Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.52 KB, 18 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nghiệp vụ
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm: Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận
rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả
tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ,
bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên
không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, DNBH đều có thể chấp
nhận bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm phải có những đặc trưng như: Rủi ro xảy
ra trong tương lai, rủi ro có tính chất bấp bênh, rủi ro không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của người được bảo hiểm, các rủi ro có thể tập hợp được thành nhóm
tương hỗ, các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật, các rủi ro được
doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo.
Kinh doanh bảo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc “ Số đông bù số ít”.
Nguyên tắc này luôn được đảm bảo trong quá trình hình thành quỹ bảo hiểm,
quá trình phân tán rủi ro, quá trình bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Thực
chất đây là quá trình phân phối lại nguồn quỹ được hình thành do các nhà bảo
hiểm quản lý. Nhưng phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không
đều, không bằng nhau, tức là không phải ai tham gia nộp phí cũng được phân
phối và phân phối với số tiền như nhau.
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh một dịch vụ tài chính chứ không phải
dịch vụ sản xuất. Vì thế nó phải chịu sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ của các


cơ quan quản lý nhà nước. Lý do phải kiểm tra là:
Thứ nhất, các hợp đồng bảo hiểm là các hợp đồng mở sẵn và khá phức
tạp. Người tham gia bảo hiểm chỉ việc lựa chọn để ký kết, còn soạn thảo và phát
hành hợp đồng là hoàn toàn do người bảo hiểm đảm nhận.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo một chu trình đảo ngược.
Người tham gia nộp phí trước và được bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm sau
khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
Thứ ba, kỹ thuật tính phí và trích lập dự phòng phí cho từng nghiệp vụ
bảo hiểm phải đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và những người bảo hiểm.
Thứ tư, mục đích chính của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nhằm khắc
phục hậu quả rủi ro, để từ đó giúp bên tham gia bảo hiểm ổn định cuộc sống
hoặc sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường và từ đó góp
phần đảm bỏa an toàn cho xã hội. Ngoài ra kinh doanh bảo hiểm còn đáp ứng
một số mục đích khác như tiết kiệm, đầu tư, đề phòng hạn chế tổn thất và tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động…
Mục đích kinh tế của KDBH là lợi nhuận, đây là mục đích chính mà các
doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Nhưng bên cạnh đó thì hoạt động kinh doanh
bảo hiểm còn giúp liên kết gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích
của cộng đồng, vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước. Do đó hoạt động kinh
doanh bảo hiểm đã thể hiện tính tương hỗ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giữ một vai trò quan trọng trong
việc hạn chế và khắc phục rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi có rủi ro
xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Khi tham gia giao thông không ai muốn rủi ro xảy ra nhưng rủi ro là ngẫu
nhiên, không loại trừ bất cứ ai. Khi rủi ro xảy ra, thường để lại những hậu quả to
lớn về con người và vật chất, gây ra những tổn thất về tài chính, làm gián đoạn
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bảo hiểm thông qua công tác bồi thường nhanh
chóng, kịp thời góp phần ổn định tình hình tài chính, tránh những xáo trộn lớn

cho chủ phương tiện, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn; đồng
thời qua đó góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị
nạn.
Thứ hai, tăng khả năng tự chủ về tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chính là yếu tố
quyết định sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong quá trình
hoạt động, doanh nghiệp luôn phải trích ra một quỹ dự trữ đề phòng hạn chết
tổn thất khi rủi ro xảy ra. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ít phương tiện số
tiền này không đáng kể. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe
nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong nguồn vốn sản xuất
kinh doanh. Nếu nguồn tiền này được đem để làm nguồn vốn lưu động trong
kinh doanh sẽ đem lại sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, nhưng nó lại ở dạng
dự trữ thì quả là sự lãng phí lớn.
Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm.
Thông qua các hợp đồng này, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm hoạt động
trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nhờ đó, thay vì thành lập quỹ dự trữ riêng
thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ quỹ bảo hiểm lớn hơn
nhiều do rất nhiều thành viên cùng đóng góp.
Thứ ba, góp phần đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông:
Với số phí bảo hiểm thu được, ngoài việc bồi thường cho các chủ phương
tiện khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện các biện pháp đề
phòng và hạn chế tổn thất xảy ra như: xây dựng đường lánh nạn, đường phụ,
hốc cứu nạn; lắp đặt hệ thống biển báo, tín hiệu giao thông, hệ thống gương
cầu…hàng năm đã cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn khuyến khích các chủ xe tự thực hiện các
biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên
truyền. Đồng thời, công ty còn thực hiện giảm phí nếu sau một thời gian nhất
định mà xe không gặp bất kì sự cố nào.
Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, để từ đó Nhà nước có
điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.

Mức sống người dân ngày càng cao, số lượng các phương tiện cơ giới
cũng tăng nhanh. Do đó, số lượng người tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới
cũng tăng nhanh, góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thông
qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Ngược lại, chính phủ sử dụng
ngân sách nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ,
nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của
người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
Thứ năm, góp phần làm tăng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm,
tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp
vụ khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả về
số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng được
nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và cố gắng
tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, số lượng
người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều này đã làm
cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.2.1.1. Đối tượng bảo hiểm: Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất
cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc
xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới
là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ
quốc gia. Để xác định là xe cơ giới, người ta thường dùng các tiêu thức sau:
Thứ nhất, xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động
cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…).
Thứ hai, xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng
chính động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
Thứ ba, xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển.
Xe cơ giới bao gồm nhiều loại: ô tô, mô tô, xe chở hàng và xe chuyên

dụng khác. Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là bản thân chiếc xe. Tuy
nhiên các loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối
tượng được bảo hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm cần có các điều kiện là: Có giá trị sử dụng và
có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh. Ngoài ra còn phải
thỏa mãn các yêu cầu khác như: đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký, có biển
kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chế độ quy định kiểm soát của
công an và nhà nước. Trong thời gian lưu hành xe phải được kiểm tra kỹ thuật
định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, còn người điều khiển xe
phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó.
Đối với xe mô tô, xe máy chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật
chất thân xe. Ở Việt Nam hiện nay loại hình bảo hiểm này hầu như chưa được
thực hiện.
Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc tham gia từng bộ
phận của xe. Căn cứ vào đặc điểm kĩ thuật xe ô tô được chia thành các tổng
thành sau: tổng thành thân vỏ, tổng thành hệ thống lái, tổng thành hộp số, tổng
thành động cơ, tổng thành trục trước, tổng thành trục sau, tổng thành bánh xe.
Ngoài ra một số loại xe còn có tổng thành các bộ phận chuyên dụng theo
yêu cầu được lắp đặt trên xe như xe cứu thương, cứu hoả, xe chở container…
Căn cứ vào các tổng thành như trên mà các chủ xe có thể tham gia bảo
hiểm cho toàn bộ xe hoặc các bộ phận của xe. Trong đó, tổng thành thân vỏ
chiếm tỷ trọng lớn nhất và chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của rủi ro. Vì
vây, đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
ở Việt Nam hiện nay thường bán hai loại hình của sản phẩm là bảo hiểm toàn bộ
xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm:
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro khi xảy ra gây tổn thất cho xe
cơ giới sẽ được người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường.
Rủi ro được bảo hiểm là những thiệt hại vật chất xe do:
 Tai nạn do đâm va, lật đổ: trường hợp này rất dễ xảy ra và cần được bảo

hiểm nhất.
 Tai nạn do thiên tai: cháy, nổ, bão, lụt, động đất, sét đánh, mưa…
 Mất cắp: Trong trường hợp này chỉ mất cắp toàn bộ xe mới được bảo
hiểm, mất cắp bộ phận xe không được bảo hiểm là do các nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, tránh trục lợi bảo hiểm, vì chủ xe có thể tháo bộ phận xe giấu đi
và đòi nhà bảo hiểm phải bồi thường.
Thứ hai, bộ phận xe thường có giá trị không cao. Do đó, chi phí xác nhận
mất cắp lớn hơn so với số tiền được bồi thường.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người mua bảo hiểm trong
việc bảo vệ tài sản của mình.
 Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được
bảo hiểm trong những trường hợp nêu trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán
cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý như :
• Chi phí ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị
thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm
• Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
• Chi phí giám định thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
• Chi phí ra toà (nếu có ).
Rủi ro loại trừ: Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi
thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do:
Thứ nhất, hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá,
giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa,
trong quá trình sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
Thứ hai, hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy thu
thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
Thứ ba, mất cắp bộ phận của xe .
Ngoài ra để tránh những ‘nguy cơ đạo đức’ lợi dụng bảo hiểm, những
hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt

khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không
được bồi thường:
Một là, hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
Hai là, xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành
theo qui định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên
bộ giao thông vận tải- nội vụ
Ba là, chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông
đường bộ như:
• Xe không có giấy phép lưu hành ;
• Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ ;
• Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương
tự khác trong khi điều khiển xe ;
• Xe chở chất cháy, nổ trái phép ;
• Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định ;
• Xe đi vào đường cấm ;
• Xe đi đêm không có đèn
• Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Bốn là, loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như: chiến
tranh, bạo loạn…
Năm là, loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như:
Giảm giá trị thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Sáu là, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền
bồi thường cho chủ xe khi:
• Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội
dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
• Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, truy đòi
người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người
bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.

Cần lưu ý rằng, trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu
xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy
nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công
ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu
họ có yêu cầu.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm :
1.2.2.1. Giá trị bảo hiểm:
Giá trị bảo hiểm xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời
điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Giá xe trên thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, để xác định được giá
trị của xe, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố:
- Loại xe.
- Năm sản xuất.
- Mức độ mới cũ của xe.

×