm có vai trị quan trọng trong các di tích kiến trúc Chãm ở Bình


Thuận, từ hình dạng kiến trúc ðến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các
vịm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lịng và lên ðến ðỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và
trang trí nghệ thuật còn lại ở thân tháp ðủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách
Hòa Lai. So với những tháp Chăm khác, đến nay hàng năm vẫn có đơng đảo người Chăm từ các
vùng lân cận đến làm lễ cầu mưa và những nghi lễ khác liên quan đến phong tục tập quán của
họ. Một điều khá lý thú nữa là đối với ngư dân những vùng lân cận truớc khi đi biển cũng đến
đây cầu xin cho những chuyến đi biển được bình n. Nhóm đền tháp Chăm PơSaNư được Nhà
nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1991.


<b>GÀNH SON:</b><i><b>VẺ ĐẸP CHƯA KHÁM PHÁ</b></i>


Gành Son thuộc xã Chí Cơng, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình
Thuận. Mới nghe tên cũng đã gợi cho ta cảm giác cheo leo
gập ghềnh với những dãy núi hang động mang nhiều hình
thù lạ mắt. Vào buổi sáng tinh sương hay những buổi chiều
êm ả, biển lặng, từ trên gành, có thể nhìn thấy tồn cảnh
sinh hoạt ấm cúng, nhộn nhịp của làng chài. Màu đỏ của
đá, màu xanh của biển như hoà lẫn vào nhau tạo nên một
sắc thái hài hoà vừa gần, vừa xa, vừa hư lại vừa thực...
Gành Son quả là một tặng vật của thiên tạo chưa được
nhiều người biết đến.


<b>Cà Ná - một thắng cảnh biển</b>


Nằm cách Phan Rang 30 km về phía Nam, Cà Ná với vịnh biển
được ơm ấp bởi một vịng cung dải cát vàng dài 3 km, bên cạnh
biển là núi xanh trùng điệp, đây là một trong những nơi lý tưởng


cho tắm biển, trị liệu, du lịch núi và du lịch làng chài.
Chưa hết, dọc thềm biển nhô lên vài cụm đá, chấm phá vài loại


cây vùng khô hạn Nam Trung bộ, theo đó, một hệ thống hạ tầng


khách sạn, nhà nghỉ kiểu sàn Tây Nguyên, dịch vụ ăn uống đặc
sản biển và các tuyến tham quan…Tất cả đều được xây dựng sát quốc lộ 1A, tạo thuận lợi cho


du khách khi đến tham quan.


Cách khoảng 3 km về phía Đơng Đơng Bắc bờ biển Cà Ná là làng biển Lạc Nghiệp. Đây là một
trong những làng biển lâu đời dọc ven biển hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, nó cùng với làng


Vĩnh Hy, làng La Gàn được xếp vào những làng chài lâu đời nhất của người Việt vùng Nam
Trung bộ.


Cạnh làng biển Lạc Nghiệp là Xí nghiệp muối Cà Ná, một địa điểm sản xuất muối cơng nghiệp
lớn nhất ở Việt Nam. Ngồi khơi cách Cà Ná chừng 10 km về hướng Nam là Cù Lao Câu (cịn
gọi là Đảo Cái Hồn người), ở đó hồn toàn là một đảo đá với cỏ và dứa dại. Trên đảo có nhiều
chim mng, dưới thềm đảo có nhiều loại hải sản quý, nhưng ngon nhất và lạ nhất như ốc nhảy,


loại ốc có càng như cua. Đảo này thực sự là một “vệ tinh” du lịch kỳ thú của Cà Ná.


<b>DU</b> <b>LICH</b> <b>ĐẢO</b> <b>PHÚ</b> <b>QUÝ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Phương tiện chuyên chở khách du lịch đi tham quan là loại xe đặc chủng GMV, đón khách tại
bến tàu và đưa đi len lỏi trong con đường cái hẹp có những ngơi nhà tập trung đơng đúc trong
những ngõ xóm nhỏ bé với những giếng nước có đơng người địa phương. Khu dân cư ở phía
bắc đảo, ẩn mình sau các hàng cây dày đặc là những dãy phố cát trắng xóa, trải dài. Trên đảo
khơng có khách sạn, nhà trọ, các dịch vụ du lịch cũng không. Mọi hoạt động kinh tế sôi nổi đều
do những cơn gió mùa mang đến từ phía nam, tạo điều kiện cho tàu thuyền ghé đảo.
VẠN TAM THANH là nơi cịn lưu giữ lại bộ xương CÁ ƠNG khổng lồ cùng với tập tục thờ thần
Nam Hải. Cuộc sống ở xóm đảo càng nhộn nhịp thì ngồi vùng ven thị trấn lại càng vắng lặng,


suốt con đường dẫn lên núi Cao Cát là một vùng đất đỏ bazan màu xanh của dứa, loại cây vốn
một thời từng là loại cây xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao, giờ đã mất thị trường, người dân
chuyển qua trồng các loại cây có giá trị kinh tế khác nhằm tăng thêm thu nhập để trang trải cuộc
sống, trao đổi hàng hóa để lấy lương thực và một số hàng thực phẩm xa xỉ khác ở các tàu
thuyền từ đất liền ra, ngoài việc kiếm thu nhập từ việc đánh cá, mò ngọc trai.... trên biển thì đây
chính là một trong những nguồn sống của dân đảo.


Núi Cao Cát được dân đảo xem như ngọn núi thiêng, tọa
lạc ở phía Bắc thị trấn, nơi được chọn để đặt tượng Phật
Bà Quan Âm rất uy nghi. Từ trên đỉnh Cao Cát, du khách
có thể phóng tầm mắt suốt cả vùng khơng gian rộng lớn
quanh đảo, những vơi cát trắng trải dài nằm phơi mình bên
làn nước xanh màu ngọc bích, xa xa những cánh buồn
màu trắng hình tam giác đang căng mình đón gió ra sức
đưa thuyền của người dân chài ra khơi cùng với đồn
thuyền đang thả neo nằm im lìm ở kè đá, tạo nên một bức
tranh rất hoàn mỹ cho hịn đảo của hai nền văn hóa Sa


Huỳnh và Chăm-pa này. Những tảng đá khổng lồ, công cụ hữu hiệu chắn gió của thị trấn, giờ
đây dưới sự xâm thực của thiên nhiên đã tạo thành kì quan đá rất kì bí với những đường nét tạo


hình vơ cùng sắc sảo, hấp dẫn.


Chuyến đi thật sự chưa kết thúc nếu bạn chưa đến được Hịn Tranh, một đảo nhỏ hình chữ S
nằm phía đơng nam, cách đảo khoảng 600m, nơi lý tưởng cho sự dừng chân trong suốt thời gian
hành trình, một bờ cát dài trắng phau được núi bao bọc thành một thế chắn sóng tuyệt vời mặc
cho bạn tung mình bơi lặn duới làn nước xanh trong vắt, soi rõ từng rặng san hô và phản chiếu
lấp lánh màu sắc các loại tảo biển. Khơng gian hồn tồn vắng lặng, chỉ có tiếng sóng biển vỗ ì
oạp vào bờ đá hịa với tiếng gió thổi vi vu trên những tán dừa cao tạo thành dạng âm thanh dễ



trung động lịng người.


Hồng hơn trên biển mang màu tím thẫm, chuyến trở về từ Hòn Tranh sau buổi du hành đầy lý
thú trên biển cả với những đàn chim lướt sóng hai bên mạn thuyền và những cánh hải âu bay
lượn trước mũi thuyền sẽ khiến bạn quên hết mệt mỏi để chuẩn bị làm chuyến ra khơi cùng với
ngư dân tham gia câu mực đêm đầy thú vị trên biển.


<b>BÃI TẮM ĐỒI DƯƠNG</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Bãi biển Đồi Dương - Phan Thiết</i>


<b>THÁP CHÃM PƠSANƯ</b>


Nhóm ðền Tháp Chãm PơSaNư tọa lạc trên ðồi Bà Nài thuộc xã
Phú Hải về phía Ðông-Bắc cách Tp. Phan Thiết khoảng 7km


ðược người Chãm xây dựng từ những cuối thế kỷ IX thuộc
phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lài - một trong những
phong cách kiến trúc nghệ thuật cổ của Vương quốc Chãm-pa,


mà hiện nay những ngơi tháp này cịn lại rất ít như một số phế
tích ở khu thánh ðịa Mỹ Sõn, cịn lại nhóm Hịa Lai (Phan Rang)


nhóm PơDam (Tuy Phong - Bình Thuận) và tương ðối ngun
vẹn là nhóm ðền tháp PơSaNư.


PơSaNư là nhóm ðền tháp Chãm có vai trị quan trọng trong các
di tích kiến trúc Chãm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc ðến


kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các


vịm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lịng và lên ðến ðỉnh
tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở


thân tháp ðủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong
cách Hòa Lai. So với những tháp Chăm khác, đến nay hàng
năm vẫn có đơng đảo người Chăm từ các vùng lân cận đến làm


lễ cầu mưa và những nghi lễ khác liên quan đến phong tục tập


quán của họ. Một điều khá lý thú nữa là đối với ngư dân những vùng lân cận truớc khi đi biển
cũng đến đây cầu xin cho những chuyến đi biển được bình n. Nhóm đền tháp Chăm PơSaNư


được Nhà nước xếp hãng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1991.
<b>THÁP CHÃM PƠDAM</b>


Nhóm ðền tháp Chãm PơDam (Pơ Tằm) tọa lạc dưới
chân núi có tên là ông Xiêm thuộc địa phận xã Phú


Lạc - huyện Tuy Phong - Tỉnh Bình Thuận nằm về
hướng Tây Bắc cách TP. Phan Thiết khoảng 110km.


Tương tự như nhóm tháp PơSaNư cả về kỹ thuật
xây dựng và nghệ thuật kiến trúc, và có niên đại
nữa cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong


cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai.


Tháp PôDam là nơi thực hiện nghi lễ, thờ cúng Vua


Chăm hàng năm của người Chăm Phú Lạc và các vùng lân cận. Hiện những dòng tộc


là hậu duệ của Vua còn lưu giữ 8 sắc phong do các vua Triều Nguyễn từ Minh Mạng
đến Khải Định phong tặng Vua PôĐam, chúng được cất giữ đặc biệt như báu vật của
dòng tộc và trách nhiệm của hậu duệ vua. Di tích nhóm tháp Chăm PơDam được Nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

PhanThiet - BinhThuan (2003)


<b>Hướng dẫn du lịch Cà Ná</b>



Cà Ná là một bãi biển đẹp, nổi tiếng ở Ninh Thuận. Nằm trên quốc lộ 1A, cách trung tâm


thị xã Phan Rang 30km về phía nam, phía tây quốc lộ là dãy Trường Sơn nhô ra gần sát


bờ biển. Bãi dài trên 3km, cong cong hình lưỡi liềm, được chia ra thành nhiều ô.



Bãi biển Cà Ná


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>





Bãi biển Cà Ná quanh năm trong suốt, đến đây du khách sẽ được đắm mình trong dòng nước
trong xanh với những độ mặn cao hơn những vùng khác từ 3-4 độ. Bên cạnh bãi, là núi Điện Bà
cao ngất. Do có dãy núi Trường Sơn sát bên nhiều mỏm đá nhô ra sát mép biển, vì vậy ngồi
tắm biển du khách cịn có thể được leo núi, chụp những bức ảnh lưu niệm lại nơi đây. Ẩn sâu
bên trong núi là những thảm rừng nhiệt đới nơi có nhiều mng thú sinh sống. Ở ngay lưng
chừng núi có một ngơi chùa nhỏ, leo lên núi thì bạn hãy vào đây viếng thăm chùa. Đứng ở chỗ
này, du khách sẽ ngắm được toàn cảnh non nước Cà Ná tuyệt đẹp.


Bãi biển Cà Ná trong xanh


Trên bãi Cà Ná này, cịn có những ghềnh đá hoa cương càng làm cho Cà Ná càng thêm quyến
rũ. Và cũng chính những hang đá này tạo nên nhiều hang động đẹp như Hang Ông Phật, hang


Giếng Đục,…du khách có thể phiêu lưu vào những hang này để khám phá ra nhiều điều kỳ bí
cịn ẩn chứa bên trong hang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

ngứ xung quanh đảo, chèo thuyền,…Ngày nay, Hòn Lao đã trở nơi dã ngoại lý tưởng, thu hút
nhiều du khách đến tham quan, cắm trại vào những ngày hè oi ả. Ở Hịn Lao lặn biển thì tuyệt
vời bởi ở độ sâu không sâu lắm khoảng từ 3-5m là bạn ngắm được san hô và những bãi đá

đẹp.



Cà Ná về đêm thật là yên tỉnh, thơ mộng. Nhất là vào những đêm trăng, ánh trăng rọi


khắp mặt biển lóng lánh, giữa đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào rất lãng mạng.



Biển Cà Ná lúc hồng hơn


Ngồi ra, du khách có thể tham quan những ruộng muối rộng đến hàng chục hecta. Thăm các
cơng trình văn hóa đặc sắc, các làng nghề truyền thống dân tộc Chăm ở huyện Ninh Phước.
Nếu như ra Cà Ná vào những ngày đầu xuân, du khách sẽ thấy được sắc vàng rực rỡ của hoa
mai trên những sườn núi.


Ngoài thú tham quan, leo núi, tắm biển,… đến đây du khách tha hồ thưởng thức những món ăn
đặc sản được chế biến từ những hải sản tươi sống trên biển. Đặt biệt là món thịt giơng nổi tiếng
ở xứ Phan Rang.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×