Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO PHỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.11 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY
VÀ CÁC RỦI RO PHỤ
1.1 Bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ
1.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm
cháy và rủi ro phụ.
1.1.1.1 Trên thế giới
Tại những thành phố đông đúc của thế kỷ XVII ở châu Âu, hầu hết nhà
cửa đều dựng bằng gỗ, trong khi đó mọi người dùng lửa để sưởi ấm, chiếu
sáng và đun nấu. Do đó mà rủi ro nhà bị bắt lửa là rất dễ xảy ra. Để đề phòng
nguy cơ xảy ra rủi ro này thì vào ban đêm ở các thành phố thị trấn đều có đội
tuần tra để nhắc nhở các nhà về nguy cơ cháy đồng thời nhà nào cũng dự trữ
các xô chứa nước để kịp thời dập những đám cháy nhỏ. Còn khi có ngôi nhà
nào đó bị cháy rụi thì tất cả các hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để giúp xây
dựng lại ngôi nhà. Hoạt động này chỉ mang tính chất tương hỗ, giúp đỡ nhau
chứ không mang tính chất bảo hiểm.
Hiệp hội bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 mang tên Feuer
Casse, một thời gian ngắn sau đó đã xuất hiện thêm một vài công ty nữa nhưng
không để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17. Phải đến năm 1666, sau khi
chứng kiến đám cháy khủng khiếp ở thủ đô Luân Đôn kéo dài bảy ngày, tám
đêm (bắt đầu từ chủ nhật 2/9/1666 đến ngày 9/9/1666) thiêu hủy hoàn toàn
13.200 ngôi nhà, 137 văn phòng, 87 nhà thờ trong đó có cả nhà thờ Saint Paul
và trụ sở của Lloyd’s người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập
hệ thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại một cách
hiệu quả. Như vậy, thảm họa này đã kích thích sự ra đời của một nghiệp vụ bảo
hiểm mới – Bảo hiểm cháy.
Năm 1667 ở Anh, văn phòng bảo hiểm cháy đầu tiên được thành lập lấy
tên gọi là “The fire office” với tiền thân là những người lính cứu hỏa Luân Đôn.
Năm 1684, công ty bảo hiểm cháy đầu tiên (Công ty Friendly Society) ra đời,
hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ và hệ thống chi phí cố định, tức là người
được bảo hiểm phải chịu một phần tổn thất khi rủi ro xảy ra. Sau đó hàng loạt
các công ty bảo hiểm cháy khác ra đời ở Anh như: Amicable (1696), Hand in


hand (1696), Sun Fire Office (1710), Union (1714) và các công ty này vẫn hoạt
động cho đến ngày nay. Sau nước Anh, bảo hiểm cháy đã lan dần sang các nước
khác trên lục địa Châu Âu: ngay từ năm 1677, tại Hambourg (Đức) đã thành lập
quỹ hỏa hoạn đầu tiên của thành phố; năm 1684, công ty bảo hiểm đầu tiên ở
Pháp chính thức đi vào hoạt động.
Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm cháy và rủi ro phụ được triển khai ở hầu hết
các nước trên thế giới: Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là công ty
bảo hiểm tương hỗ do Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập
năm 1752, mang tên The Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm hỏa
hoạn cho nhà cửa. Công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên ở Mỹ mang tên là The
insurance company of North America được thành lập năm 1792. Tại Nhật, bảo
hiểm cháy đã phát triển mạnh mẽ và trở thành nghiệp vụ truyền thống với doanh
thu phí hàng năm rất cao, năm 1993 doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm cháy
đạt 1.017.008 triệu yên chiếm 15,5% tổng doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm
phi nhân thọ.
Hiện nay, hợp đồng bảo hiểm cháy ngoài các rủi ro chính như cháy, nổ, sét
đánh còn bao gồm các rủi ro phụ hay các rủi ro đặc biệt như: động đất, lũ lụt,
cháy ngầm dưới đất, hệ thống phòng cháy, chữa cháy bị rò rỉ nước, máy bay và
các phương tiện hàng không rơi vào làm tài sản bị cháy, nổ hay thiệt hại do bạo
loạn, đình công… từ đó hình thành nên nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro
phụ.
1.1.1.2 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam thì đây cũng là một nghiệp vụ được triển khai sớm vào cuối
những năm 1989 sau khi có quyết định 06/ TCQĐ ngày 17/1/1989 của Bộ
trưởng Bộ Tài Chính và Bảo Việt là doanh nghiệp đầu tiên triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm cháy. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp hơn với thực tế Bộ Tài
Chính đã ban hành thêm một số quyết định: quyết định số 142/TCQĐ về quy
tắc và biểu phí mới và quyết định số 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 ban hành biều
phí bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ với mức phí tối đa thay cho biểu phí cũ
theo quyết định số 142/TCQĐ và mới nhất là quyết định 28/2007/QĐ- BTC

ngày 24/04/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt buộc. Với việc ban
hành nghị định 130/2006/NĐ - CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế
độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã làm cho thị trường bảo hiểm cháy trở nên là
chiếc bánh hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm.
Tính đến năm 1990 thì nước ta đã có khoảng 16 doanh nghiệp triển khai
nghiệp vụ này với giá trị bảo hiểm lên tới 6200 tỷ đồng. Mặc dù đối tượng bảo
hiểm chủ yếu của doanh nghiệp là các kho xăng dầu, còn phần lớn các khách
sạn, chợ, nhà máy … có giá trị lớn vẫn chưa được bảo hiểm xong năm 1994 thì
loại hình này đã được triển khai ở hầu hết 53 tỉnh thành phố với tổng giá trị bảo
hiểm 27.000 tỷ đồng . Còn giai đoạn 1994-1995 thì có sự xuất hiện của một số
công ty bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo Minh, Pjico, Bảo Long… đã hâm nóng thị
trường bảo hiểm cháy. Từ đó cho đến nay thì chúng ta tiếp tục chứng kiến sự
phát triển đa dạng và sôi động của thị trường bảo hiểm cháy với sự xuất hiện
của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm như VASS, PTI, BIC, MIC, ABIC…Và từ
ngày 01/01/2008 cuộc cạnh trạnh trong thị trường bảo hiểm cháy càng diễn ra
khốc liệt hơn, khi Việt Nam sẽ thực hiện lộ trình cam kết WTO, các doanh
nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài sẽ được khai thác sản phẩm bảo hiểm trong
đó có bảo hiểm cháy nổ.
1.1.2 Vai trò của Bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ
Nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ ra đời có tác dụng rất lớn đối
với không chỉ các cá nhân, tổ chức mà còn cho toàn xã hội. Điều đó được thể
hiện :
+ Góp phần khắc phục tổn thất từ đó ổn định sản xuất và sinh hoạt của con
người.
Nếu xảy ra cháy lớn, khi chưa có nghiệp vụ này thì các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp phải đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí có
thể phá sản đặc biệt khi giá trị tài sản lớn. Nhưng khi tham gia bảo hiểm cháy và
các rủi ro phụ thì lúc đầu họ chỉ bỏ ra một khoản tiền không lớn để nhận được
sự cam kế bồi thường trong tương lai khi có rủi ro xảy ra từ phía nhà bảo hiểm.
Khi không may gặp rủi ro sẽ được nhanh chóng bồi thường để ổn định sản xuất

kinh doanh.
Có thể nói khi tham gia bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp đã tự trang bị cho mình tấm lá chắn kinh tế hữu hiệu từ đó
họ có thể yên tâm sản xuất mở rộng, góp phần chống thất nghiệp, mang lại cuộc
sống tốt đẹp cho con người, từ đó phát triển xã hội.
+ Bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ góp phần tích cực vào công tác đề
phòng hạn chế tổn thất.
Tham gia bảo hiểm cháy đồng thời thực hiện những biện pháp phòng cháy,
chữa cháy hữu hiệu nhất. Cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu gây
nên thiệt hại lớn, nhiều lúc còn mang tính thảm họa. Do đó các công ty phối hợp
với khách hàng thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất như: tập huấn
về phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ khách hàng thiết bị phòng cháy, trích một phần
phí để hạn chế tổn thất..
+ Góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về công tác phòng cháy và
tham gia bảo hiểm:
Cần thực hiện công tác thống kê vì để xác định chính xác tỷ lệ phí, tỷ lệ
tổn thất, tỷ lệ bồi thường. Thông qua thống kê bảo hiểm về các vụ cháy ở quá
khứ, cũng như xác xuất xảy ra vụ cháy để xác định được thông tin đảm bảo,
nâng cao nhận thức của người dân về rủi ro này. Công ty có thể tuyên truyền,
phổ biến kiến thức về phòng cháy chữa cháy và tác hại của rủi ro này từ đó nâng
cao nhận thức của người dân.
+ Mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và nhà
nước
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm : việc triển khai nghiệp vụ này làm cho
DNBH đa dạng hóa được sản phẩm, tăng doanh thu phí và lợi nhuận bằng cách
khi số phí này nhàn rỗi các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đem đi đầu tư sinh lời. Có
thể đầu tư vào các hạng mực như: bất động sản, chứng khoán, cho ngân hàng
vay lãi… đem lại lợi nhuận đầu tư lớn và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng
cường uy tín và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Từ đó có thể giúp
doanh nghiệp mở rộng được quy mô doanh nghiệp tạo lập thương hiệu và chiếm

lĩnh thị trường.
Nếu khi rủi ro xảy ra, khi tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này, người dân và
doanh nghiệp, các tổ chức sẽ nhanh chóng khắc phúc được hậu quả. Rủi ro xảy
ra có thể làm cho người dân mất đi chỗ ở, các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu
quả, thất nghiệp…ảnh hưởng đến cuộc sống của xã hội. Ngoài ra nhà nước còn
thu thêm được từ các doanh nghiệp 1 khoản thuế bổ sung vào ngân sách nhà
nước.
Hơn nữa, từ khi gia nhập WTO, cơ hội mở ra cho nước ta rất lớn, nền
kinh tế phát triển hơn trong quá trình hội nhập, thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài, khi tham gia bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ sẽ làm cho các nhà đầu tư
an tâm hơn để đầu tư vào nước ta. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3 Nội dung cơ bản của Bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ
1.1.3.1 Các khái niệm cơ bản
+ Cháy : là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng do nổ hoặc bất kỳ
nguyên nhân nào khác.
+ Nổ : là phản ứng hóa học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột
ngột với khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý, đến
các vật xung quanh.
+ Sét : là hiện tượng phóng điện từ các đám mây tích điện và mặt đất, tác
động vào đối tượng bảo hiểm.
+ Đơn vị rủi ro : Khi những tài sản ở trên các tòa nhà, kho tàng khác nhau
và mỗi tòa nhà, kho tàng cách nhau một khoảng trống lớn hơn khoảng cách tối
thiểu h có bức tường chống lửa ở giữa các tòa nhà, kho tàng được gọi là đơn vị
rủi ro hoặc rủi ro riêng biệt.
+ Cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ là các cơ sở được quy định tại phụ lục 1
Nghị định số 35/2003/NĐ – CP ngày 04/04/2003 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của luật phòng cháy và chữa cháy.
+ Mức khấu trừ là số tiền mà bên mua bảo hiểm phải tự chịu trong mỗi sự
kiện bảo hiểm.
1.1.3.2 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm

a. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm cháy và rủi ro phụ là: Tài
sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội.
Đối tượng này được phân thành các loại như sau:
- Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai).
- Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho.
- Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm và thành phẩm trên dây
chuyền sản xuất.
- Các loại tài sản khác: kho, bãi, chợ...
Việc phân loại này nhằm mục đích xác định phí bảo hiểm cho chính xác
và dễ dàng hơn; làm cho công tác đánh giá và quản lý rủi ro có lợi hơn; làm cho
công tác giám định và bồi thường chuẩn xác hơn, hạn chế tối đa sự khiếu nại
bồi thường không cần thiết.
b. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi BH là giới hạn các rủi ro được BH và giới hạn trách nhiệm của
các công ty BH. Trong BH cháy, nhà BH có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và
chi phí sau:
- Những thiệt hại do những rủi ro được BH gây ra cho TS .
- Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất TS được BH
trong và sau khi cháy.
- Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
* Rủi ro được bảo hiểm
Trong bảo hiểm cháy nổ rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
- Rủi ro chính : “Cháy” (rủi ro A)
Rủi ro này thực chất bao gồm: cháy, sét, nổ..
+ Cháy : cháy sẽ được bảo hiểm nếu có đủ 3 yếu tố: Cháy phải thực sự
phát lửa, lửa đó không phải là lửa chuyên dùng và lửa đó phải là ngẫu nhiên, bất
ngờ phát ra, chứ không phải do cố ý, có chủ định. Tuy nhiên, nếu cháy xảy ra do

bất cẩn của người được bảo hiểm thì vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Khi có đủ 3 yếu tố đó và có thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân
được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù đó là
do bị cháy hoặc là do nhiệt hoặc khói gây ra.
+ Sét : Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ
trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây cháy. Tức là nếu sét đánh mà không làm
huỷ hoại giá trị của tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Cần lưu ý rằng khi sét đánh phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện tử thì được
bồi thường, còn sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị
điện tử thì không được bồi thường.
+ Nổ : Nổ trong rủi ro nhóm A, phạm vi bảo hiểm gồm:
• Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
• Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà
chứ không phải phục vụ cho sản xuất trong các xưởng làm các công việc sử
dụng hơi đốt.
• Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm. Như
vậy ở đây chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây cháy:
 Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ mà không gây cháy thì không được bồi thường. trừ
trường hợp nổ nồi hơi, khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó không
phải là do các nguyên nhân bị loại trừ.
 Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: Thiệt hại ban đầu do cháy được
bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không được bồi thường
* Các rủi ro phụ.
Ngoài những rủi ro chính đã kể ở trên, trong các đơn bảo hiểm cháy còn
có thêm các rủi ro phụ. Nhà bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm cho các rủi ro
phụ khi người tham gia bảo hiểm đã tham gia các rủi ro chính. Người tham gia
bảo hiểm có thể lựa chọn các rủi ro phụ mà họ thấy cần thiết. Họ phải trả thêm
phí cho các rủi ro phụ này.
Các rủi ro phụ gồm có:
- Máy bay, các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các

phương tiện đó rơi vào gây ra cháy.
- Nổi loạn, đình công, bế xưởng, bạo động dân sự hoặc hành động của
những người tham gia các cuộc gây rối hay những người có ác ý không mang
tính chất chính trị.
- Động đất.
- Lửa ngầm dưới đất.
- Cháy mà nguyên nhân là do bản thân tài sản tự lên men, tỏa nhiệt hay
bốc cháy.
- Giông tố, bão táp và lũ lụt.
- Vỡ, tràn nước từ các bể chứa, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn.
- Xe cộ, súc vật không thuộc quyền sở hữu, quyền kiểm soát của người
được bảo hiểm hay của người làm thuê cho họ đâm vào.
- Nước chảy hoặc rò rỉ ra từ thiết bị vòi phun sprinkler tự động lắp sẵn
trong nhà.
* Rủi ro loại trừ.
Doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại do
một trong những nguyên nhân sau gây ra:
- Tổn thất do hành động cố ý hay đồng lõa của người được bảo hiểm gây
ra nhằm mục đích đòi bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bảo hiểm.
- Những tổn thất có liên quan đến hàng hóa nhận ủy thác hoặc kí gửi, trừ
khi những hàng hóa đó được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm là được
bảo hiểm và người được bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm theo quy định.
- Tiền, chứng khoán, kim loại quý, đá quý, thư bảo lãnh, bản thảo, sổ sách
kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng, khuôn
mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong
giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Chất nổ nhưng không bao gồm: nhiên liệu, xăng dầu.
- Người, thực vật và động vật sống.
- Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm theo đơn
Bảo hiểm hàng hải hay thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng

hải, trừ phần thiệt hại vượt quá trách nhiệm bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng
hải.
- Tài sản bị mất cắp hay bị cướp.
- Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba.
- Những thiệt hại nằm trong phạm vi mức miễn thường.
1.1.3.3 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
a. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản được bảo hiểm. Giá trị này là giá trị
thực tế hoặc giá trị mua mới.
Tài sản được bảo hiểm cháy thường có giá trị rất lớn như nhà cửa, công
trình, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá vật tư trong kho. Có thể
xác định GTBH như sau:
- Đối với nhà cửa, vật kiến trúc GTBH được xác định theo giá trị mua
mới hoặc giá trị còn lại.
+ Giá trị mới là giá trị là giá trị ban đầu khi đưa những loại TS này vào sử
dụng (giá trị mới xây của ngôi nhà) bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế.
+ Giá trị còn lại là giá trị mua mới trừ đi hao mòn đã sử dụng theo thời
gian (đối với TS đã qua sử dụng).
- Đối với máy móc, thiết bị và các loại TS cố định khác: GTBH được xác
định trên cơ sở giá trị mua mới cộng chi phí chuyên chở lắp đặt (nếu có) hoặc
giá trị còn lại.
- Đối với thành phẩm, bán thành phẩm, GTBH được xác định trên cơ sở
giá thành sản xuất.
- Đối với hàng hóa mua về để trong kho, để trong cửa hàng GTBH được
xác định theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại hàng hoá có mặt
trong thời gian BH.
b. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong
trường hợp tài sản không được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ . Số tiền bảo hiểm
còn là căn cứ để xác định phí bảo hiểm. Vì thế, xác định chính xác STBH có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác định STBH là GTBH.
Trường hợp số lượng tài sản thường xuyên tăng giảm thì số tiền bảo hiểm
có thể được xác định theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa theo thoả thuận
của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Cụ thể như sau:
- Giá trị trung bình là số tiền được bên mua bảo hiểm ước tính và thông
báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về giá trị trung bình của tài sản trong thời hạn
bảo hiểm.
- Giá trị tối đa là số tiền được bên mua bảo hiểm ước tính và thông báo
cho doanh nghiệp bảo hiểm giá trị tối đa của tài sản có thể đạt vào một thời
điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Tùy theo thỏa thuận, đầu mỗi tháng hoặc
quý, bên mua bảo hiểm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm giá trị tối đa của
tài sản được bảo hiểm trong tháng hoặc quý trước đó.
Trường hợp không xác định được giá thị trường của tài sản thì số tiền bảo
hiểm do các bên thỏa thuận.
1.1.3.4 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Tính toán mức giá vừa phải,
phù hợp với yêu cầu của khách hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh không phải

×