Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.54 KB, 24 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CHI
BẢO HIỂM XÃ HỘI

I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1. Sự cần thiết khách quan và sự nghiệp phát triển BHXH
Trong cuộc sống để tồn tại trước hết con người cần phải ăn, mặc, ở đó là
những nhu cầu thiết yêu trong cuộc sống hàng ngày. Muốn được vậy con người
cần phải lao động để làm ra những của cải vật, chất phục vụ cho sinh hoạt hàng
ngày. Để lao động được con người cần có sức khỏe, xong trong cuộc sống thực
tế không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, không phải người lao động nào cũng
có đủ điều kiện sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn để hoàn
thành công việc, công tác, tạo nên cho gia đình một cuộc sống no ấm, hạnh
phúc. Ngược lại không mấy ai tránh được những rủi ro bất hạnh như ốm đau, tai
nạn, thương tật cần có người chắm sóc, cần có tiền để trang trải thuốc men. Vì
thế con người muốn giảm bớt gánh nặng tiền bạc. Muốn an tâm ổn định cuộc
sống con người tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như san sẻ, đùm bọc lẫn
nhau, đi vay đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước. Đây là những cách
chắc chắn nhưng thụ động.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến, cùng với đó là quan hệ giữa người chủ sử dụng lao động và người lao
động nảy sinh thêm mâu thuẫn. Người lao động ngoài việc được trả tiền công
lao động họ còn đòi hỏi một khoản thu nhập khi họ ốm đau, tai nạn, sinh con…
Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không
phải chi một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra
một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Để điều hòa mâu thuẫn trên,
Nhà nước buộc cả giới chủ và thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng
tháng được tính toán chặt chẽ dưa trên cơ sở xác suất xảy ra đối với người làm
thuê. Từ đó hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ
này còn được bổ sung từ NSNN khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng
buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuôc sống của


người lao động và gia đình họ ngày càng được ổn định. Người sử dụng lao động
cũng có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh lại diễn ra bình thường, tránh
được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tền tệ này được thiết
lập ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết những phát sinh lớn của
quỹ ngày càng cao.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được gọi là BHXH đối với người lao động. Như vậy BHXH là một trong
những biện pháp nhằm khắc phục khó khăn về tài chính của người lao động khi
họ gặp phải rủi ro và được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Có thể nói rằng sự
suất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã
hội đều cản thấy sự cần thiết phải tham gia vào hệ thống BHXH và sự cần thiết
phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền của người lao động, được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu, một
trong những quyền lợi của con người như trong bản tuyên ngôn nhân quyền của
hội đồng liên hợp quốc họp thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”.
Ra đời thế kỷ 13 ở Nam Âu đến nửa cuối thế kỷ 19 có thể coi như là một
mốc phát triển của BHXH với hệ thống BHXH lớn đầu tiên của chính phủ Đức
dưới thời thủ tướng Bismasch. Năm 1850 ở Đức có nhiều bang lập quỹ ốm đau
và bắt buộc công nhân phải đóng góp để dự phòng khi mất thu nhập vì ố đau,
bệnh tật. Lúc này chỉ có người được hưởng bảo hiểm phải đóng góp. Năm 1883
chuyển quỹ ốm đau này cho hội Tương Tế lúc bấy giờ do công nhân quản lý, để
mở rộng diện người được bảo hiểm và để tài chính của quỹ được dồi dào hơn.
Năm 1884 xuất hiện thêm chế độ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp (tức tai nạn lao
động – bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889
lại xuất hiện thêm chế độ tuổi già. Như vậy thời gian từ 1883 đến năm 1889 một
hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời.
Sau đó những năm đầu của thế kỷ 20 BHXH đã lan ra các nước châu Âu
và Bắc Mỹ. Đến cuối những năm 20 đầu những năm 30 mới có những đạo luật
về BHXH được ban hành. Sau chiến tranh thế giới thứ hai BHXH phát triển

phong phú và đa dạng ở trên 160 nước trên thế giới. Do điều kiện kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia khác nhau nên việc áp dụng BHXH của các nước cũng
không giống nhau. Tuy nhiên có những vấn đề chung cơ bản mà bất kỳ nước
nào cũng phải thực hiện khi xây dựng BHXH cho quốc gia mình để đảm bảo sự
thông nhất của mối quốc gia về vấn đề này, hội nghị quốc tế về lao động do tổ
chức lao động quốc tế (ILO) tổ chức ngày 28/6/1952 đã thông qua công ước
Giơnevơ 102 về BHXH và được 158 nước thành viên phê chuẩn. Theo công
ước này thì hệ thống BHXH là một hệ thống gồm 3 tầng:
+ Tầng 1: Là cơ sở để áp dụng cho một thành viên trong xã hội, trong đó
chủ yếu là cho người nghèo và cho những người có thu nhập thấp. Các đối
tượng này được Nhà nước bảo trợ và phần đông trong số họ có khả năng đóng
BHXH rất hạn chế nhưng vẫn được hưởng BHXH và trợ cấp khi có yêu cầu, vì
vậy tầng này được coi là tầng lưới an toàn.
+ Tầng 2: Dành cho các đối tượng có công ăn việc làm. Đây là đối tượng
bị bắt buộc bao gồm công nhân viên chức Nhà nước, người lao động ở các
thành phần kinh tế khác. Tài chính chi trả lấy từ nguồn tài trợ đóng góp của
người chủ thợ và có thể từ sự hố trợ của Nhà nước.
+ Tầng 3: Là tầng BHXH tự nguyện giành cho đối tượng có nhu cầu
tham gia BHXH nhưng chưa tham gia và những người đã tham gia BHXH
nhưng muốn được tiêu chuẩn quy định bắt buộc.
2. Khái niệm BHXH.
Từ sự cần thiết về BHXH người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về BHXH
nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào mà theo quan
niệm riêng của từng nước. Tuy vậy cơ bản khái niệm BHXH được hiểu:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập
trung do sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm bảo
đảm đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã
hội” hoặc “BHXH là quá trình tổ chức, một quỹ tiền tệ tập trung tồn tích dần do

sự đóng góp của người lao động và gia đ ình họ khi gặp phải những biến cố làm
giảm hoặc mất thu nhập theo lao động”
Còn tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã định nghĩa: “BHXH là sự bảo vệ
của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện
pháp công cộng để đối phó với những khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng
hoặc giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già và chết, việc cung cấp y tế và trợ cấp cho những gia đình đông con”.
3, Bản chất chức năng của BHXH.
* Bản chất :
Với các cách hiểu về BHXH có thể khẳng định bản chất của BHXH được
thể hiện ở những nội dung sau :
- BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan gắn liền với nền kinh tế hàng hóa
khi quan hệ thuê mướn, sử dụng lao động phát triển ở mức độ nhất định. Kinh tế
càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Có thể nói kinh tế nền
tảng của BHXH không vượt quá trạng thái của mối nước.
- Các biến cố được đảm bảo trong BHXH có thể là ngẫu nhiên như ốm
đau, tai nạn lao động... Nhưng cũng có trường hợp không hoàn toàn ngẫu nhiên
như hưu trí, tuổi già, thai sản...
- Thu nhập của người lao động bị mất do bị giảm hoặc bị mất sức lao
động, mất việc làm được bù đắp bởi quỹ bảo hiểm tập trung bằng sự đóng góp
chủ yếu của các bên tham gia bảo hiểm.
- Mục đích của BHXH là đảm bảo ít nhất mức sống tối thiểu cho người
lao động khi gặp phải những biến cố rủi ro, mất sức lao động hay mất việc làm.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), mục tiêu này được cụ thể hóa như sau :
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhậpp bị mất để đảm bảo
nhu cầu thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng các điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
* Chức năng :

- Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao
động khi gặp phải những biến cố làm giảm, mất khả năng lao động hay mất việc
làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính
chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Suy cho cùng mất khả năng lao
động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo quy định
của BHXH, còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời chỉ có thể xảy
ra với một số người nhưng đều được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng
quy định.
- BHXH phân phối lại thu nhập giữa các bên tham gia bảo hiểm.Tham
gia bảo hiểm không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các
bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho
một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng
những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham
gia đóng góp. Như vậy không kể bảo hiểm hưu trí BHXH đã lấy số đông bù số
ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều
ngang, giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người
khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... Điều đó
cũng góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
- BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái sản xuất, tăng
năng suất lao động cá nhân và từ đó tăng năng xuất lao động xã hội. Khi khoẻ
mạnh làm việc bình thường, người lao động sẽ có tiền lương, tiền công khi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc bị chết đã có BHXH bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân và
gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn được bảo đảm. Chính vì vậy họ sẽ yên tâm
gắn bó với công việc, với nơi làm việc và tích cực lao động sản xuất, góp phần
tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu
hiện như một đòn bẩy kinh tế, như động lực thúc đẩy người lao động.
- BHXH góp phần gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng
lao động, giữa người lao động với Nhà nước. Trên thực tế, người lao động và

người sử dụng lao động vốn có nhiều mâu thuẫn về tiền lương, tiền công, thời
gian lao động... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hoà và giải
quyết. Đặc biệt cả hai bên đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo
hiểm. Từ đó làm họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với
Nhà nước, chỉ có BHXH là cách thức phải chi ít nhất nhưng hiệu quả nhất, giải
quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
4. Nguyên tắc của BHXH.
Để hoạt động có hiệu quả, đúng bản chất BHXH phải tuân theo những những
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc số đông bù số ít.
- Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm xã
hội đối với người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự bảo
hiểm cho chính mình.
- Nguyên tắc kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện.
- Nguyên tắc tự hoạch toán độc lập BHXH với ngân sách nhà nước.
- Mọi người lao động đều có quyền hưởng BHXH khi bị giảm, mất khả
năng lao động.
- Phải kết hợp hài hoà giữa mục tiêu, lợi ích và khả năng đáp ứng nhu cầu
trong BHXH.
- Giữ mức đóng góp và mức hưởng BHXH có sự tương đương và có sự
kết hợp với tính xã hội.
- Mức trợ cấp BHXH nói chung phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi
làm nhưng thấp nhất cũng phải bảo đảm đời sống tối thiểu.
- Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời
làm phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
- BHXH phải phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
5. Nội dung cơ bản của BHXH.
5.1. Đối tượng của BHXH.

Như trên đã viết BHXH là một hệ thống đảm khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm vì các nguyên nhân ốm đau, tai nạn, già yếu... Do vậy, đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động hoặc mất đi do giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia
BHXH.
Đối với đối tượng tham gia BHXH, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người
lao động nào đó. Tuy vậy hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều
thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng
lương.
* Các mối quan hệ trong của BHXH:
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mỗi quan hệ giữa nghĩa vụ,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH, mỗi quan hệ này dựa
trên quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH
và bên được BHXH. Đây là đặc trưng riêng của BHXH, nó quyết định sự tồn
tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà
nước (Trong một số trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm
cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của một số đông người lao động khác.
Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo
hiểm cho người lao động mà họ sử dụng, đồng thời còn vì lợi ích của chính họ,
đó là bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi
phát sinh nhu cầu BHXH. Còn Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người
bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn và hỗ trợ
cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết.
Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý,
định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho hoạt động BHXH.
- Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên
BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty...) do Nhà nước lập ra (ở

một số nước có thể do tư nhân lập ra) nhận sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực
hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho
quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và thân nhân của
họ theo quy định của pháp luật. Bên được BHXH được quyền nhận các loại trợ
cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các
loại rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế thị trường, bên
tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH ( người lao động chẳng
hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là
người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính
họ.
5.2. Các chế độ BHXH.
Theo Công ước Quốc tế 102 của ILO ‘‘Công ước về quy phạm tối thiểu của bảo
hiểm xã hội’’ quy định gồm 9 chế độ trợ cấp BHXH như sau :
1. Chăm sóc y tế.
2. Trợ cấp ốm đau.
3. Trợ cấp thất nghiệp.
4. Trợ cấp tuổi già.
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
6. Trợ cấp gia đình.
7. Trợ cấp thai sản.
8. Trợ cấp tàn tật.
9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng thực hiện đầy đủ 9 chế độ trên
mà việc xây dựng, thực hiện các chế độ BHXH ở các nước là khác nhau phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào yếu tố sinh học, điều kiện làm việc và
bảo hộ an toàn lao động của mỗi nước. Nhưng theo khuyến nghị của ILO thì
mỗi nước phải thực hiện ít nhất 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất 3 trong 5 chế

độ 3,4,5,8,9.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự
thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.
6. Quỹ BHXH.
6.1. Khái niệm quỹ BHXH:

×