Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ CÙNG VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.92 KB, 81 trang )

MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ CÙNG VAI TRÒ CỦA
ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. Tổng quan về đầu tư
1. Khái niệm:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực
mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà
xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về
tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy
móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao
động, trình độ quản lý… ) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng
suất cao hơn trong nền sản xuất XH.
Có hai hình thức đầu tư mà ta xét:
+ Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ,
buôn bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành
lập một pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài,
chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản
phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản
lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước
nhận đầu tư.
+ Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các
giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn
đến việc thành lập pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên có thể
thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan
đến nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều
hành vĩ mô, v.v...), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro
khó lường trước. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư góp phần giải
quyết sự khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách


bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh
hưởng tới nền kinh tế
2. Các loại hình đầu tư
2.1. Đầu tư phát triển
* Khái niệm
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dung vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…), gia
tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp,
nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực
đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiêt bị, tài nguyên.
Như vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động
đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công
lao động XH, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu
tư thao lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư
chia thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi
lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành:
loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại
cấm đầu tư.
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kĩ
thuật…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, bản quyền…). Các kết quả đạt
được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của XH. Hiệu quả
của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế XH thu
được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát
triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và XH, đảm bảo kết hợp
hài hoà giữa các loại lợi ích phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư,

vai trò quản lí, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lí Nhà nước các cấp. Thực
tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản
lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá
đói giảm nghèo… Nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống
và vì mục tiêu phát triển, do đó cũng được xem là đầu tư phát triển.
* Mục đích
Đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống
của các thành viên trong XH. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí,
tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
Hoạt động của đầu tư phát triển là một quá trình diễn ra trong thời kì dài
và tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa
thời gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng
kết quả thường được thu trong tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần được
quán triệt khi đánh giá kết quả ,chi phí và hiệu quả đầu tư phát triển.
* Đặc điểm của đầu tư phát triển:
- Quy mô tiền vốn vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khô đọng lâu trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư. Lao động cần sử dụng cho cac dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự
án trọng điểm quốc gia.
- Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự
án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát
triển có thời gian kéo dài hàng chục năm.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các
kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn
sử dụng và đào thải công trình.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay nơi no được tạo dựng nên, do đó, quá trình
thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng

lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, XH vùng. Không thể dễ dàng di chuyển
các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lí hoạt
động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung
sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng đắn.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu
tư kéo dài, thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi
ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao.
* Nội dung của đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tuỳ theo cách tiếp
cận.
Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, đầu tư phát triển bao gồm các nội
dung sau: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật
chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục y tế và dịch vụ XH
khác, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và những nội dung phát triển khác.
Cách tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và
hiệu quả hoạt động cho từng ngành lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản
vật chất (tài sản thực) và đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư các tài sản vật
chất gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng
tồn trữ. Đầu tư tài sản vô hình gồm các nội dung sau: đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học,
kĩ thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng cáo.
2.2. Đầu tư tài chính
- Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị
truờng vốn để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính
phủ) hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty phát hành (mua cổ phiếu…). Góp vốn (mua cổ phần) thành lập doanh

nghiệp lần đầu, mua lại cổ phần hoặc sáp nhập doanh nghiệp. Đầu tư tài chính
thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như các
ngân hàng, các quĩ đầu tư, công ty chứng khoán.
- Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng sản phẩm
thực (tài sản vật chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong
lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Với sự
hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có
thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển.
2.3 Đầu tư thương mại
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do
giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu
tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa
người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên
đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do
đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân
sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và
nền sản xuất xã hội nói chung.
3. Các lí thuyết kinh tế về đầu tư
3.1.Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho
thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị .
Công thức tính:
k = ∆Y/ ∆I (1)
Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng
∆I : Mức gia tăng đầu tư
k : Số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta được

∆Y = k * ∆I (2)
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên
số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể
biến đổi công thức (2) thành:

k =
I
Y


=
s
Y


=
CY
Y
∆−∆

=
Y
C


−1
1
=
MPC−1
1

=
MPS
1
(3)

Trong đó:

MPC =
Y
C


Khuynh hướng tiêu dùng biên

MPS =
Y
s


Khuynh hướng tiết kiệm biên
Vì MPS < 1 nên k >1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng
càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc,
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này
làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.
3.2. Gia tốc đầu tư
Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư gia tăng sản
lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như
vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tể học

trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung,
nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có
một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có
thể được biểu diễn như sau :
x =
Y
K
(4)
Trong đó:
K : Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu
Y : Sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x : Hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức (4) suy ra :
K = x * Y (5)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến
nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng
hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu
tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (5), có thể kết luận: sản lượng phải tăng liên tục mới là
cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước.
* Ưu điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư :
- Lí thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.
Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch
khá chính xác.
- Lí thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi
kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn
đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
*Nhược điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Lí thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tưlà cố định.thực

tế đại lượng này (x) luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác
nhau.
- Thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng.
Vì, từ công thức (5) có thể viết:
+ Tại thời điểm t:
tt
YxK
∗=
(6)
+ Tại thời điểm (t-1):
11
−−
∗=
tt
YxK
(7)
+ Lấy (6) trừ (7) ta được:

)(
111 −−−
−∗=∗−∗=−
tttttt
YYxYxYxKK
(8)
Trong đó:

1−

tt

KK
: Đầu tư ròng và bằng
)( DI
t

là khấu hao
Do đó:

YxYYxKKDI
ttttt
∆∗=−∗=−=−
−−
)(
11
(9)

Và đầu tư ròng:
YxI
∆=∆
*
(10)
Như vậy, theo lí thuyết này, đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng
đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng
giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không
đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0. (Khi
0
=∆
y
thì


I =0)
- Theo lí thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do
việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do
cầu vượt quá cung… Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tuc được hoàn thiện qua
thời gian.theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được
xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là, qui
mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi:
t
K

1

t
K
là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1)
*t
K
là vốn đầu tư mong muốn

λ
là một hằng số ( 0<
λ
<1 )
Thì:
)(*
11 −−
−=−
tttt

KKKK
λ
Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần
của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện
thời kì t - 1. Nếu
1
=
λ
thì
*tt
KK =
Và lí thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng
đầu tư.
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thi đầu tư thuần:

1−
−=−=∆
tttt
KKDII
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì:
=−
−1tt
KK
)(*
1* −

tt
KK
λ
Và do đó:

)(*
1* −
−=∆
tt
KKI
λ

Để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định:
t
D
=
1
*
−t
K
δ

δ
là hệ số khấu hao và 0
1
<<
δ
.
Do đó:

−=−
ttt
IDI
)(**
1*1 −−

−=
ttt
KKK
λδ
hoặc
=
t
I
)*)(*
11* −−
+−
ttt
KKK
δλ
(11)
t
I
chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn
thực hiện.
Lí thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại
giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng
bổ sung lao động,nguyên vật liệu sản xuất… dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải
thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng,dẫn đến gia tăng tiêu dung (do thu
nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia
tăng đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn
đến gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu
tư. Quá trình này diễn ra liên tuc, dây chuyền.
3.3. Quỹ nội bộ của đầu tư
Theo lí thuyết này,đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ

được lựa chọn. Vì lợi nhuân cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu
tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ
lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái
phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn
vốn nội bộ của doanh nghệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là
nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền
kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và
lâm vào tình trạng phá sản. Do đó việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ
khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái
phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho
đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ
ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ nôi bộ của đầu tư, các doanh nghiệp
thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự
gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lí thuyết gia tốc đầu tư và lí thuyết nàydẫn đến việc
thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc
đầu tư, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó
sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh
nghiệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại, theo lí thuyết quỹ nội bộ
của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ
đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận có nghĩa là tăng quỹ nội bộ.
Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn,
còn chính sách tài khóa mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư
theo lí thuyết này.
3.4.Lí thuyết tân cổ điển
Theo lí thuyết này thì đầu tư bằng tiết kiệm (ở mức sản lượng tiềm năng).
Còn: tiết kiệm S = s*y trong đó 0
1
<<

s
.
s: Mức tiết kiệm từ 1 đơn vị sản lượng(thu nhập) và tỷ lệ tăng trưởng của
lao động bằng với tỷ lệ tăng dân số và kí hiệu là n.
Theo hàm sản xuất,các yếu tố của sản xuất là vốn và lao động có thể thay
thế cho nhau trong tương quan sau đây:

*Ay
=

)(
π
E
*
)(
α
K
* N
)1(
α

(12)
Trong đó:
y : Sản lượng

)(
α
K
: Vốn đầu tư
N

)1(
α

: Lao động
A*
)(
π
E
biểu thị ảnh hưởng của yếu tố công nghệ.

α

)1(
α

là hệ số co giãn thành phần của sản xuất với các yếu
tố vốn và lao động (thí dụ nếu
α
=0.25 thì 1% tăng lên của vốn sẽ làm cho sản
lượng tăng lên 25%). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì
α

)1(
α

biểu
thị phần thu nhập quốc dân từ vốn và lao động.
Từ hàm sản xuất Cobb Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng như sau:
=

g

r
+

nh *)1(*
αα
−+
(13)
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy:tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận
với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế ở “thời đại hoàng kim”có sự cân bằng trong tăng
trưởng của các yếu tố sản lượng,vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là
I


KI
∆=∆
YsSK *==∆
suy ra
YsK *=∆
Chia cả 2 vế cho K, ta được:


K

Ys
K
K *
=

Hoặc: h = s *
K
Y
Khi h không đổi, s không đổi thì
K
Y
cũng không đổi và Y phải tăng
trưởng cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g =
ngr *)1(*
αα
−++

Ở đây g là tỷ lệ tăng trưởng ở “thời đại hoàng kim”.
Suy ra:
g -
nrg *)1(*
αα
−+=
(1-
−+= 1(*) rg
α
α
)*n
Hay g =

n
r
+

α
1
(14)
Như vậy, trong “thời đại hoàng kim”, tỷ lệ tăng trưởng g phụ thuộc vào tỷ
lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động. Điều này cho thấy,không thể có thu
nhập trên đầu người tăng nếu không có sự tiến bộ của công nghệ.
3.5. Mô hình Harrod - Domar
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t
g =
Yt
Y∆
: Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Y∆
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
s =
Yt
S
: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng

Từ công thức: ICOR =
Y
K


Nếu
IK
=∆
, ta có : ICOR =
Y
I

Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có:
ICOR =
Y
Ys
Y
K

=


*
Từ đây suy ra:
R
*
ICO
Ys
Y =∆
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Y
ICO
Ys
Y
Y
g :
R
*
=

=
Cuối cùng ta có:
RICO
s
g
=
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để
đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn
vốn của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (

K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực
tiếp gia tăng

Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến,nhằm
xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao
nhiêu, nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu
đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn
đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng
là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường

sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm:
1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng thể hiện ở quy mô
và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ
tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm giữa các thời kì. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh
sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế được tính bằng % thay đổi của mức sản
lượng quốc dân.
g
t
= ( Y
t
– Y
(t+1
)/Y
(t-1)
*100%
Trong đó: g
t
: Tốc độ tăng trưởng của thời kì t
Y : GDP thực tế của thời kì t
Thước đo đó có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm.
Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế theo
mức sản lượng bình quân đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hoá và
dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số.

g
t
(PC) = ( y
t
- y
(t-1)
)/y
(t-1)
*100%
Trong đó: g
t
(PC): Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người
của thời kì t
y : GDP thực tế bình quân đầu người
Khi các nhà kinh tế nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, họ quan tâm đến tăng
trưởng của sản lượng thực tế qua một thời kì dài để có thể xác định được các
yếu tố làm tăng GDP thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn.
Các nguồn lực của tăng truởng kinh tế: Yếu tố hàng đầu quyết định tăng
trưởng là năng suất. Nhưng các yếu tố quyết định năng suất và do đó tăng
truởng kinh tế là nguồn nhân lực, tích luỹ tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri
thức công nghệ. Các nhân tố đó có thể khác nhiều giữa các nước và một số nước
có thể kết hợp chúng hiệu quả hơn các nước khác.
Các chính sách của chính phủ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
- Chính sách khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước.
- Chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài.
- Chính sách về vốn nhân lực.
- Xác định quyền sở hữu tài sản và sự ổn định chính trị.
- Chính sách mở cửa nền kinh tế.
- Chính sách kiểm soát tăng dân số.
- Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới.

Tăng trưởng bền vững: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự
tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu
hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế,
xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất
với quốc gia đó.
1.2 Khái niệm phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời
gian, khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu
là quá trình biến đổi cả về lượng và chất,nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn
thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát
triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết
định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
- Sự tăng lên của GDP, GNP hoặc GDP, GNP tính theo đầu người. Có nghĩa
là sự tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số.
- Sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế: tỷ trọng của các ngành
dịch vụ và công nghiệp trong GDP tăng lên còn tỷ trọng của nông nghiệp giảm
xuống. Nhưng giá trị tuyệt đối của các ngành tăng lên.
- Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Chất lượng cuộc
sống của đại bộ phận dân cư phải được cải thiện chính vì vậy phải phối hợp có
hiệu quả tăng trưởng kinh tế, ổn định lạm phát.
1.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển
Nói đến tăng trưởng kinh tế người ta thường liên tưởng đến việc gia tăng
về số lượng các chỉ tiêu kinh tế. Chẳng hạn như các chỉ tiêu về GDP, GNP, cán
cân thương mại, sản lượng sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu,...
Còn đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế, ngoài các chỉ tiêu về số lượng
người ta còn quan tâm đến các chỉ tiêu về chất lượng như: công bằng xã hội,
khoảng cách giàu nghèo, trình độ dân trí, dịch vụ công ích,...
Tăng trưởng kinh tế chưa chắc đã là phát triển kinh tế. Ngược lại phát
triển kinh tế là đã bao hàm cả tăng trưởng kinh tế Tăng cường kinh tế là “điều

kiện cần” để thực hiện tiến độ xã hội.
Mới chỉ là “điều kiện cần” thôi, vì ngoài yêu cầu “ấm no’’ để đạt được
“hạnh phúc” cần có sự công bằng, văn minh, tiến bộ XH và các giá trị tinh thần
khác, còn đòi hỏi sự nổ lực nhiều mặt khác từ phía nhà nước.
Trên thực tế nhiều nước có tăng trưởng kinh tế không thấp, nhưng các
chỉ số về phát triển xã hội không cao hơn hoặc bằng các nước có GDP thấp hơn. Các
nước XHCN trong thời kỳ thịnh vượng là một ví dụ về vấn đề này. Bên cạnh đó,
giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội trong những giai đoạn phát triển khác
nhau của một quốc gia cũng không hẳn luôn là tỉ lệ thuận.
Có tăng trưởng kinh tế, của cải vật chất dồi dào mới có điều kiện nâng cao
chất lượng cuộc sống, giải phóng con người và thực hiện sự bình đẳng XH.
-Mặt khác tiến bộ XH là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế , vì mọi nền kinh tế đều có môi trường tự nhiên và môi
trường XH để tăng trưởng. Môi trường XH vừa là mục tiêu vừa là động lực cho
sự tăng trưởng.
-Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng cho việc ổn định
chính trị và có điều kiện cũng cố an ninh quốc phòng. Và đến lượt mình, chính
trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững là nền tảng vững chắc cho tăng
trưởng kinh tế
Hai mối quan hệ cơ bản trên luôn phải được xem xét cả hai chiều thuận
nghịch. Đây là mối quan hệ nhân quả, song vấn đề đặt ra ở đây là giải bài toán
“con gà và quả trứng”. Đòi hỏi trong từng điều kiện cụ thể phải tìm được đáp án
nào để được hiệu quả cao nhất.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
2.1. Một số thước đo tăng trưởng
2.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên pham vi lãnh thổ của một quốc
gia tạo nên trong một thời kì nhất định.
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản là từ sản xuất, tiêu dùng, phân

phối. Theo cách tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ
nền kinh tế. Nó được đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị thường
trú trong nền kinh tế.
Như vậy: VA
i
= GO
i
- IC
i
Trong đó: GO
i
là tổng giá trị sản xuất, IC
i
là chi phí trung gian của ngành
i.
Tiếp cận từ chi tiêu, GDP là tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng của các hộ
gia đình (C), chi tiêu của chính phủ (G), đầu tư tích luỹ tài sản (I) và chi tiêu
qua thương mại quốc tế, tức là giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim ngạch nhập
khẩu (X-M).
GDP = C + G + I + (X – M)
Nếu tiếp cận từ thu nhập, GDP đựơc xác định trên cơ sở các khoản hình
thành thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu, bao gồm: Thu nhập của người có
sức lao động dưới hình thức tiền công và tiền lương (W); thu nhập của người có
đất cho thuê(R); thu nhập của người có tiền cho vay (In); thu nhập của người có
vốn (Pr); khấu hao vồn cố định (Dp) và cuối cùng là thuế kinh doanh (Ti).
GDP = W + R + In + Pr + Dp + Ti
2.1.2. Tổng thu nhập quốc dân ( GNI )
Tổng thu nhập quốc dân(GNI): Đây là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA
năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội
dung thì GNI và GNP là như nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo

cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất
như GDP. Hiểu theo khía cạnh trên, GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất
và dịch vụ cuối cùng do công nhân của một nước tạo nên trong một khoảng thời
gian nhất định. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân
phối lại thu nhập lần đầu có tính đến cả các khoản từ nước ngoài về và chuyển
ra nước ngoài. Như vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập
và được điều chỉnh theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài = Thu nhập lợi tức nhân tố
với nước ngoài - Chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài.
Sự khác nhau về lượng giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập
nhân tố với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thì GNI thường nhỏ hơn
GDP vì thông thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm.
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP và GNI còn được sử dụng
để đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia
(GDP/người; GNI/người). Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến
sự thay đổ dân số. Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân dầu người là
những chỉ báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư
nói chung. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là dấu
hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và nó còn được sử dụng trong việc so
sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia với nhau.
Theo dõi chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người có thể xác định khoảng
thời gian cần thiết nâng cao thu nhập lên gấp 2 lần dựa vào tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế theo dự báo. Một phương pháp đơn giản và khá chính xác tiếp cận đến
con số này gọi là “luật 70” tức là thời gian để thu nhập dân cư tăng lên gấp 2 lần
được xác định xấp xỉ bằng 70 chia cho tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân
đầu người hàng năm thao dự báo. Ví dụ như nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người một nước đặt ra là 5% 1năm thì sẽ đạt được mức tăng gấp
2 lần sau khoảng 14 năm (70:5). Dự báo mức tăng thu nhập bình quân trên đầu

người có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu xu hướng chuyển biến thu nhập
của các quốc gia từ nhóm này sang nhóm khac so với mức bình quân toàn thế
giới.
2.1.4. Tổng giá trị sản xuất ( GO )
Tổng giá trị sản xuất (GO) là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định
(thường là một năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai
cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các
ngành trong toàn bộ nền kinh tế Quốc Dân. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và
dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và
dịch vụ (VA).
Công thức tính:
GO = Chi phí trung gian + giá trị gia tăng
= IC + VA
2.1.5. Thu nhập quốc dân( NI )
Thu nhập quốc dân (NI): Là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.NI chính là tổng thu nhập
quốc dân (GNI) sau khi đã trừ đi khấu hao vốn cố định của nền kinh tế (Dp).
NI = GNI - Dp
2.1.6. Thu nhập quốc dân sử dụng ( NDI )
Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): Là phần thu nhập của cả quốc gia
dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích luỹ thuần trong một thời kì nhất định. Chỉ
tiêu này được hình thành sau khi thực hiện phân phối thu nhập lần thứ hai, thực
chất nó là thu nhập quốc dân (NI) sau khi đã điều chỉnh các khoản thu, chi về
chuyển nhượng hiện hành giữa các đợn vị thường trú và không thường trú. Tuy
vậy, xét trên toàn bộ nền kịnh tế các chuyển nhượng hiện hành giữa các đơn vị
thường trú sẽ triệt tiêu nhau, vì nếu có một đơn vị chi thì sẽ có một đơn vị khác
thu chuyển nhượng. Vì vậy, NDI và NI sau khi điều chỉnh các khoản chuyển
nhượng hiện hành với nước ngoài.
NDI = NI + Chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài

Chênh lệch chuyển nhượng với nước ngoài = Thu chuyển nhượng hiện
hành với nước ngoài - Chi chuyển hiện hành ra nước ngoài
2.2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
* Về cơ cấu ngành kinh tế:
Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành
kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong
GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2%
năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn
20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%;
năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008
ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều,
năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%;
năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta
theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp
ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự
chuyển dịch ngày càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm
2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm
công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý
giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm
9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
* Trong cơ cấu các thành phần kinh tế:
Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt
động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng

đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có
hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
*Về cơ cấu vùng kinh tế:
Trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình
thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông
Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng
Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế
trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây
dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các
vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng
vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo
nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất
hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
*Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội
nhập vào kinh tế toàn cầu:
Thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ
số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm
2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ
USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005,
bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000.
Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so

×