Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.51 KB, 17 trang )

Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHX
I. Những vấn đề cơ bản về BHXH.
Tính tất yếu khách quan của BHXH.
Sự ra đời của BHXH cũng giống nh các chính sách xã hội khác luôn bắt
nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xa, con ngời để
chống lại những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tơng trợ lẫn
nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy
mô nhỏ, thờng là trong một nhóm ngời chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có
sự phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với
nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn.
Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con ngời h-
ớng thiện mà còn có các trại bảo dỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp
nhau trong cuộc sống. Nh vậy xét về bản chất thì hình thức tơng trợ trong thời kì
này đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những ngời
nông dân không có đất phải di c ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày
càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công
nghiệp thì lực lợng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn
chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lơng ít
ỏi, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động ... đều có thể đe doạ cuộc sống của họ.
Tình đoàn kết tơng thân tơng ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của
các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong
quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tơng tế còn có Quỹ tiết kiệm đợc Nhà nớc
khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc ngời sử dụng lao động
phải chu cấp cho ngời lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai
nạn lao động, mất việc... Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với
những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hởng đến đời sống chính
trị của mỗi nớc. Trớc tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nớc không thể không quan tâm
đến tình cảnh của ngời lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện
lao động, đảm bảo cuộc sống của ngời lao động dần đợc quy định thành các chính


sách bắt buộc đối với mỗi nớc.
Điển hình là vào năm 1850, dới thời Thủ tớng Bismark của Đức đã giúp
các địa phơng thành lập quỹ do ngời công nhân đóng góp để đợc trợ cấp lúc rủi
ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, ngời đợc bảo hiểm phải tham
gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này đợc áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới.
BHXH ngày càng đợc hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nớc và đợc Tổ chức
Lao động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ớc số 102 vào tháng 4 năm 1952.
BHXH ở nớc ta đã manh nha hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách
mạng tháng Tám, Chính phủ nớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành sắc
lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động,
hu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam
nh hiện nay.
2. Khái niệm BHXH.
Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH
chỉ mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trớc nhu cầu của thực tiễn
thì chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bớc phát triển rộng khắp.
BHXH đã đợc từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa nh sau:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời
lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở
một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của
Nhà nớc theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho ngời lao động và gia
đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
- Đối tợng của BHXH chính là phần thu nhập của ngời lao động bị biến động,
giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố nh đã
nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân ngời lao động và gia đình
họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH đợc coi là một chính sách lớn của mỗi quốc
gia và đợc Nhà nớc quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế
của mỗi nớc mà các quy định về đối tợng này là có sự khác nhau nhng cùng

bảo đảm ổn đình đời sống của ngời lao động.
- Đối tợng tham gia BHXH là gồm ngời lao động và cả ngời sử dụng lao động.
Sở dĩ ngời lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tợng đợc hởng BHXH khi
gặp rủi ro. Ngời sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm, trách
nhiệm của họ đối với ngời lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra
còn có sự hỗ trợ của Nhà nớc.
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động, để gắn
bó lợi ích giữa họ, Nhà nớc đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và
đây cũng là chính sách xã hội đợc thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một
cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế
( ILO) cũng đã đa ra một định nghĩa khác nh sau:
BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông
qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính
phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm
mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và
chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ
cấp cho các gia đình khi cần thiết.
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hớng tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã
hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó.
3. Bản chất và chức năng của BHXH.
3.1. Bản chất của BHXH.
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của ngời lao
động khi gặp phải những biến cố nh ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp
hoặc tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của
bản thân ngời lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay đợc coi là một chính sách
xã hội lớn của mỗi quốc gia, đợc nhà nớc quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét
về bản chất bao gồm những nội dung sau đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền

kinh tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng,
mối quan hệ giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động ngày càng phát triển.
Do vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn
thiện của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ
thống BHXH của mỗi nớc.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên đợc BHXH là ba chủ thể trong mối quan
hệ của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm ngời lao động và ngời sử dụng lao động
(bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thờng thì do cơ
quan chuyên trách do Nhà nớc lập ra và bảo trợ, bên đợc BHXH chính là ngời lao
động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ đợc đảm bảo những
nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của ngời lao động có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp...), cũng có thể
là các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ...). Đồng thời các
biến cố này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu
nhập của ngời lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ đợc thay thế hoặc
bù đắp từ nguồn quỹ tập trung đợc tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp
và có thêm sự hỗ trợ của NSNN.
3.2. Chức năng của BHXH.
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của
ngời lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao
động hay mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay
dài hạn thì mức trợ cấp sẽ đợc quy định cho từng trờng hợp. Chức năng này quyết
định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tợng tham gia BHXH có cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động và
cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho ngời lao động
khi gặp phải rủi ro, số ngời này thờng chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân phối
lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa ngời lao động khoẻ mạnh với ng-
ời lao động ốm đau, già yếu..., giữa những ngời có thu nhập cao phải đóng nhiều
với ngời có thu nhập thấp phải đóng ít. Nh vậy thực hiện chức năng này BHXH

còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng
trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà ngời lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công
việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động
xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội.
Nếu trớc đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát
triển, việc trợ giúp đã đợc cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nớc.
Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa ngời lao động và xã hội và càng
thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
Trong thực tế giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động có những mâu
thuẫn nội tại, khách quan về tiền lơng, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã
gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà đợc những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu
nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, ngời lao động
thì đợc đảm bảo cuộc sống, ngời sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng
hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nớc thì BHXH là cách chi ít nhất song
hiệu quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của ngời lao động và
góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.
Nhìn chung hệ thống BHXH đợc thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy
của ngời đang làm việc bù đắp cho ngời nghỉ hởng chế độ BHXH. Đây là nguyên
tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số
ít là những ngời thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nớc là việc rủi ro trong
BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý nh trong bảo hiểm thơng mại mà còn
có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên nh: tuổi già, thai sản,...
Thứ hai là mức hởng phải thấp hơn tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH, nhng
phải đảm bảo đợc mức sống tối thiểu cho ngời hởng khoản trợ cấp đó. Việc quy
định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nớc, song
thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nớc

trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính
sách BHXH của các nớc. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nớc
(NSNN) giống nh giai đoạn trớc cải cách năm 1995 của nớc ta thì đây thực sự là
một gánh nặng lớn của đất nớc. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham gia
BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nớc là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có
thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù
thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nớc khác nhau.
5. Các chế độ của BHXH.
Đối với mỗi nớc có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau
nên BHXH đợc tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH
đợc xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế
giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về
hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ớc 102 đợc ILO thông qua ngày
4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đa ra 9
chế độ sau:
- Chăm sóc y tế.
- Trợ cấp ốm đau.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thai sản.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất ngời trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ớc phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế
độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.

- Trợ cấp vì mất ngời trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở
điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lơng, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn
phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dỡng, ... để
quy định các mức đóng, mức hởng, thời gian hởng và đối tợng hởng cho hợp lí.
Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ đợc xây dựng theo luật pháp của mỗi nớc.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ đợc chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH nh là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ đợc đầu t có hiệu
quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải đợc điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.
6.1. Quỹ BHXH.
Nh chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là
một bớc ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ

×