Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.94 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
Dù ở phương thức sản xuất nào, con người và tài sản luôn bị đe doạ bởi
thiên tai và các tai biến bất ngờ, phát sinh ngay trong các hoạt động của con
người. Suốt trong lịch sử phát triển cuả mình, loài người đã phải chịu đựng và
chứng kiến biết bao thảm hoạ, nào là động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố, dịch
bệnh rồi thì chiến tranh, tai nạn giao thông, phóng xạ, ô nhiễm, hoả hoạn. v.v…
Các hiện tượng này luôn bất động và phát triển không theo một trình tự chu kỳ.
Vì thế để đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã có những
biện pháp đấu tranh nhằm chinh phục và cải tạo thiên nhiên. Đồng thời con
người phải tìm biện pháp đề phòng, ngăn ngừa những tai nạn xấu có thể xảy ra.
Tuy nhiên, kết quả đấu tranh còn phụ thuộc vào trình độ khoa học - kỹ
thuật và tiềm lực phát triển của mỗi nước cũng như sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội. Song cho dù kha học - kỹ thuật có phát triển mức nào chăng
nữa thì con người vẫn tồn tại trong lòng thiên nhiên, gánh chịu hậu quả do thiên
nhiên gây ra với mức độ ngày càng giảm.
Để khắc phục hậu quả của thiên tai và tai nạn, đảm bảo ổn định sản xuất
và đời sống, mỗi gia đình, đơn vị sản xuất kinh doanh hay Nhà nước chỉ có một
khoản dự trữ lớn để bù đắp thiệt hại và trang trải chi phí cho phần trách nhiệm
phát sinh. Biện pháp tạo bảo hiểm bằng cách tiết kiệm tiền, dự trữ hiện vật hàng
hoá của từng gia đình, từng doanh nghiệp tỏ ra kém hiệu quả về mặt kinh tế,
nhất là khi xẩy ra thiệt hại lớn. Dự trữ lớn của Nhà nước thì lại không thể trang
trải tổn thất nhỏ lẻ, phân tán của từng cá nhân gia đình hay một doanh nghiệp bị
thất bại nhất là trong bối cảnh này nước ta đang chuyển dần sang nền kinh tế thị
trường, doanh nghiệp phải tự chủ và bảo toàn vốn của mình hay bị thiên tai và
tai nạn bất ngờ gây thiệt hại. Biện pháp hữu hiệu nhất khắc phục được hai
nhược điểm trên là tổ chức bảo hiểm như một dịch vụ tài chính có tính chất
chuyên nghiệp - bảo hiểm thương mại (hay còn gọi là bảo hiểm rủi ro)
Đối tượng của bảo hiểm thương mại là: con người, tài sản và trách nhiệm.


Quỹ bảo hiểm được lập ra từ sự đóng góp cá nhân, đơn vị tham gia baỏ hiểm.
Ngoài ra còn dùng để chi lập quỹ dự trữ, chi cho việc quản lý của doanh nghiệp,
chi thực hiện nghĩa vụ đói với ngân sách Nhà nước. trong những trường hợp cụ
thể được chi dùng cho việc tiến hành các biện pháp để phòng hạn chế tổn thất.
Như vậy có thể nói bảo hiểm có một sức mạnh tài chính để trở thành tấm lá
chắn về kinh tế trước sự tàn phá của hiểm hoạ bất ngờ.
Thực chất bảo hiểm là sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường đối với
người được bảo hiểm về những mất mát thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do
những rủi ro gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho
những đối tượng đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Bên cạnh những rủi ro nghiêm trọng do thiên tai gây ra, chính bản thân sự
phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đã đem
đến cho con người những sự cố bất thường không thể tránh khỏi.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hàng năm trên thế giới có khoảng
7000 vụ tai nạn lớn nhỏ xẩy ra trên biển, cứ hai giây có một vụ tai nạn ô tô,
trung bình mỗi ngày xẩy ra một trận động đất hoặc núi lửa phun, hai trận gió
bão tuyết hoặc sóng thần, làm hàng triệu người chết và bị thương, số tài sản bị
thiệt hại tính bằng tiền để đủ nuôi toàn bộ dân Châu Phi.
Trong số các tổn thất nghiêm trọng xẩy ra, đặc biệt phải kể đến các tổn
thất về người và tài sản do tai nạn về điều khiển xe cơ giới gây ra, Có thể nói
đây là một thiệt hại lớn nhất (gấp 10 lần tai nạn máy bay và xe lửa). Cùng với
công cuộc cơ khí hoá và tự động hoá, tai nạn giao thông đường bộ đã tăng lên
một con số đáng kể và trở thành hiểm hoạ lớn đối với xã hội. Riêng ở Nhật Bản,
những người bị tai nạn ô tô, bị thương, bị chất trong tai nạn ô tô đã tăng từ
21.540 người trong năm 1948 lên 78.764 trong năm 1994, tức là tăng 36 lần chỉ
trong vòng 6 năm.
Ở Pháp tháng 12/1992 đã xẩy ra gần 13.000 vụ đụng xe, làm 648 người bị
thiệt mạng.
Ở nước ra, đi đôi với sự gia tăng của các loại phương tiện cơ giới, tai nạn
giao thông cũng ngày một gia tăng. Theo cục Cảnh sát giao thông đường bộ -

đường sắt, chỉ tính riêng từ 1.1. đến 20.2.2000 trên phạm vi cả nước đã xẩy ra
4427 vụ tai nạn giao thông làm chết 1282 người và bị thương 4685 người. So
với cùng kỳ năm trước, tình hình tai nạn giao thông trong thời gian qua tăng
14,5% số vụ; 22,56% số người thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông so với
vùng kỳ năm trước tăng 1 người.
Trong số các phương tiện gây tai nạn có 35,14% là xe ô tô vận chuyển
hành khách, 63% là xe mô tô. Đặc biệt có một số vụ tai nạn giao thông rất
nghiêm trọng đều xẩy ra đối với ô tô khách và do lôĩ của chủ phương tiện:
Vụ tai nạn xe khách mang biển số 63A - 53 - 89, bị mất phanh khi xuống
dốc tại đèo Cù Mông, xe đâm vào vách đá làm 36 người chết, 47 người bị
thương.
Vụ tai nạn tại đèo Cả tỉnh Khánh Hoà, xe 75B - 18 - 91 của HTX ô tô
Huế tỉnh Thừa Thiên Huế so va chạm với một xe đã bốc cháy dữ dội rồi lao
xuóng biển, 29 hành khách trên xe chết và 11 người bị thương nặng, xe bị phá
huỷ hoàn toàn.
Vụ tai nạn xe khách mang biển số 37H -17 - 00, lái xe đã tự ý trao tay lái
cho chủ xe không có bằng lái nên làm chết 6 người đi xe máy đang đi ngược
đường.
Qua những số liệu trên cho thấy những vụ tai nạn để lại hậu quả rùng rợn
như thế thiết nghĩ nếu không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì làm sao có thể
kéo lại được phần nào mất mát và thiệt hại khủng khiếp ấy.
Như vậy, cũng như các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ khác,
hoạt động GTVT cần được bảo hiểm hay nói một cách khác hoạt động GTVT
không thể tách rời bảo hiểm. Vì thế sự ra đời của loại hình bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là đòi hỏi tất yếu.
Trên thế giới, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba được ra đời ở thế kỷ XIX gắn kèm với sự phát minh và sử dụng xe
hơi.
Tốc độ phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này rất mạnh mẽ, nhất là đối
với các nươc phát triển như: Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật v.v… Doanh thu của nó

chiếm tỷ trọng lớn (trên dưới 30% ) Trong tổng doanh thu toàn bộ hoạt động
bảo hiểm. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có qui định đây là loại
bảo hiểm "bắt buộc"
Ở Việt Nam do những đặc điểm trên, đặc biệt là do tổ chức hoạt động của
xe cơ giới là nguồn nguy hiểm cực độ, thực tế đã gây ra tai nạn thường xuyên
không thể lường trước được. Hơn thế nữa, để đảm bảo quyền lợi cho người bị
nạn khi có thiết hại xảy ra ngày 10/3/1998 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định
số 30/HĐBT qui định bắt buộc tất cả các chủ xe cơ giới đăng ký hoạt động trên
lãnh thổ các nước CHXHCN Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe tại Bảo Việt.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe ở đây là phần trách nhiệm bồi thường
những hậu quả được tính bằng tiền theo qui định của luật pháp hoặc phán quyết
của toà án quyết định chủ xe của mình gây tai nạn làm cho:
+ Bên thứ 3 bị thiệt hại hoặc bị thương tích.
+ Của cải, tài sản của bên thứ 3 bị huỷ hoại, hư hỏng.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là biện pháp kinh tế huy động sự
đóng góp của các chủ xe hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ đó chủ yếu được sử
dụng để bồi thường, bù đắp cho các chủ xe trong thời gian xe hoạt động gây ra
tai nạn, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe, nhằm góp phần ổn định về
mặt tài chính cho chủ xe.
II. TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA
CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá và đặc biệt là khi xoá bỏ
cơ chế bao cấp, quỹ bảo hiểm chính là nguồn bảo đảm tài chính chắc chắn cho
các tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả các hiểm hoạ, bảo toàn và tiếp tục
phát triển các nguồn vốn của mình. Các nhà kinh doanh có lắm nỗi lo: Lo sao
"có vốn làm ăn" là nỗi lo muôn thuở, rồi lại lo "cụt vốn, sạt nghiệp" khi không
may gặp phải rủi ro nhất là đối với nguồn vốn trợ cấp tài chính trong cơ chế thị
trường hiện nay. Quy mô đầu tư càng lớn thì rủi ro đầu tư cũng càng cao. Họ
lựa chọn và gửi gắm doanh nghiệp của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài

sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Như ta đã biết, tai nạn giao thông ngày một gia tăng, một vấn đề tồn tại
còn hết sức phức tạp là việc giải quyết hậu quả của nó. Bởi vì chức trách và khả
năng giải quyết chỉ ở mức độ hết sức hạn hẹp, hình thức trước những mất mát
đau thương của nạn nhân. Theo như luật pháp đã quy định: chủ xe cơ giới phải
có trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại về người và tài sản do sự lưu
hành xe của họ gây ra đối với người thứ ba. Song trên thực tế, khi xảy ra tai nạn
do trách nhiệm hình sự mà có nhiều người lái xe bỏ chạy, cũng như do điều kiện
kinh tế của chủ xe còn hạn hẹp không dư khả năng bồi thường cho nạn nhân. Vì
thế trong rất nhiều trường hợp người bị nạn không biết khôi phục lại thiệt hại,
mất mát đầu tư.
Như vậy để đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn khi xảy ra tai nạn cũng
như bảo đảm cho chủ xe (lái xe) khỏi những hoang mang về tinh thần và những
chi phí về kinh tế không thể lường trước nổi, cần thiết phải có một biện pháp
kinh tế thành lập quỹ dự trữ bồi thường trách nhiệm dân sự của chủ xe.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh trách nhiệm dân
sự. Khi tai nạn giao thông xảy ra, trong đó lỗi của lái xe thì Công ty bảo hiểm
(Nơi mà chủ xe tham gia bảo hiểm) sẽ thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình
tiến hành việc chi bồi thường cho các chủ xe một cách kịp thời, giúp các chủ xe
có thêm điều kiện vật chất để nhanh chóng khắc phục hậu quả xẩy ra không
khải chi ra những khoản chi bất thường gây mất cân đối về mặt tài chính.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe ra đời đã có tác dụng:
- Đề ra các biện pháp để phòng ngừa và ngăn ngừa tai nạn tích cực giảm
số vụ tai nạn có thể xẩy ra. Bằng cách thông qua công tác bảo hiểm trách nhiệm
chủ xe, thúc đẩy các lái xe thực hiện tốt biện pháp an toàn nhằm giảm một cách
tối đa các tổn thất có thể xẩy ra. Bên cạnh đó thông qua việc thu phí bảo hiểm
để có nguồn chi vào việc ngăn ngừa các tai nạn xảy ra, cụ thể là được thực hiện
thông qua việc chi đề phòng, hạn chế tổn thất như: chi làm đường lánh nạn, mở
rộng hoặc làm thêm đường xá.v.v…
Trong điều kiện cơ chế quản mới hiện nay, các đơn vị được giao vốn và

tự cân đối về mặt tài chính. Vì vậy, đối với các chủ xe, khoản chi bồi thường
cho người bị nạn khi không may xe gây tai nạn cho người khác là rất lớn. Song
nếu chủ xe đã tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, mà gặp phải tai nạn gây
thiệt hại cho người thứ ba thì các chủ xe đã có nguồn để bì đắp sự thiệt hại. Đó
chính là số tiền bồi thường giúp cho các đơn vị, chủ thể ổn định và phát huy
quyền tự chủ về tài chính khi không may xẩy ra tai nạn mất ngờ phát sinh trách
nhiệm của xe, làm thiệt hại kinh tế của chủ xe.
Bên cạnh các tác dụng trên, bảo hiểm TNDS còn hỗ trợ chủ xe trong việc
thương lượng, hoà giải với nạn nhân, xoa dịu, làm bớt căng thẳng giữa lái xe với
nạn nhân.
Đồng thời với người bị nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng giúp cho
họ giảm bớt những khó khăn ban đàu, có sự giải quyết thích đáng khi tai nạn
xẩy ra.
Với những tác dụng trên, một lần nữa lại khẳng định sự cần thiết khách
quan cũng như sự "bắt buộc" của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là tất
yếu.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI
THỨ BA
1. Đối tượng bảo hiểm - Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của
chủ xe
Đối tượng của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba chính là phần trách nhiệm dân sự của các chủ xe. Kể cả các
chủ xe trong nước và các chủ xe là người nước ngoài có giấy phép sử dụng xe
trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.
Trách nhiệm dân sự của chủ xe bao gồm trách nhiệm trước sự hoạt động
của nguồn nguy hiểm cao độ, trách nhiệm về việc điều khiển xe của người lái
xe. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không chịu trách nhiệm về
mặt hình sự cuả chủ xe, cũng như thiệt hại vật chất của bản thân xe.
Đối tượng bảo hiểm là nghiã vụ hay trách nhiệm bồi thường của chủ xe.

Đối tượng mang tính trìu tượng, hay được xác định bằng một con số cụ thể. chỉ
khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn trên lãnh thổ nước ta, thì khi đó đối
tượng mới được xác định.
Đi đôi với trách nhiệm của chủ xe là trách nhiệm bồi thường của bảo
hiểm. Song trách nhiệm đó chỉ phát sinh khi có các điều kiện sau xẩy ra:
1- Có thiệt hại thực tế
Trong thực tế xe đã gây tai nạn làm thiệt hại về tài sản hoặc gây thương
tích đến tính mạng hay tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. Những thiệt hại này
có thể tính bằng số liệu cụ thể từ những trường hợp đặc biệt có thể tính toán
bằng số tương đối phù hợp với tình hình thực tế như:
+ Hậu quả tai nạn gây ra thiẹthại về hoa mầu sắp đến ngày thu hoạch.
+ Đối tượng thiệt hại là xúc vật sắp đến ngày sinh đẻ.
2- Hành vi trái pháp luật:
Tai nạn xảy ra, chủ xe phải có lỗi về mặt hình sự hoặc chủ xe (lái xe) đã
vi phạm quy tắt đảm bảo an toàn luật lệ giao thông xã hội. Ngoài ra có thể vi
phạm về đường lối chính sách của Đảng - Nhà nước cũng thuộc hành vi trái
pháp luật được đánh giá cao thấp khác nhau tuỳ theo mức độ vi phạm bằng mức
độ lỗi cụ thể.
3- Mối quan hệ nhân của giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã xẩy
ra:
Thiệt hại xẩy ra: thiệt hại xẩy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái
pháp luật. Ngược lại hành vi pháp luật là nguyên nhân trực tiếp, có ý nghĩa
quyết định gây ra thiệt hại. Không có hành vi trái pháp luật, chắc chắc không có
thiệt hại.
Trường hợp hành vi trái pháp luật không phải là nguyên nhân chính gây
ra thiệt hại nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp, gây ra tai nạn thì cũng được coi
là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của thiệt hại thức tế.
Ví dụ: Một số ô tô đang chạy trên đường, đội nhiên thấy xuất hiện xe
máy trong ngõ hẻm lao ra. Buộc người lái xe ô tô đánh tay lái về phía lề đường
bên phải để tránh chiếc xe máy. Nhưng không may đã gây tai nạn cho người đi

xe đạp trong sát lề đường. Trường hợp vụ tai nạn đó người lái xe máy là nguyên
nhân quyết định, gây ra tai nạn. Do với hành vi của người lái xe ô tô và với thiệt
hại của người lái xe đạp vẫn có mối quan hệ nhân quả.
4- Người gây tai nạn có lỗi:
Khi xẩy ra tai nạn, chủ xe (lái xe) phải nhận thức được hành vi của mình
là trái pháp luật. Hành vi đó có thể do lỗi cố ý, lỗi vô ý hoặc thiếu tinh thần
trách nhiẹm. Mức độ lỗi đó sẽ là cơ sở để tính toám trách nhiệm bồi thường cho
nạn nhân.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ tai nạn nào người lái xe cũng có lỗi.
Thực tế có những vụ tai nạn xảy ra không do lỗi của ai. Nguyên nhân tai nạn là
do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Ví dụ: Xe đang chạy bị mất phanh đâm xuống vực hoặc va vào vách
đá.v.v…
Tóm lại, khi có tai nạn xẩy ra, trách nhiệm dân sự của chủ xe hay trách
nhiệm bồi thường của bảo hiểm chỉ phát sinh khi vụ tai nạn có ít nhất 3 điều
kiện.
- Thiệt hại thực tế
- Hành vi trái pháp luật
- Mối quan hệ nhân quả giữa chúng
Ba điều kiện đó phải xẩy ra đồng thời trong một vụ tai nạn. Không phát
sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm nếu thiếu một trong 3 điều kiện trên.
Còn điều kiện thứ tư có thể có, có thể không xẩy ra nhưng vẫn phát sinh trách
nhiệm bồi thường.
2. Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Quan hệ ràng buộc của chủ xe với bảo hiểm là nghị định 30/HĐBT và
quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe do Bộ Tài chính ban hành, quy
định quyền lợi và trách dân sự của chủ xe, đảm bảo lợi ích cho chủ xe đồng thời
có tác dụng đảm bảo an toàn chung cho xã hội.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự được thiết lập dựa trên nguyên tắc
bảo hiểm toàn diện. Tất cả mọi yêu cầu, mọi rủi ro cơ bản đều được bảo hiểm.

Đảm bảo yêu cầu, trong những năm qua hạn mức trách nhiệm của bảo
hiểm cho mỗi vụ tai nạn luôn luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
thực tế. Hơn thế nữa đã tiến tới bảo hiểm toàn bộ theo thiệt hại thực tế, để đáp
ứng tốt nhất yêu cầu đó.
Quy định mức miễn bồi thường hay các biện pháp chế tài chủ yếu nhằm
tác dụng giáo dục chủ xe và lái xe có ý thức trách nhiệm hơn trong đề phòng và
hạn chế tai nạn. Do đó các quy định mức miễn thường được xem xét điều chỉnh
cho phù hợp với sự biến động của giá cả.
Quy tắt bảo hiểm thiết lập biêt gắn trách nhiệm đề phòng ngăn ngừa tai
nạn với nguyền lợi được hưởng bồi thường. Cơ quan bảo hiểm tiến hành bồi
thường có lưu ý đến công tác đề phòng, ngăn ngừa tai nạn cho chủ xe. Chủ xe
nào thực hiện tốt trách nhiệm khi xảy ra tai nạn sẽ được bồi thường. Chủ xe nào
vi phạm trách đề phòng thì tuỳ theo mức độ sẽ áp dụng các mức miễn thường
khác nhau.
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới quy định những điều
khoản chủ yếu sau đây:
- Điều khoản về rủi ro được bảo hiểm
- Điều khoản về phạm vi và trách nhiệm của bảo hiểm
- Điều khoản về phí bảo hiểm (mức phí và thời gian nộp).
- Điều khoản quy định sự thay đổi làm tăng giảm tính chất rủi ro của
từng loại xe.
- Điều khoản đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tai nạn
- Điều khoản về thời gian hiệu lực bảo hiểm
- Điều khoản quy định quyền khiếu nại đòi bồi thường.
Ngoài những điều khoản chủ yếu trên, quy tắc còn có một số điều khoản
phụ.
3. Người được bảo hiểm
Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng như bảo hiểm tài sản, người
được bảo hiểm bao giờ cũng là người được bồi thường.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe, khi xe gây thiệt hại cho bên

thứ ba, người được bảo hiểm bồi thường là chủ xe hoặc người đại diện cho chủ
xe. Đại diện chủ xe uỷ quyền.
Chủ xe là người được pháp luật Nhà nước công nhận có đủ các quyền hạn
sau
- Quyền sở hữu xe
- Quyền quản lý xe
- Quyền cho thuê xe
- Quyền bán hoặc nhượng xe
Như vậy, lái xe không phải là chủ xe. Trước pháp luật Nhà nước, lái xe
không đủ tư cách pháp nhân là người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự
trước Nhà nước về sự hoạt động xe của mình. Lái xe chỉ là người được chủ xe
uỷ quyền điều khiển xe hoặc là người làm công ăn lương cho chủ xe. Do đó lái
xe cũng phải là người được bảo vệ trực tiếp mà chính chủ xe mới là người được
bảo hiểm về mặt trách nhiệm dân sự.
Khái niệm bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là
phía nạn nhân trong vụ tai nạn. Bên thứ ba có thể là người trực tiếp bị tai nạn,
hoặc những người có tài sản, hành lý bị tai nạn, hoặc những người có tài sản,
hành lý bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn gây ra. Hoặc không phải bất kỳ
người nào là nạn nhân trong vụ tai nạn cũng thuộc bên thứ ba. Trong lúc bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe có quy định loại trừ những người không
thuộc người thứ ba, đó là:
- Thân nhân của chủ xe
- Thân nhân của người lái xe
- Người làm công cho chủ xe hoặc những người ở trên xe
- Của cải và tài sản của các đối tượng trên thị trường bị thiệt hại cũng như
những tài sản của những người khác đang được giam giữ tại chủ xe.
Tất cả các đối tượng trên đây khi bị tai nạn gây thiệt hại không thuộc về
bên thứ ba.
Bên thứ ba trong tai nạn giao thông không giới hạn số người. Tuỳ theo
từng vụ thực tế bên thứ ba có thể là một hoặc nhiều người.

Bên thứ ba trong vụ tai nạn không phải là người được hưởng bồi thường
của bảo hiểm. Vì họ không có mối quan hệ ràng buộc gì trong hợp đồng bảo
hiểm. Việc giải quyết bồi thường cho nạn nhân chỉ là việc giải quyết linh hoạt
nhằm đơn giản về mặt thủ tục thanh toán tiền bồi thường và tăng cường công
tác tuyên truyền tác dụng của bảo hiểm sâu rộng. Bên cạnh đó giải quyết bồi
thường cho nạn nhân còn phát huy được tính kịp thời, giúp người bị nạn có điều
kiện nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn.
4. Phạm vi bảo hiểm
Cơ quan bảo hiểm nhận bảo hiểm các rủi ro không lường trước được gây
ra tai nạn làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Những rủi ro được bảo
hiểm là những rủi ro do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cụ
thể là những rủi ro tai nạn, thiệt hại sau:
- Tai nạn gây ra làm thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ đối với
bên thứ ba.
- Tai nạn gây ra làm thiệt hại về đường sá, tài sản, cầu sống của bên thứ
ba.
- Hậu quả tai nạn gây thiệt hại đến quá trình sản xuất và đời sống cuả các
tài sản bị hư hỏng và huỷ hại làm cho nạn nhân bị mất hoặc giảm thu nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp hạn chế thiệt
hại.
- Các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
những biện pháp không mang lại hiệu quả ).
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu
chữa, ngăn ngừa tai nạn.
- Chi phí cần thiết cho việc cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn.
- Chi phí cần thiết cho việc cứu chữa và chăm sóc nạn nhân.
Nhìn chung, vi phạm trách nhiệm của bảo hiểm rất rộng, song không phải
là tất cả mọi tai nạn đều thuộc bảo hiểm. Cụ thể những tai nạn xẩy ra do những
nguyên nhân sau, mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe nhưng
không được bảo hiểm bồi thường:

- Tai nạn xẩy ra do lái xe có hành động cố ý gây ra tai nạn. Hoặc lái xe
không đủ điều kiện hợp pháp để lưu hành xe như lái xe đang trong tình trạng
say rượu hay sử dụng quá nhiều chất kích thích.
- Nạn nhân tự mình lao vào xe đang chạy hoặc nhảy lên nhảy xuống khi
xe chưa dừng bánh.
- Các vật dụng chuyên chở trên xe rơi xuống đường hoặc va quyệt gây tai
nạn làm thiệt hại cho phía ngươì đi đường. Trường hợp này tai nạn sẩy ra không
do sự hoạt động của xe mà do bốc xếp hay không đảm bảo đủ yêu cầu vận
chuyển. Trách nhiệm đó thuộc lỗi người chuyên chở không thuộc chủ xe.
- Tai nạn xẩy ra do xe không đảm bảo kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu
hành teo quy định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ như: Phanh
xe hỏng, vô lăng không đièu khiển được, xe đi đêm không có đèn, xe đang trong
thời gian sửa chữa hoặc chậy thử ….
- Xe chuyên chở quá trọng tải, chạy quá tốc độ quy định gây thiệt hại đến
đường xá, cầu cống và người thứ ba.

×