Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn: " Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.61 KB, 92 trang )

TRƯỜNG..........................
KHOA……………………

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI

Một số biện pháp đẩy mạnh
xuất khẩu hàng may mặc ở
Tổng Công ty Dệt May Việt
Nam


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

6

CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của

8

xuất khẩu hàng may mặc trong doanh nghiệp
I. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu

8

II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam.

14



III. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu

16

hàng may mặc trên thế giới.
CHƯƠNG II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở

29

Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1995-1998.
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.

29

II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty

42

Dệt- May thời kỳ 1995-1998.
III. đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của hoạt động

61

xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh

67

xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam

trong thời gian tới.
I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong

67

thời gian tới.
II. Những giải pháp chủ yếu về phía Tổng Cơng ty Dệt-May

73

Việt Nam.
III. Một số kiến nghị Chính phủ.

80


KẾT LUẬN

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

2


LỜI MỞ ĐẦU

Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế

hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều
phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không
một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh.
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy
đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước
có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm
lớn về cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm
kỳ khố VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có
hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng
nghành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh
cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế
giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những
năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan
trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và
vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan
hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo
hướng đa dạng hố, đa phương hố, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC . .. Điều
này đã đạc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động.
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt
hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều
kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn
phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “ Một số biện pháp đẩy
3



mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam” góp
phần giải quyết những vấn đề đặt ra quan trọng và cần thiết. Trong đề tài này,
tơi chỉ tập trung phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu
hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998,
tìm ra những thành cơng và những vấn đề cịn tồn tại ở Tổng Cơng ty . Trên cơ
sở đó, đưa ra một số biện pháp kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng
cường hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong
thời gian tới.
Đề tài chia làm ba chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu
hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II : Thực trang xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt
may Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998.
Chương III : Phương hướng và giải phấp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu
hàng may mặc của tổng Cơng ty trong thời gian tới.
Trong q trìng tìm hiểu và hồn thành đề tài, Tơi đã được sự chỉ bảo chi
tiết của thầy giáo - MBA Bùi Anh Tuấn, sự giúp tận tình của các bác, các cơ ở
Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận
được ý kiến nhận xét giúp tơi có thể hồn thiện kiến thức chun mơn của
mình.

4


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA
XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC TRONG
DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU VÀ VAI TRỊ CỦA
XUẤT KHẨU

1. Khái niệm :
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh bn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngồi nhằm
bán sản phẩm, hàng hố sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua
đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn định
từng bước nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu
tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh
nghiệp đã đa dạng hố hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hố
của một q trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với
tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam
a/ Xuất khẩu uỷ thác
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho
đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số
lơ hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi
phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền
5


thu lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu
khơng cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện
FOB tại Việt Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh,
tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là
hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất

cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng
và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động
kinh doanh của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh
doanh thấp khơng bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và
khách hàng bị thu hẹp vì Cơng ty khơng có liên quan tới việc nghiên cứu thị
trường và tìm khách hàng.
b/ Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết
hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp
đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và
quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh
doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh
phải tiến hành các khâu công việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng
phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá
làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán
và giải quyết khiếu nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh
doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu
6


thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh
doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản
phẩm, nhãn hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy năm thì
áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, am hiểu
thương trường quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn hiệu sản phẩm cịn xa lạ với

khách hàng
c/ Gia công hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của
một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho
bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia cơng). Tóm lại, gia công
xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài
về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để
tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia
công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia cơng xuất khẩu là hình thức xuất khẩu
lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong
hàng hố) chứ khơng phải dưới dạng xuất khẩu nhân cơng ra nước ngồi.
Gia cơng xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế.
Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt
gia cơng và bên nhận gia cơng.
3.Vị trí, vai trị của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hố là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc
tế. Nó khơng phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan
hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngồi
nhằm bán sản phẩm, hàng hố sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ,
qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hố phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt
động kinh tế đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây
thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ
7


thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hố
của một q trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với

tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật cịn thấp kém, khơng đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh
xuất khẩu thu ngoại tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan
trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế
đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ chương
đúng đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết, xuất khẩu
hàng hố thực sự có vai trị quan trọng, cụ thể là:
Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để
đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về,
mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hố dịch vụ khác
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu
(xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn
nhu cầu nhập khẩu trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là
tiền đề của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển kinh tế,
tránh được nguy cơ tụt hậu với thế giới, đồng thời cịn tìm cách đuổi kịp thời
đại, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra cơng cuộc cơng nghiệp hố và hiện đại hố
đất nước. Trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một
điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn
ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.

8


- Viện trợ đi vay, đầu tư ....

- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hố, dịch vụ là
nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo
đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài
hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn
được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí
xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào
những ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả
về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn
của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế
tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng
này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ.
Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương
đối.
Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất nước vừa
làm cho việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất khẩu, các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất
lao động lên cao. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi
dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa
lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản
xuất, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất
khẩu mũi nhọn.
9



Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm
thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy
mơ, chất lượng thấp (vì khơng được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David
Ricardo tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có
điều kiện nhất, có lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên mơn hố
và phân cơng lao động quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị
trường, trở thành "độc quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất
khẩu mũi nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé nhưng nó có
động cơ, do đó nó có thể kéo cả đồn tàu tiến lên. Hiện nay, đây là hướng xuất
khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại
tệ.
Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh
nghiệp sẽ tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các
ngành hàng có liên quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho
ngành dệt cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến
ngành trồng bông, đay cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành
dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành
sản xuất trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các
ngành sản xuất và tỷ trọng của chúng so với tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh cịn trong
nội bộ ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị
trường thế giới cũng sẽ phát triển hơn. Tức là xuất khẩu hàng mũi nhọn làm
thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai
thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước.
Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất
lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước
mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất


10


nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát
triển.
Tồn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo
hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.
Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập
và tăng mức sống.
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần
thêm lao động, cịn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao
động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển
ngành nghề cần nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước hơn 70
triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất
lớn trong điều kiện nước ta hiện nay.
Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường
thế giới tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân
thanh tốn, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước:
GDP, lạm pháp, thất nghiệp và cán cân thanh tốn. Cao hơn nữa là xuất siêu,
tăng tích luỹ ngoại tệ, ln đảm bảo khả năng thanh tốn với đối tác, tăng được
tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị
trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề
thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng,
đầu tư, hợp tác, liên doanh ....
Tóm lại : phát triển hoạt động xuất khẩu là một chiến lược để phát triển
nền kinh tế nước ta.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM.

Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được
11


nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các
ngành kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền
kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn
việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường
chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngồi.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước
ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu cịn phải có nhiệm vụ góp phần
thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì cơng tác xuất khẩu phải nhận rõ các
vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả
mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu
cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là


12


viện trợ, đi vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, cịn đi vay sẽ tạo thêm gánh
nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát
triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng
dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo
International Trade 1980-1990 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ
xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các
nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở
nước ta nền cơng nghiệp cịn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất
khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử
dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị
hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích
các ngành lts phát triển cả về quy mơ lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động
đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu
quả các lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ
thuật tiên tiến giúp có thêm nguồn lức cơng nghiệp mới, tăng năng suất lao
động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hố của quốc gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu cịn có vai trị tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa
các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc
tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Cơng ty nước ngồi biết đến
năng lực của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ bn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó khơng chỉ đóng vai trị xúc tác, hỗ trợ phát triển mà
nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc

giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật,
lao động, nguyên liệu, thị trường...
13


III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG NHẬP
KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại
quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,
người ta có thấy đủ loại hàng hố từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật,
Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa
qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị
khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 1998-200 giá trị sẽ
tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1993-1997). Đây là thị
trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định bn bán dệt may
từ năm 1992 trong đó có hạn ngạch gia cơng thuần t (TPP). Có nghĩa là
khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba th gia cơng tại Việt
Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ
EU sang gia cơng tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì khơng tính
vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến
vững chắc. Năm 1993 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào
EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1996 đạt 400 triệu USD và dự kiến
năm 1998 sẽ đạt 650 triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng


Chủng loại

1995

1996

Jacket

Cat 21

8,9

9,4

T- Shirt

Cat 4

2,9

3,71

áo len

Cat 5

1,65

1,81


Quần

Cat 6

1,65

2,4

áo sơ mi nữ

Cat 7

0,91

1,49

Cat 15

0,13

1997

0,17

áo khoách nữ

11,7

14



áo dài nữ

Cat 26

0,19

0,39

Váy ngắn

Cat 27

0,14

0,23

(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim
ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận,
chỉ tính riêng năm 1996 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước
EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp
(60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển
(7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp
Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị
trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt

hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân
công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho
các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh
tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả
thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ
ba để tái xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí
gia cơng, giá trị ngun vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế
nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà
Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn
ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước khơng dùng hết có thể chuyển
15


sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam
và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp
cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của
ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán
giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây
là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với
những địi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra
chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.

Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người
26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là khơng nhỏ, hàng năm Nhật Bản
nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1994 hàng may Việt Nam
xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1996 xuất sang Nhật chiếm 90%
kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt
khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía
Bắc gia cơng, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư
tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm
vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị
trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ
khá đơng, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập
quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng

16


hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm
1996 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á của
Hoa Kỳ.
Nước

Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc
6,1
Hồng Kông
5

Hàn Quốc
1,8
Đài Loan
2,3
Các nước ASEAN khác
4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm vận
viện trợ và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hố mối quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The
Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là
điều kiện chìa khố để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp
dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ
phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt
Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ơ âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam
MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất
cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác
được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không
tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có
mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh tốn cịn là một vấn
đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả
tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải
sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép
vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1994 đạt 2 triệu USD, năm 1995 đạt

17



5 triệu, năm 1996 đạt 25 triệu và năm 1997 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ
là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất
khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị
trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều
nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu tan vỡ thì
tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai
trị quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian
dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người
tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng
may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đơng Âu tan vỡ thì kim
ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may
mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng
chuyến cịn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương
thức thanh tốn hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy
năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp
cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các
doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy
lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức.
Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các
nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc
các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương
thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về
mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp

nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Cơng ty. Dưới sức ép đó sẽ xố

18


bỏ đi được các Cơng ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn
sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người
hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là
một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN cịn là một thị trường có nền
văn hố tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống
nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam
xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có
những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại
khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt
Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750
triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số khơng nhỏ có sức hấp dẫn
đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của
nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do
vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu,
một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ
có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may
mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm
tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần
phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để.
Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ

ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp
cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ

19


chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động,
về sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân
hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hố ở Ln Đơn, Paris,
Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức
du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thơng quốc tế, các mạng lưới và
trung tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho
thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế
này sẽ khơng thể khơng tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới
và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc
sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các
mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu
vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc
với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung

Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự cơng bằng giữa các nước có nền cơng
nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên
20


một số đặc điểm sau:
+ Năm 1997 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn
ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký
hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 1998-2000, điều đó sẽ mở ra một
triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy
chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu
chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may
cho Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho
Trung Quốc vào 1/7/1997 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường
khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng
may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu
thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và
hàng may mặc nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba
lớp (cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là
giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may khơng ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao
năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng
may mặc đã đi vào hoạt động.

+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng
nước ngồi phải làm gia cơng ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời
gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao
hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành
sản phẩm quần áo và liên quan tới gia cơng. Trong khi đó, giá cả sản phẩm
bán ra lại hạ mà giá gia cơng của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do
21


yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân.
Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước
ngồi.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các
doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương
mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng
dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá
cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước
nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và
trong nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia cơng,
xuất khẩu trực tiếp cịn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung
cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có
tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1995 tăng gấp 5 lần so với năm 1991. Đây là
con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn
vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia cơng đem lại là 150 triệu USD
trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1996 là 194 triệu USD
trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này

khơng mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư khơng ngừng của các doanh
nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra
đời, các xí nghiệp may như : Cơng ty may 10, Cơng ty may Việt Tiến, Công ty
may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị,
đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm
chất lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã

22


thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công
ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam các Cơng ty nước ngồi cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào
ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động
thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành
may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân
không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các
yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất
hàng may mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các
Cơng ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng
kể. Năm 1997 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 1998 con
số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng
nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất,
chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất

cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt
Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết
mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn
các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ
các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng
công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh
những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng
đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong
thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau
và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc cơng nghệ một số đơn vị do
nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước
23


ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn
chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế
kỷ. Bên cạnh đó cơng tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ.
Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập
luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc
thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về
rồi mới tính chất đào tạo cơng nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo
dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Cơng ty vì nguồn vốn vay đầu tư khơng
được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận ngun vật liệu và thành phẩm có trường hợp Cơng tylàm
hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :
định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm
giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra
những kết cục tranh chấp đáng tiếc.

Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi
tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó
tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất,
thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ
lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên
trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng
đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu
đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt
được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khơn khéo, nhiều khi
khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta
mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong
đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hố, tài chính, thái độ,
phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp
kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp

24


×