Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.95 KB, 19 trang )

Cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.Một số khái niệm, sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm
xe cơ giới
1.1.1 Một số khái niệm
Khái niệm Bảo hiểm:
" Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân
hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm
nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm
cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một
tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm
và bù trừ chúng theo quy luật thống kê ".
Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao
quát được phạm vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm.
Khái niệm Kinh doanh Bảo hiểm:
" Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH)
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của bên mua bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra ".(theo luật kinh doanh bảo hiểm 2000)
Khái niệm Xe cơ giới:
Theo khoản 18 và khoản 20 điều 3 luật giao thông đường bộ năm 2008
quy định như sau :
- Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới)
gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy
kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và
các loại xe tương tự .
- Các loại xe tương tự như xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe
máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ.
Khái niệm bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, có đối tượng


bảo hiểm là bản thân chiếc xe tham gia bảo hiểm và nó được thực hiện dưới
hình thức bảo hiểm tự nguyện.
1.1.2 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới
1.1.2.1 Đặc điểm, tình hình xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay
Khi khoa học ngày càng phát triển thì các hình thức vận tải
cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Trong số
các loại hình giao thông vận tải bằng đường bộ thì xe cơ giới
vẫn giữ vị trí quan trọng và được coi là huyết mạch của nền
kinh tế mỗi quốc gia, đảm bảo cho hoạt động vận chuyển hàng hóa, vận tải
hành khách được thông suốt. Cùng với cơ sở hạ tầng giao thông đang được nâng
cấp và mở rộng, phương tiện giao thông hiện đại ra đời ngày càng nhiều tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao lưu kinh tế thương mại các vùng, miền
trong nước cũng như với nước ngoài. Xe cơ giới hiện nay đã trở thành phương
tiện giao thông phổ biến nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và có vị trí
quan trọng trong ngành giao thông vận tải mỗi quốc gia dựa trên một số ưu
điểm như sau :
- Xe cơ giới có tính cơ động, linh hoạt cao với nhiều loại xe khác nhau: xe
tải, xe contenner, xe khách, xe con, xe máy…hoạt động trong phạm vi rộng kể
cả địa hình phức tạp, có thể vận chuyển người và hàng hoá tới những nơi mà
các loại hình vận tải khác không thể đến được.
- Tốc độ vận chuyển của loại hình vận tải này nhanh với chi phí vừa phải.
Tiền vốn đầu tư mua sắm phương tiện, xây dựng bến bãi ít tốn kiếm hơn các
hình thức khác, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước.
- Việc sử dụng các phương tiện xe cơ giới cũng đơn giản và thuận tiện hơn
các loại phương tiện khác.
1.1.2.2 Tình hình tai nạn giao thông ở Việt Nam hiện nay.
Tai nạn giao thông nói chung và tai nạn giao thông đường bộ nói riêng
đang là thách thức đối với các quốc gia trên Thế giới. Theo tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) TNGTĐB là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu
cho con người, trung bình mỗi năm có trên dưới 10 triệu người tử vong vì

TBGTĐB và hàng chục triệu người khác bị thương tích. Cùng với đó là những
thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế
cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí
khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao
động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt
khác TNGT gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài
đối với mọi người, nó để lại nhũng di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho
người bị tai nạn, người thân của người đó và nếu như trong một địa phương,
một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở
đó.
Bảng 1: Tình hình Tai nạn giao thông đường bộ ở Việt nam
( 2005 – 2010 )
Năm

́
vu
̣
tai nạn
(vụ)

́
ngươ
̀
i chê
́
t
(người)

́
ngươ

̀
i bi
̣
thương
(người)

́
vu
̣
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệtđối

́
ngươ
̀
i
chê
́
t
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệt đối

́
ngươ
̀
i

bi
̣
thương
Lượng
tăng
(giảm)
tuyệt đối
2005 14.141 - 11.184 - 11.760 -
2006 14.161 20 12.373 1189 11.097 -663
2007 14.652 488 13.106 733 10.512 -585
2008 12.882 -1770 11.594 -1512 8.066 -2446
2009 12.492 -390 11.516 -78 7.914 -152
2010 14.442 1950 11.449 -67 10.633 2719
(Nguồn : báo cáo của uỷ ban an toàn giao thông quốc gia)
Qua số liệu thống kê từ năm 2005 đến 2010 ta có thể thấy tình hình tai nạn
giao diễn ra khá phức tạp từ năm 2005 đến 2007 số vụ tai nạn gia tăng kéo theo
số vụ tử vong cũng như bị thương tăng theo.Đến năm 2008-2009 có chiều
hướng giảm số vụ tai nạn song đến năm 2010 số vụ tai nạn lai gia tăng đột biến
tăng 1950 vụ so với năm 2009 tăng số vụ người bị thương lên 2719 vụ so với
năm 2009.Trung bình mỗi năm số vụ tai nạn ước tính gần 14000 vụ, số người bị
chết khoảng 12000 người. Đây là con số đáng báo động là bài toán nan giải, là
vấn nạn đối với toàn xã hội.
1.1.3.Vai trò của Bảo hiểm xe cơ giới.
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi
rủi ro xảy ra cho người tham gia bảo hiểm
Hoạt động của xe cơ giới là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều nguy hiểm, tai nạn
rất dễ xảy ra. Khi rủi ro hay tai nạn bất ngờ xảy ra đều gây ra những thiệt hại về
kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập cũng như đời sống, sản xuất kinh doanh của
các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, thậm chí gây thiệt hại đến cả tính
mạng. Hoạt động bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro, ổn định đời

sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó họ khôi phục và phát triển sản xuất kinh
doanh và các hoạt động khác một cách bình thường.
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho
cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho
mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng không chỉ
dừng lại ở việc bồi thường tổn thất, khắc phục hậu quả tai nạn mà còn thể hiện
trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn giao thông. Khi đã
tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia
thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra.
- Bảo hiểm xe cơ giới góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan công ty
bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người
tham gia để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách
Nhà nước không phải chi trả để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp
khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính thảm họa, mang tính xã
hội rộng lớn.
- Góp phần huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo
an toàn ( cho cá nhân, doanh nghiệp ) mà còn đáp ứng về vốn không ngừng tăng
lên của quá trình tái sản xuất mở rộng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Với
việc thu phí theo “nguyên tắc ứng trước”, các công ty bảo hiểm chiếm giữ một
quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện lờ cam kết của họ với khách hàng nhưng tạm thời
nhàn rỗi.Do vậy các công ty bảo hiểm đã trở thành những nhà đầu tư lớn, quan
trọng cho các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Bảo hiểm còn đóng vai trò làm trung gian tài chính, nắm giữ phần quan
trọng trong các công ty công nghiệp và thương mại lớn.Với vai trò này bảo
hiểm phát huy tác dụng hết sức đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đó là: bảo
hiểm là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với nười thứ ba trước hết

nhằm mục đích nhân đạo – bảo vệ người dân: nếu không may xảy ra tai nạn
giao thông họ được bồi thường thiệt hại. Lợi ích đối với chủ xe: nếu không may
xảy ra tai nạn , doanh nghiệp bảo hiểm thay thế họ bồi thường cho người bị nạn
khi chủ xe yêu cầu hoặc nếu họ đã bồi thường cho người bị nạn thì doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn trả cho ho số tiền họ đã bồi thường.
1.2. Nội dung cơ bản về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm.
Là loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có đối tượng
bảo hiểm là chính những chiếc xe cơ giới còn giá trị, tham gia lưu thông trên
đường bộ, thường được chia làm 4 loại chính gồm: các loại môtô; xe gắn máy;
xe ôtô và xe chuyên dụng khác. Nhìn chung, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ
giới mang những tiêu thức như: xe cơ giới phải được gắn động cơ, di chuyển
được trên đất liền không cần đến đường dẫn và phải có tối thiểu một chỗ ngồi
cho người điều khiển. Tuy nhiên, xe cơ giới để có thể coi là một đối tượng bảo
hiểm thì phải đáp ứng những điều kiện sau:
- Phải có giá trị sử dụng,
- Xác định được giá trị bằng tiền tệ,
- Đảm bảo an toàn về mặt kỹ thuật và môi trường, phải được lưu hành hợp
pháp (tức là được cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký xe, giấy phép, chứng
nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe).
Về mặt kỹ thuật, xe cơ giới được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau
tùy vào từng loại xe nhưng về cơ bản đuợc chia thành các bộ phận sau: khối
động cơ và hệ thống nhiên liệu, điện, hệ thống truyền lực; hệ thống lái; hệ thống
phanh và hộp số và bộ phận thân vỏ. Riêng trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới,
người ta phân xe ô tô thành 7 tổng thành chủ yếu:
- Tổng thành động cơ
- Tổng thành hộp số
- Tổng thành thân vỏ
- Tổng thành hệ thống lái
- Tổng thành trục trước

- Tổng thành cầu sau, cầu chủ động
- Tổng thành lốp
Trên cơ sở phân chia đó, nhà bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe hoặc
bảo hiểm cho từng bộ phận xe. Trong đó, bảo hiểm toàn bộ xe có đối tượng
được bảo hiểm là toàn bộ chiếc xe cơ giới với đầy đủ các bộ phận tổng thành
của xe; còn bảo hiểm bộ phận xe có đối tượng được bảo hiểm chỉ là một hay
một số các tổng thành của xe. Trên thực tế, trong số các tổng thành của xe thì
tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng giá trị lớn và thường hay chịu tổn thất nhiều
nhất khi tai nạn xảy ra. Do đó, hiện nay các công ty bảo hiểm thường chỉ bảo
hiểm cho toàn bộ xe hoặc bảo hiểm cho bộ phận là tổng thành thân vỏ. Đối với
các loại xe mô tô, chỉ có hình thức bảo hiểm toàn bộ vật chất xe dành cho người
tham gia bảo hiểm.
1.2.2.Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm thông thường:
+ Đâm va, lật đổ;
+ Hỏa hoạn, cháy nổ;
+ Những tai nạn bất khả kháng do thiên nhiên: bão, lũ lụt, sụt lở, sét đánh,
động đất, mưa gió.
+ Mất toàn bộ xe trong trường hợp: xe bị trộm cắp, bị cướp.
+ Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc bồi thường tổn thất về vật chất cho xe cơ giới được bảo hiểm
do những rủi ro trên gây ra, công ty bảo hiểm còn chịu trách nhiệm thanh toán
cho chủ xe tham gia bảo hiểm những phí tổn hợp lý và cần thiết phát sinh nhằm:
ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm đối với xe bị tai nạn; chi phí bảo vệ
và đưa xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất, giám định thiệt hại nếu tổn thất
phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm (bao
gồm cả những phí tổn) đối với một sự kiện bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo
hiểm (hay mức trách nhiệm bảo hiểm) ghi trên đơn hoặc giấy chứng nhận bảo
hiểm.

Rủi ro loại trừ ( rủi ro không được bảo hiểm ):
- Hư hỏng do khuyết tật, mất giá, giảm chất lượng hoặc hư hỏng thêm do
sửa chữa; hao mòn và hư hỏng tự nhiên phát sinh từ việc hoạt động bình thường
của xe cơ giới thường được tính dưới hình thức khấu hao theo thời gian.
- Hư hỏng về điện hoặc các thiết bị, bộ phận máy móc mà không phải do
những rủi ro được bảo hiểm gây ra. Cụ thể, đây là những hư hỏng mang tính
chất ẩn tỳ của bộ phận thiết bị từ đó gây hư hỏng trực tiếp tới toàn bộ hệ thống
máy móc của xe thì không được bảo hiểm bồi thường, nhưng do những hư hỏng
đó mà xe bị tai nạn gây hư hỏng đến các bộ phận khác của xe thì vẫn thuộc
trách nhiệm bảo hiểm. Riêng tổn thất về săm lốp, đề can xe chỉ được nhà bảo
hiểm bồi thường trong trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng nguyên nhân và
đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng vụ tai nạn.
- Mất cắp bộ phận xe.
Để tránh nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo
đúng nguyên tắc trong bảo hiểm, những thiệt hại, tổn thất xảy ro do một số
nguyên nhân sau cũng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm:
- Hành động cố ý gây thiệt hại;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn để lưu hành theo
luật định;
- Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng các quy định về an toàn giao thông
như: lái xe không có giấy phép hoặc giấy phép lái xe không hợp lệ; lái xe bị ảnh
hưởng bởi rượu bia, các chất kích thích gây nghiện trong quá trình điều khiển
phương tiện; xe không có giấy phép lưu hành; xe chở các chất cháy nổ trái
phép; xe đi vào đường cấm, chở quá trọng tải, chạy thử, tập lái hay sử dụng để
đua xe, những thiệt hại do chiến tranh.
Cũng cần lưu ý trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu
cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn có hiệu lực đối với chủ xe mới.
Tuy nhiên nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì
công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới
nếu họ yêu cầu

1.2.3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
1.2.3.1 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Xe cơ giới là một loại tài sản được bảo hiểm nên giá trị bảo hiểm xác định
bởi giá trị thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm tham gia bảo hiểm hay ký
kết hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm được coi là cơ sở để xác định số tiền
bảo hiểm, làm căn cứ áp dụng các hình thức bảo hiểm theo mức giá trị bảo hiểm
khác nhau (như: bảo hiểm dưới giá trị, ngang giá trị, trên giá trị) và để chi trả
bồi thường thiệt hại thực tế cho chủ xe khi có sự kiện bảo hiểm. Trên thực tế,
giá trị của mỗi loại xe trên thị trường khác nhau và giá cả xe cũng luôn biến
động nên thông thường các công ty bảo hiểm dựa vào yếu tố: loại xe, tuổi của
xe, thời gian sử dụng xe,thể tích làm việc của xilanh… để xác định giá trị xe
tham gia bảo hiểm.
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm các công ty bảo hiểm thường
hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức độ khấu hao.Cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị mới – Khấu hao sử dụng (nếu có).
Để đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm cần phải kiểm tra xe trước khi nhận
bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của xe tham giá bảo hiểm.
Đối với những xe mới bắt đàu di vào hoạt động việc xác định giá trị ban
đầu của xe không quá khó, có thể căn cứ vào các giấy tờ hóa đơn mua bán xe,
hóa đơn thuế trước bạ để xác định giá trị xe.Đối với các loại xe đã qua sử dụng
việc đánh giá đòi hỏi nhiều công đoạn phức tạp để đánh giá về giá trị ban đầu và
tình trạng khấu hao cung như tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của
xe.Trên cơ sở đó công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo luận và đi đến kết luận về
giá trị bảo hiểm, đòng thời chủ xe có thể quyết định tham gia tham gia bảo hiểm
với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hay ngang giá trị thực tế của xe. Việc quyết định

×