Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Thực trạng chế độ bảo hiểm hưu trí tại BHXH Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.3 KB, 46 trang )

Thực trạng chế độ bảo hiểm hưu trí tại BHXH Việt Nam
I . Thực trạng về chế độ chính sách bảo hiểm hưu trí
Chế độ hưu trí là một chế đọ có vai trò to lớn trong hệ thống BHXH của mỗi
quốc gia , bởi lẽ chế độ hưu trí có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời những
người tham gia BHXH . Chế độ hưu trí cũng là một phương tiện có thể ổn định
được phần nào đời sống người về hưu , đặc biệt trong số đó là hưu cô đơn
không nơi lương tựa hoặc những người đã có những đóng góp đặc biệt cho xã
hội. Thực hiện tốt chế độ hưu trí trong hệ thống BHXH sẽ góp phần nâng cao
đời sống xã hội giảm bớt khó khăn cho người về hưu cũng như khó khăn chung
cho bộ phận dân cư khác, nâng cao uy tín của BHXH và các chế độ khác. Có
thể nói trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ hưu trí là chế độ quan trọng
hàng đầu. Nó đã, đang và sẽ là một chế độ BHXH có quy mô hoạt động to lớn
về cả số lượng và chất lượng.
Chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng khi áp dụng ở nước
ta đã có vai trò rất to lớn nhưng cũng bộc lộ một số nhược điểm qua các thời kỳ.
1. Giai đoạn trước năm 1995.
 Điều lệ tạm thời về BHXH năm 1961
Ngay sau cách mạng tháng tám năm 1945 , nhà nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, lúc đó là nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đã thực hiện các chế độ BHXH cho công nhân viên chức. Điều đó được
thể hiện qua việc ban hành sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện
bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm hưu trí .Cùng
với sắc lệnh 29/SL, một số sắc lệnh khác như sắc lệnh 76/SL ngày
20/5/1950 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 cũng được ban hành sau đó,
nhằm thực hiện tốt hơn các chế độ cho người tham gia bảo hiểm xã hội.
Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong
các cơ quan của chính phủ và chính quyền các cấp trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Song các chế độ này vãn còn
nhiều hạn chế , một phần do thực hiện trong thời kỳ kháng chiến , điều
kiện kinh tế còn khó khăn thiếu thốn , tất cả mọi người chưa quan tam
đến việc hưởng chế độ , ttất cả phải lo cho tình hình kháng chiến .


Sau này khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, các chế độ đó mới chỉ đáp ứng
cục bộ những đòi hỏi trong từng giai đoạn và từng ngành hoạt động , chỉ nhằm
giải quyết các nhu cầu trước mắt nên chưa đồng bộ , toàn diện và lâu dài .
Trước tình hình kinh tế , chính trị có những bước phát triển nhất định cùng
với việc thay đổi lại chế độ tiền lương . Quán triệt dần nguyên tắc “ phân phối
theo lao động  Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày
27/12/1961 về “ Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH thống nhất trong
cả nước  . Các chế độ này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1962 trên cơ
sở hình thành và sử dụng quỹ BHXH tập trung, do sự đóng góp của các nhà
máy, xí nghiệp và các cơ quan Nhà nước. Quỹ BHXH được quản lý và sử dụng
vì lợi ích của công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước. Việc quản
lý BHXH do hai cơ quan quản lý đó là: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản
lý 3 chế độ ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
còn Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội quản lý 3 chế độ dài hạn là hưu trí, tử
tuất, mất sức lao động. Điều lệ này thực hiện 6 chế độ BHXH cho người lao
động trong đó có quy định cụ thể về chế độ hưu trí .
Trong điều lệ, từ điều 42 đến điều 53 có quy định cụ thể về chế độ hưu trí
như quy định về thời gian công tác, tuổi đời và điều kiện lao động của công
nhân viên chức Nhà nước. Cụ thể :
- Quy định tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi. Số năm
công tác quy định chung là 25 năm, đối với những người lao động làm
việc ở những ngành nghề độc hại nguy hiểm thì giảm 5 năm so với quy
định .
- Những người làm việc trong điều kiện làm việc đặc biệt, hoặc ở trong quân
ngũ thì thời gian công tác của họ được quy đổi theo hệ số.
Chế độ hưu trí trong giai đoạn này chỉ được thực hiện cho cán bộ công nhân
viên chức làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước và quân nhân trong lực
lượng vũ trang.
Qua đó ta có thể thấy : việc ban hành nghị định 218/CP kèm theo điều lệ
tạm thời về BHXH là một bước ngoặc lớn trong sự nghiệp BHXH ở nước ta.

Lần đầu tiên quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động được quy định cụ thể
trong chế độ hưu trí. Từ đây, bảo hiểm hưu trí được thống nhất và có đầy đủ
tính pháp lý. Điều lệ đã giải quyết được vấn đề tính toán thời gian của người lao
động cho phù hợp với tình hình thực tế. Từ đó đánh giá đúng mức đóng góp của
người lao động cho xã hội và đưa ra các mức lương tương ứng.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại:
- Thời gian công tác nói chung là tất cả thời gian mà người công nhân viên
chức làm việc lấy lương hay sinh hoạt phí. Nếu thời gian công tác nói
chung đối với nam là 25 năm và với nữ là 20 năm mà không có thời gian
công tác liên tục trong 5 năm thì họ không được hưu trí trợ cấp hưu trí.
Như vậy thì rất thiệt thòi cho người lao động. Đối với lao động nữ khi đủ
5 năm công tác liên tục và có thời gian công tác nói chung nhiều hơn 25
năm nhưng họ cũng chỉ được hưởng 45% lương chính. Ngoài ra, do việc
quy đổi hệ số thời gian công tác lên đã dẫn đến tình trạng số người về
hưu có độ tuổi về hưu thực tế thấp hơn nhiều so với quy định. Thậm chí
có người số năm công tác quy đổi gần bằng tuổi đời.
- Điều lệ này vẫn còn nhiều hạn chế trong chính sách BHXH nói chung và
chế độ hưu trí nói riêng. Như trong quy định về thu chi thì điều lệ không
gắn thu với chi. Thu chi đều do quy ước không có quỹ BHXH riêng mà
chỉ có quỹ BHXH “ độc lập “ trong ngân sách. Trên thực tế khi bắt đầu
thực hiện điều lệ này, cơ quan chủ quản về BHXH đã phải tiến hành chi
ngay cho chế độ hưu trí đối với nhiều người từ trước năm 1962. Do đó
ngân sách dành cho chi lại càng cao. Chính vì vậy, điều lệ năm 1961 cần
được sửa đổi, bổ sung nhiều .


Nghị định 236/HĐBT và chế độ hưu trí đối với người lao động.
Sau nhiều năm thực hiện chính sách BHXH trên cơ sở điều lệ tạm thời về
BHXH , Đảng và Nhà nước đã nhận thấy rõ những điểm tồn tại và hạn chế của
điều lệ . Đồng thời trong hoàn cảnh đó tình hình kinh tế xã hội nước ta có nhiều

thay đỏi quan trọng , đất nước đã thống nhất , nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
mới theo xu hướng nhieeuf thành phần giảm bớt tập trung và bao cấp . Cuộc
sống của người la động có nhiều biến đổi đặc biệt là cải cách tiền lương kéo
theo đó là đời sống của người nông dân và dân cư nói chung đặc biệt là đời
sống của người lao động ngày càng caovà các nhu cầu về đảm bảo xã hội cũng
tăng lên .
Trước tình hình thực tế đó , trên cơ sở kế thừa các ưu việt trong điều lệ tạm
thời về BHXH ban hành kèm theo NĐ 218/CP , Nhà nước đã ban hành NĐ
236/HĐBT ngày 18/9/1985 với nội dung như sau :
- Về tuổi đời: Nghị định quy định nam công nhân viên chức đủ 60
tuổi( nếu là quân nhân thì đủ 55 tuổi ) và có đủ 30 năm quy đổi, nữ công
nhân viên chức có đủ 55 tuổi ( nếu là quân nhân thì đủ 50 tuổi ) và có đủ
25 năm công tác quy đổi thì được hưởng chế độ hưu trí. Tuỳ theo điều
kiện lao động, chiến đấu, thời gian công tác mà có hệ số quy đổi khác
nhau, người về hưu được hai khoản là: trợ cấp một lần đầu tiền và tiền
lương hàng tháng.
- Cơ sở để tính lương hưu hàng tháng là lương chính và phụ cấp thâm niên(
nếu có ) ở tháng cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Trong trường hợp sức
khoẻ giảm sút hoặc do yêu cầu công tác phải chuyển sang công tác khác
hoặc hưởng lương thấp hơn mức cũ thì lấy mức lương cao nhất trong 10
năm trước khi nghỉ hưu.
- Về mức trợ cấp một lần trước khi nghỉ hưu tính trên tiền lương chính
cộng với tất cả các khoản trợ cấp đang hưởng của công nhân viên chức và
quân nhân sau thời gian nghỉ nguyên lương. Cụ thể là :
+ Có đủ 25 năm công tác được hưởng trợ cấp 2 tháng lương
+ Có đủ 30 năm công tác được hưởng trợ cấp 3 tháng lương
+ Có đủ 35 năm công tác được hưởng trợ cấp 4 tháng lương
Lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác, nữ có đủ 25 năm
công tác thì được tính bằng 75% lương chính và phụ cấp thâm niên ( nếu có )
ngoài ta cứ thêm 1 năm công tác được tính thêm 1% nhưng tối đa không quá

95% lương chính và phụ cấp thâm niên.
Như vậy, việc thực hiện chế độ hưu trí theo nghị định này về cơ bản cũng
giống như giai đoạn trước đó là còn nhiều hạn chế về tuổi đời, hệ số, phạm vi
thực hiện. Cụ thể là :
- Phương pháp tính thời gian quy đổi tuy có nhiều điểm chặt chẽ song đã
gây ra một số vướng mắc cho người lao động trong việc dò tìm hồ sơ khi
về nghỉ hưu. Việc tính thời gian quy đổi đôi khi gây ra sự mất cân đối.
- Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu trung bình vẫn còn thấp do được cộng cả hệ
số ưu đãi xã hội về thời gian và năm làm việc thực tế thành số năm được
nhận lương hưu. Mặt khác lại còn chế độ ưu đãi với những đối tượng có
sức khoẻ giảm sút từ 18% trở lên.
- Phạm vi thực hiện chế độ vẫn còn hạn hẹp, chỉ áp dụng đối vói công
nhân viên chức Nhà nước, chiếm xấp xỉ 12% tổng số lao động của cả
nước nhưng lại rất tràn lan. Chế độ bị lẫn lộn giữa bảo hiểm và ưu đãi. Cơ
quan quản lý không thống nhất bao gồm cả Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ y tế phụ trách việc giám
định khả năng lao động. Còn xét một cách tổng hợp để cho công nhân
viên chức về nghỉ mất sức lao động hoặc về hưu, do các cơ quan xí
nghiệp, các bộ ngành, các đoàn thể các cơ quan đảng đoàn thể chính
quyền và các cấp ra quyết định cơ quan phụ trách theo dõi lại không ký
quyết định cho nghỉ hưu là điều bất hợp lý. Mặt khác giữa thu với chi
không gắn liền với nhau, phân tán, nhiều chỗ gây ra tình trạng thiếu trách
nhiệm trong việc giải quyết cho người lao động về hưu đúng chế độ chính
sách hiện hành.
- Tỷ lệ trợ cấp hưu so với lương cơ sở có mức cao nhất là 95% là một mức
quá cao, không thực tế. Trên cơ sở cân bằng thu chi, ở cùng một thời
điểm, tiền thu BHXH là từ những người đang đóng BHXH phải đáp ứng
được việc chi trả cho những người đang hưởng trợ cấp hưu trí trong cùng
thời gian đó . Song số người lao động chỉ bằng hơn 4 lần số người đang
hưởng trợ cấp trong cùng thời gian. Tỷ lệ nộp BHXH của người lao động

và người sử dụng lao động là 20% vậy nếu xét về tổng số, số tiền thu
BHXH không đủ để chi cho tỷ lệ trợ cấp 95% lương của chế độ hưu trí
không kể còn phải chi trả một số chế độ khác như: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Do vậy, ngân sách nhà nước luôn
phải bù thiếu, chính vì lẽ đó mà cần phải hạ thấp tỷ lệ trợ cấp đối với
những người về hưu .
- Điều kiện hưởng chế độ hưu trí còn lệ thuộc quá nhiều vào yêu cầu chính
trị của từng thời kỳ, còn bị chi phối bởi chủ trương tinh giảm biên chế...
Cho nên số người về hưu trước tuổi còn rất cao ( trên 80% ) thậm chí có
người về hưu ở độ tuổi 40, khi về hưu có thời gian hưởng lương hưu rất
dài, có thể có thời gian hưởng nhiều hơn cả thời gian công tác. Trong khi
đó tiền đóng BHXH là 5% chỉ bằng một phần nhỏ trong tỷ lệ trợ cấp hưu
trí không kể trong quá trình công tác được hưởng các chế độ ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... và sau này còn chế độ tử
tuất. Trong khi đó những người về hưu đủ tuổi, có thời gian công tác lâu
dài lại được hưởng hưu ngắn hơn do có thể họ chết sớm. Tất cả những
điều đó làm giảm ý nghĩa kinh tế cũng như xã hội chế độ hưu trí. Do vậy
làm cho thiếu công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ
- Mức chi trả trợ cấp hưu trí nói chung là thấp, bình quân là 52.600đ
/tháng/ người, tiền lương hưu thấp nhất là 52.000 đ/tháng / người ( chưa
kể bù giá). Nếu so với năm 1985 tiền lương hưu danh nghĩa cuối năm
1991 tăng 209,75 lần trong khi chỉ số giá cả tăng 536,8 lần cho nên tiên
lương hưu thực tế chỉ còn dưới 38% so với tháng 9/1985.
- Ngoài ra đối tượng tham gia đóng BHXH theo NĐ 236/HĐBT vẫn chỉ
bao gồm công nhân viên chức Nhà nước mà không có một phần đông đảo
người lao động ở các đơn vị kinh tế khác. Trong khi các đơn vị kinh tế
phi Nhà nước đang ngày càng phát triển như: Công ty liên doanh, công ty
TNHH, tư nhân... Đây là đối tượng rất lớn mà BHXH cần phải khai thác.
Như vậy, trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1993 chính sách và hệ thống
BHXH được tổ chức thực hiện dựa trên các quy định trong nghị định 218/CP và

NĐ 236/HĐBT và một số quyết định khác của Nhà nước.Thời gian này do ảnh
hưởng của hệ thống chính sách bao cấp cũ nên đã bộc lộ những mặt hạn chế
như: phạm vi đối tượng hẹp, sử dụng thời gian quy đổi quá lạm dụng, quỹ
BHXH không phát huy được vai trò là xương sống của cả hệ thống, mức trợ cấp
hưu trí không bảo đảm ổn định cuộc sống cho các đối tượng, chưa có quan hệ
đóng BHXH với hưởng BHXH mà chỉ có quan hệ hưởng BHXH với tiền lương.
Chế độ hưu trí bị chi phối bởi nhiều chính sách xã hội khác và tổ chức quản lý
sự nghiệp BHXH phân tán, hành chính quan liêu...
Như vậy, các chính sách chế độ BHXH hiện tại không còn phù hợp nữa, nó
mang trong mình rất nhiều nhược điểm, gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong
công tác quản lý và sử dụng lao động, đặc biệt không đáp ứng được yêu cầu của
cơ chế kinh tế nhiều thành phần và không bảo đảm được quyền lợi của người
lao động, sức lao động trong cơ chế thị trường đã trở thành hàng hoá. Vì vậy đổi
mới và hoàn thiện hệ thống BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng là một
đòi hỏi tất yếu khách quan và cần phải làm ngay cho phù hợp với tình hình thực
tế hiện tại.
 Nghị định 43/CP và chế độ hưu trí
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, cơ chế hoạt động của BHXH cũ không còn phù hợp nữa , đòi hỏi
phải có sự đổi mới . trong bối cảnh xĩ nghiệp quốc doanh gắn với thị trường
hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn vốn đưọc giao , đồng thời tự trang trải tự
phát triển và nộp nghĩa vụ với NSNN thì bảo hiểm hưu trí cũng phải tự tách
khỏi sự bao cấp của Nhà nước , hoạt dộng độc lập , tự hạch toán lấy thu bù chi ,
sự hỗ trợ của NSNN chỉ là một phần nhỏ . Với việc phát triển nền sản xuất hàng
hoá nhiều thành phần , các loại hình doanh nghiệp ngày càng được mở rộng ; sự
chuyển dịch lao động và quan hệ lao động cũng có những thay đổi . Chính vì
vậy , cùng với đội ngũ CNVC Nhà nước còn có hàng chục triệu người lao động
làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc danh . Vì vậy , bảo hiểm cho
mọi người lao động cần được mở rộng , thống nhất bình đẳng , đảm bảo nguyên
tắc có đóng có hưởng , đóng ở mức nào hưởng ở mức đó , gảim bớt gánh nặng

cho NSNN .
Trước những vấn đề bức thiết đặt ra trong công cuộc đổi mới này để BHXH
trở thành một chính sách rộng rãi thì cần phải có những đổi mới và hoàn thiện là
việc làm hết sức cấp thiết , theo các phương hướng sau:
- Đổi mới phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng đối với mọi người lao động
tham gia đóng BHXH có ý nghĩa là đối tượng tham gia đáng BHXH phải
được mở rộng, không có sự phân biệt theo khu vực và thành phần kinh tế
giữa trong và ngoài quốc doanh. Tức là không thể có BHXH trong quốc
doanh khác BHXH ngoài quốc doanh. Sự bình đẳng này phải được quy
định và bảo đảm bởi chế tài trong các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã
hội. Theo đó người lao động được hưởng chi trả BHXH trên cơ sở mức
đóng góp và thời gian đóng BHXH .
- Đổi mới để bảo đảm công bằng trong quan hệ về bảo hiểm xã hội. Vậy
BHXH phải được tổ chức và hoạt động tập trung độc lập và thống nhất
trong phạm vi toàn quốc, phải đổi mới về tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt
động, hình thành ngành BHXH tập trung. Thành lập cơ quan quản lý
BHXH độc lập riêng biệt và thống nhất từ trên xuống đồng thời tách
chính sách BHXH ra khỏi các chính sách xã hội khác để bảo đảm mỗi
chính sách thực hiện đúng chức năng của nó .
- Quỹ BHXH phải độc lập với ngân sách Nhà nước đồng thời thực hiện
nguyên tắc hạch toán độc lập
Với các phương hướng đổi mới như trên thì ngày 22/06/1993, Chính phủ đã
ban hành nghị định 43/CP. Nghị định này đổi mới về cơ bản hệ thống BHXH
nói chung và hưu trí nói riêng cho phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Từ
khi nghị định ra đời đã có những thay đổi rõ rệt, thể hiện:
- Nghị định 43/CP ra đời đã xoá bỏ việc tính thời gian theo hệ số quy đổi
cho người lao động khi về nghỉ hưu, người lao động khi đã đóng BHXH
đủ 20 năm trở lên và tuổi đời đủ 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ
thì được nghỉ hưu và hưởng lương hưu hàng tháng . Ngoài ra nếu khi đơn
vị có nhu cầu và người lao động tự nguyện tiếp tục làm việc thì tuổi đời

không quá 65 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ .
- Đã thay đổi điều kiện thời gian công tác bằng thời gian đóng BHXH để
tính lương hưu, tránh được tình trạng người lao động về hưu sớm do việc
quy đổi thời gian công tác. Điều này làm cho người lao động có trách
nhiệm hơn đối với chính bản thân họ.
- Về mức hưởng, người lao động được hưởng một khoản trợ cấp trước khi
nghỉ hưu tuỳ theo thời gian và mức đóng bảo hiểm xã hội, khoản trợ cấp
một lần này áp dụng với :
+ Người có từ 20 năm đến dưới 30 năm đóng b được trợ cấp 1
tháng
lương .
+ Người có từ 30 năm đến dưới 35 năm đóng BHXH được trợ cấp
2
tháng lương .
+ Người có trên 35 năm đóng BHXH được trợ cấp bằng 3 thàng
lương
Đối với người làm việc trong khu vực Nhà nước thì tiền lương tính trợ cấp
một lần là tiền lương của tháng trước khi nghỉ hưu bao gồm lương theo cấp bậc,
chức vụ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực.
Đối với người làm việc ngoài khu vực nhà nước thì tiền lương để trợ cấp
một lần khi nghỉ hưu tính theo lương đóng BHXH bình quân.
- Lương hàng tháng thấp nhất không dưới mức lương tối thiểu của công
nhân viên chức nhà nước, cao nhất bằng 75% mức lương bình quân của
10 năm trước khi về hưu và được tổ chức BHXH đài thọ về bảo hiểm y
tế.
- Trên cơ sở năm đóng BHXH và mức tiền lương bình quân đóng BHXH
ta tính mức trợ cấp một lần và mức lương hưu hàng tháng cho công nhân
viên chức nhà nước như sau:
+ Mức trợ cấp một lần: Cứ mỗi năm đóng BHXH được hưởng trợ cấp bằng
một tháng tiền lương bình quân. Trong đó tiền lương bình quân được tính băng

lương bình quân của 10 năm trước khi nghỉ hưu ( đối với người làm việc trong
khu vực nhà nước )
t
i
* l
i

L =
∑t
i

Trong đó : L : lương bình quân
t
i
: khoảng thời gian i
l
i
: lương tương ứng với khoảng thời gian i
∑t
i
= 10 * 12 = 120

tháng
Trường hợp mà công nhân viên chức Nhà nước nghỉ hưu mà tiền lương
đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu có cả thời gian trước ngày thi
hành chế độ tiền lương mới 1/4/1993 thì được chuyển sang chế độ tiền lương
mới để tính.
+ Mức lương hưu hàng tháng: Người lao động có đủ 20 năm đóng BHXH
thì hưởng lương hưu bằng 55% tiền lương đóng BHXH bình quân, sau đó cứ
thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% nhưng tối đa chỉ bằng 75% tiền

lương đóng BHXH bình quân. Mức lương hưu thấp nhất bảo đảm không thấp
hơn mức lương tối thiểu( 120.000 đ/tháng ) nếu tiền lương hưu thấp hơn mức đó
thì phải bù cho bằng mức đó .
Ngoài ra, trong NĐ này, chế độ mất sức lao động đã được tách ra và có quy
định riêng.
Như vậy, NĐ 43/CP ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của
những văn bản trước đó là :
- Về tuổi đời: Trong giai đoạn này, tuổi về hưu đã được thực hiện một
cách nghiêm túc và chặt chẽ, hầu hết người về hưu đã đúng tuổi quy định
- Về đối tượng và phạm vi đã đáp ứng được nhu cầu to lớn về BHXH của
bộ phận người lao động khác, đối tượng tham gia đã được mở rộng ra
không chỉ có công nhân viên chức nhà nước mà còn có cả những người
lao động làm việc hưởng lương và tiền công ở những khu vực ngoài quốc
doanh, có doanh nghiệp tư nhân có sử dụng 10 lao động trở lên, các khu
chế xuất, văn phòng đại diện nước ngoài đều là những đối tượng tham gia
bắt buộc. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia, hình thức tham gia
cũng được mở rộng. Ngoài hình thức tham gia bắt buộc còn có hình thức
tham gia tự nguyện để đáp ứng nhu cầu của người lao động .
- Do chế độ BHXH đã được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, cho nên
tất cả các thành phần đều nộp ở một mức thống nhất. Người sử dụng lao
động nộp 15% so với tổng quỹ lương của toàn đơn vị và người lao động
nộp 5% trích từ tiền lương hàng tháng. Điều này thể hiện trách nhiệm của
người chủ sử dụng lao động đối với người lao động đồng thời gắn trách
nhiệm của người lao động đối với công việc mà họ đang làm. Ngoài ra
còn giúp người lao động tự lo cho chính bản thân mình khi gặp rủi ro
hoặc hết tuổi lao động.
- Về mặt tổ chức: theo nghị định này thì có nhiều nét đổi mới rõ rệt so với
các nghị định và các chính sách trước đây. Đó là quỹ BHXH được được
quy định quản lý thống nhất theo chế độ của nhà nước, hạch toán độc lập.
Mặc dù vậy, quỹ BHXH vẫn do bộ Tài chính quản lý còn việc thực hiện

do Bộ Lao động Thương binh Xã hội và Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam phối hợp với nhau. Nghị định còn có đề xuất thành lập hệ thống
BHXH Việt Nam bằng việc sát nhập tổ chức BHXH của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với nhau
- Về chính sách hưu trí nói riêng, Nghị định cũng có nhiều quy định mới
phù hợp với tình hình thực tế thể hiện như sau :
+ Trước hết, thời gian tính hưởng bảo hiểm hưu trí được coi là thời
gian thực tế nộp BHXH không còn phải tính quy đổi như các chính
sách trước đây. Thời gian tính hưởng bảo hiểm hưu trí theo NĐ
43/CP không đòi hỏi phải liên tục, mà quá trình tham gia nộp
BHXH có thể bị ngắt quãng, miễn sao tổng số năm nộp BHXH đủ
số năm quy định của nhà nước là được. Riêng thời gian công tác
trước ngày 31/12/1993 vẫn phải là thời gian công tác liên tục mới
được coi là nộp bảo hiểm xã hội. Việc tính thời gian công tác quy
đổi đã được tách biệt ra khỏi những chế độ ưu đãi xã hội khác,
không xét đến trong thời gian tính hưởng bảo hiểm xã hội. Như vậy
đã xoá bỏ được sự bất hợp lý trong việc quy đổi thời gian, tạo sự
công bằng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Mặt khác,
NĐ cũng mở rộng hình thức hưởng chế độ hưu trí cho người tham
gia bảo hiểm hưu trí nhưng chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu
hàng tháng .
+ Tiền lương làm cơ sở tính lương hưu không phải là mức lương của
tháng cuối của người lao động trước khi về hưu nữa điều này tránh
tình trạng người sử dụng lao động cố tính tăng lương cho người sắp
về hưu để họ có mức lương hưu cao hơn. Tiền lương làm cơ sở để
tính lương hưu trong nghị định này là tiền lương bình quan nộp
BHXH trong 10 năm cuối của quá trình công tác đối với người lao
động trong khu vực nhà nước và trong suốt qúa trình đóng BHXH
của người lao động trong các khu vực ngoài nhà nước . Mức thời
gian tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng là 20 năm

đóng bảo hiểm xã hội, mức này áp dụng chung cho mọi đối tượng
nam và nữ ngoài ra còn có thêm số năm đóng BHXH sẽ được tăng
thêm tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí ( một năm đóng BHXH thêm được
hưởng tỷ lệ là 2% nữa ). Mức hưởng gốc là 55 % tiền lương đóng
BHXH bình quân nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu
( 120.000 đ ). Điều này khắc phục được những hạn chế của chế độ
hưu trí trong nghị định 236 /HĐBT trước đây là không công bằng
giữa nam và nữ về chế độ đãi ngộ.
+ Các chế độ khác cũng được tách ra khỏi chế độ hưu trí, chế độ trợ
cấp mất sức lao động được quy định riêng bằng một chế độ hưởng
lương một lần. Mọi chế độ đã được tách bạch, tránh được sự rườm
rà trong chế độ BHXH và tránh được trường hợp về hưu non , hưu
chui .
Những bổ sung sửa đổi của NĐ 43/CP đã góp phần thồng nhất về luật hoặc
tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên NĐ 43/CP vẫn còn tồn tại một
số điểm bất hợp lý sau :
- Tiền lương bình quân làm cơ sở tính lương hưu hàng tháng theo NĐ
43/CP là một điểm sửa đổi so với NĐ 236/HĐBT trước đây. Tuy nhiên,
thời gian để tính nộp BHXH bình quân 10 năm là quá dài, trong khi NĐ
236/HĐBT lại lấy mức lương của tháng cuối trước khi về hưu làm cơ sở
tính lương hưu. Trên thực tế lương hưu của người về hưu theo NĐ 43/CP
so với lương hưu của người về hưu theo NĐ 236/HĐBT thường thấp hơn
rất nhiều. Như vậy, công bằng mà nói người về hưu theo NĐ 43/CP chịu
thiệt thòi hơn người về hưu theo NĐ 236/HĐBT. Đây là điểm yếu trong
việc đổi mới chính sách BHXH .
- Ngoài ra, trong NĐ 43/CP còn có một điểm quy định còn gây khó khăn
cho bộ phận người lao động. Đó là việc quy định thời gian tối thiểu để
tính hưởng chế độ hưu trí là 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Với một số
lao động ở miền nam sau năm 1975 mới tham gia đóng BHXH ( vì trước
năm 1975 miền nam chưa giải phóng ) mặc dù họ cũng đã có thời gian

lao động trước đó. Đến nay về tuổi đời họ đã đủ điều kiện về nghỉ hưu,
song điều kiện về thời gian đóng BHXH chưa thoả mãn cho nên việc giải
quyết chế độ hưu trí cho họ còn nhiều hạn chế.
- Việc quản lý thực hiện bảo hiểm hưu trí vẫn còn phân hoá ( do cả Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội - Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Bộ tài
chính quản lý ) chưa có sự thống nhất quản lý của Nhà nước .
Tóm lại : NĐ 43/CP đã khắc phục được một số điểm hạn chế của chính sách
BHXH cũ như về đối tượng tham gia, việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, thời
gian đóng bảo hiểm xã hội, mức lương hưu hàng tháng... Những sửa đổi này đã
đóng góp một phần vào việc thống nhất, luật hoá tổ chức và quản lý bảo hiểm
xã hội, làm cơ sở cho việc hình thành điều lệ BHXH kèm theo NĐ 12/CP sau
này. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện dù chỉ là thời gian ngắng nhưng NĐ
43/CP đã thể hiện một số điểm bất hợp lý. Mặt khác, do nền kinh tế nước ta
chuyển đổi nhan, số người hưởng BHXH ngày càng đông, đòi hỏi các chính
sách bảo hiểm hưu trí phải luôn luôn được sửa đổi điều chỉnh lại cho ngày càng
hoàn thiện và phù họp voứi nhu cầu mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
BHXH .
2. Giai đoạn từ 1995 đến nay.
 Nghị định 12/CP (26/1/1995).
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hàng loạt các
chính sách của Nhà nưởctong đó có chính sách BHXH cũng phải thay đổi cho
phù hợp. Vào giai đoạn này, nhiều văn bản pháp luật về BHXH được banh hành
và thực hiện, được đánh dấu bởi Nghị định 43/CP. Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao
động Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào ngày 15/6/1994 và
được thực hiện từ 1/1/1995, cùng với đó Điều lệ về BHXH kèm theo nghị định
12/CP ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995
cho các đối tượng hưởng BHXH là người lao động trong các thành phần kinh tế
và lực lượng vũ trang mới thực sự ghi nhận những đổi mới của BHXH Việt
Nam. Từ đây BHXH ở Việt Nam được chính thức thực hiện theo cơ chế thị
trường.

Trên cơ sở kế thừa những điểm ưu việt của các chính sách trước đây và
những thách thức đặt ra trong thời kỳ mới. Nghị định 12/CP ra đời có nhiều sửa
đổi, bổ sung ngay cả trong BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói
riêng. Nhưng chế độ hưu trí vẫn đóng một vai trò rất quan trọng Nghị định
12/CP ra đời có nhiều điểm khác biệt hơn so với trước đây . Cụ thể là :
- Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc
phải có một trong các điều kiện sau :
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và thời gian đóng BHXH đủ 20 năm
trở lên.
+ Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi mà có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên,
mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc 1 trong các trường
hợp sau đây:
• Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại.
• Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
• Đủ 10 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975 hoặc
ở Campuchia trước ngày 31/8/1989.
- Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương
thấp hơn mức lương qui định ở trên khi có 1 trong các điều kiện sau :
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm
đến dưới 20 năm.
+ Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm
trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
+ Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc nặng nhọc đặc biệt
độc hại (theo danh mục 10 Bộ lao động - Thương binh và xã hội và
Bộ Y tế quy định) đã đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà bị suy giảm
khả năng lao động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời).
- Đối tượng tham gia đóng BHXH để hưởng chế độ hưu trí gồm :
+ Người lao động làm trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.

+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức
nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều
ước quốc tế mà nước ta kí kết hoặc tham gia có qui định khác.
+ Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thộc
cơ quan hành chính sự nghiệp cơ quan Đảng, đoàn thể.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lượng vũ trang.
+ Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản
lý Nhà nước, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
+ Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương tới cấp huyện.
+ Ngoài ra các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong
và ngoài nước mà vẫn hưởng tiển lương hoặc tiền công thì cũng thuộc
đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
Qua những điều trên ta thấy đối tượng tham gia BHXH đó được mở rộng,
đáp ứng nhu cầu của người lao động, khắc phục được một vài hạn chế ở các vẳn
bản, chính sách trước đây.
Tuy nhiên, từ những qui định trên ta thấy vẫn còn nhiều điểm phải xem xét :
- Về điều kiện tuổi nghỉ hưu : đây là một trong những điều kiện cần đối với
người lao động khi nghỉ hưu. Người lao động cần phải đạt tới một độ tuổi
nhất định theo qui định mới được về nghỉ hưu. Theo điều lệ thì nam đủ 60
tuổi, nữ đủ 55 tuổi, tuỳ từng trường hợp mà tuổi về hưu có thể giảm từ 5 đến
10 năm. Những qui định này chưa thể hiện đúng mục tiêu của chế độ hưu trí
là bảo hiểm tuổi già, nghĩa là người lao động phải đạt đến một độ tuổi gọi là
tuổi già. Quy định chung về tuổi nghỉ hưu đói với nam là 60, nữ là 55 tuổi là
chưa có cơ sở khoa học nào khẳng định được tuổi đời của nữ giới thấp hơn
nam giới trong khi tuổi thọ của nữ giới lại cao hơn nam giới.
+ Việc qui định giảm tuổi về hưu đối với những người làm nghề hoặc
công việc nặng nhọc độc hại hoặc làm việc trong những khu vực có khí

hậu xấu cũng cần được làm rõ. Thực chất những người này không phải
già về mặt tuổi đời mà do khả năng lao động bị giảm sút, như vậy căn
cứ để xác định điều kiện về hưu phải là sự giám định suy giảm khả năng
lao động chứ không phải chỉ bằng việc giảm tuổi đời.
Vì vậy, việc giảm tuổi đời cho đối tượng nghỉ hưu chỉ là thể hiện một
phần ưu đãi xã hội thì không phải là nội dung vốn có của BHXH. Thực
chất những người này phải nghỉ việc để hưởng trợ cấp cứu tế xã hội cho
đến khi đủ tuổi sẽ được hưởng hưu mới đúng ý nghĩa của chế độ hưu trí.
+ Đối với những trường hợp bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở
lên mà được giảm tuổi để hưởng chế độ hưu trí cũng chưa thể hiện đúng
mục đích của chế độ hưu trí. Chế độ bảo hiểm hưu trí chỉ áp dụng cho
những người già, không còn khả năng lao động nữa. Do đó, nếu chưa
đạt đến một độ tuổi qui định để nghỉ hưu mà bị mất sức lao động hoặc
trợ cấp tàn tật, chúng ta không nên lẫn lộn giữa các đối tượng này gây ra
những vướng mắc về tiêu chuẩn chế độ mà các đối tượng được hưởng.
Tuy nhiên, do thực tế chúng ta chưa xây dựng được các chế độ trợ cấp
tàn tật và lại bỏ chế độ mất sức lao động vốn có trước đây nên có những
trường hợp mất khả năng lao động từ 61% trở lên phải xen ghép vào chế
độ hưu trí.
- Về thời gian tham gia đóng BHXH : Đây là điều kiện đủ để người lao
động được quyển hưởng trợ cấp hưu trí. Quy định phải có đóng góp BHXH
(phí BHXH ) là một bước tiến quan trọng trong hệ thống BHXH ở nước ta,
nhờ đó mà ngân sách Nhà nước không bị thâm hụt vì phải chi phí quá lớn
cho BHXH. Hơn nữa qui định phải đóng BHXH thể hiện được các mối quan
hệ trong BHXH thể hiện rõ trách nhiệm của các bên khi tham gia BHXH.
Theo qui định hiện hành thì phải có thời gian đóng góp BHXH tối thiểu
15 năm trở lên. Thời gian như vậy vừa là điều kiện đủ để người lao động
hưởng lương hưu, để cân bằng giữa đóng và hưởng BHXH ; vừa là cơ sở để
tính các mức lương cho người lao động. Tuy nhiên, thời gian đóng tối thiểu
15 năm cũng cần phải xem xét lại vì nếu đóng ít nhất 15 năm mà mức

hưởng thấp nhất cũng bằng mức lương tối thiểu và thời hạn hưởng trung
bình 18 năm thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của quỹ BHXH. Nếu đa số
người hưởng BHXH mà chỉ phải đóng BHXH ở mức 15 năm thì quỹ dễ bị
lạm chi.
- Về mức trợ cấp hưu trí : Theo qui định hiện hành nếu người nghỉ hưu có
trên 30 năm đóng BHXH thì ngoài tiền lương hưu hàng tháng ra khi nghỉ
hưu được nhận trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được tính từ năm thứ
31 trở đi, mỗi năm đóng BHXH thêm được nhận bằng 1/2 tháng lương bình
quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, nhưng không quá 5
tháng. Thực tế cho thấy đa số người lao động làm việc trong điều kiện bình
thường nếu đi làm từ năm thứ 18 thì đến khi nghỉ hưu họ sẽ đóng góp trên
40 năm đối với nam và trên 37 năm đối với nữ. Thế nhưng theo qui định thì

×