Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA TRANH CHẤP PHÁT SINH KHI ÁP DỤNG UCP600

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.74 KB, 15 trang )

1
BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA TRANH CHẤP PHÁT SINH
KHI ÁP DỤNG UCP600
3.1. Họat động thanh tóan xuất nhập khẩu tại một số ngân hàng Việt nam và
xu hướng áp dụng phương thức tín dụng chứng từ

Tình hình họat động thanh tóan xuất nhập khẩu của Việt nam ngày càng phát triển
nhất là từ khi Việt nam tham gia WTO. Việt nam luôn khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia vào họat động xuất nhập khẩu. Sự kiện Việt nam gia nhập vào WTO
đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp Việt nam nói chung
và ngành ngân hàng nói riêng. Sự phát triển của ngành ngọai thương đã tạo điều kiện
thuận lợi cho họat động thanh tóan xuất nhập khẩu của ngành ngân hàng. Trong thanh
tóan ngọai thương, các ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các
lọai hình dịch vụ thanh tóan đa dạng, góp phần phát triển họat động giao dịch giữa
các công ty xuất nhập khẩu Việt nam với doanh nghiệp nước ngòai.
Với sự gia tăng về số lượng các ngân hàng thương mại trong thời gian qua cùng với
sự phát triển mạng lưới của các ngân hàng trong hệ thống đã tác động rất nhiều đến
doanh số thanh tóan xuất nhập khẩu.
Trong năm 2007, các ngân hàng đã tăng cường mảng tài trợ xuất nhập khẩu cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu làm cho doanh số thanh tóan xuất nhập khẩu năm 2007
tăng gấp 1.5 lần so với 2006. Trong đó tỉ trọng thanh tóan nhập khẩu vẫn chiếm tỉ
trọng lớn. Tiêu biểu chỉ có ngân hàng Ngọai thương là có tỉ trọng thanh tóan xuất
khẩu cao hơn thanh tóan nhập khẩu . Hiện nay ngân hàng Ngọai thương là ngân hàng
luôn giữ vị trí số một trong thanh tóan xuất nhập khẩu và chiếm 24,1% thị phần thanh
tóan xuất nhập khẩu của cả nước. Ngân hàng Công thương chiếm 8% thị phần thanh
tóan xuất nhập khẩu của cả nước. Các ngân hàng cổ phần tương đối lớn như ACB,
Sacombank, Eximbank . . . chiếm thị phần tương đối nhỏ. Các ngân hàng cổ phần
còn lại thị phần gần như không đáng kể.
Tình hình thanh tóan bằng phương thức tín dụng chứng từ của hệ thống ngân hàng
Việt nam đã được cải thiện do phương thức này ngày càng được nhiều doanh nghiệp
lựa chọn trong thanh tóan.


1
2
Theo thống kê thực tế cho thấy: trong rất nhiều phương thức thanh tóan ( nhờ thu,
chuyển tiền, tín dụng chứng từ . . . ) thì phương thức tín dụng chứng từ là phương
thức được sử dụng phổ biến nhất và chiếm tỉ trọng hơn 60%. Khỏang 11%-15% giao
dịch thương mại quốc tế sử dụng phương thức tín dụng chứng từ với tổng giá trị
hàng năm khỏang 1000 tỷ USD cho thấy tầm quan trọng của phương thức này.
Đơn vị : tỷ USD
STT Ngân hàng
Năm 2006 Năm 2007
Thanh
toán
Nhập
Thanh
toán
Xuất
Tổng Thanh
toán
Nhập
Thanh
toán
Xuất
Tổng
1 VCB 10,1 12,7 22,8 12,2 14,2 26,4
2 Vietinbank 3,68 1,58 5,26 4,26 2,84 7,1
3 EIB 1,42 0,36 1,78 1,7 0,48 2,18
4 ACB 1,17 0,54 1,71 1,99 0,82 2,81
5 Sacombank 1,06 0,19 1,25 1,69 0,4 2,09
6 Dong a 0,91 0,39 1,3 1,42 0,59 2,01
7 VIB 0,64 0,08 0,72 0,79 0,12 0,91

8 Saigonbank 0,25 0,02 0,27 0,32 0,05 0,37
Bảng 3.2 : Số liệu doanh số thanh tóan xuất nhập khẩu qua ngân hàng
Tác động của qúa trình hội nhập buộc các ngân hàng thương mại phải phải củng cố dịch
vụ thanh tóan bằng L/C thương mại để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngòai, đặc biệt
là ngân hàng của Mỹ. Các ngân hàng của Việt Nam cần chuẩn bị triển khai rộng rãi dịch
vụ thư tín dụng dự phòng để đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ.
3.2. Biện pháp để ngăn ngừa tranh chấp phát sinh khi áp dụng UCP600
3.2.1. Các bên tham gia phương thức tín dụng chứng từ phải được phổ cập để hiểu
rõ về phương thức tín dụng chứng từ
Qua phần khảo sát sơ bộ ở trên, có thể thấy một thực trạng là các doanh nghiệp
không thông hiểu thực sự về phương thức tín dụng chứng từ hoặc là có ý ỷ lại vào
ngân hàng trong việc tìm hiểu luật pháp quốc tế về tín dụng chứng từ. Còn các
ngân hàng thì cũng không dám khẳng định chắc chắn là đã trang bị đầy đủ kiến
thức và kinh nghiệm về phương thức tín dụng chứng từ cho tất cả các nhân viên
thanh tóan quốc tế trong điều kiện mở rộng mạng lưới ồ ạt như hiện nay. Vì vậy
2
3
việc phổ biến kiến thức về phương thức tín dụng chứng từ rất quan trọng trong
việc ngăn ngừa tranh chấp xảy ra.
Muốn tránh được những tranh chấp xảy ra thì người sử dụng phương thức tín
dụng chứng từ phải hiểu được bản chất của phương thức này. Trước tiên, tín dụng
chứng từ là một phương thức thanh tóan liên quan đến bộ chứng từ hợp lệ. Người
bán sẽ được đảm bảo thanh tóan nếu chứng từ xuất trình tại ngân hàng bên bán
phù hợp với những quy định đề ra trong tín dụng thư. Phương thức tín dụng
chứng từ cũng có thể hiểu như là một khỏan tạm ứng mà ngân hàng dành cho nhà
nhập khẩu hoặc nhà xuất khầu.
Phương thức thanh tóan tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi và được nhiều
công ty và ngân hàng lựa chọn vì nó là phương thức thanh tóan linh họat, bảo đảm
tính an tòan cho các giao dịch thương mại quốc tế. Trước hết do các đối tác ký kết
hợp đồng thường có trụ sở ở các quốc gia khác nhau nên thường thiếu sự tin

tưởng lẫn nhau, phương thức tín dụng chứng từ giúp lọai bỏ rào cản đó. Sau đó
trong giao dịch tín dụng chứng từ luôn có sự hiện diện của hai ngân hàng đại diện
cho hai bên đối tác cùng với những yêu cầu khắt khe về chứng từ, những yếu tố
đó sẽ dung hòa lợi ích đối nghịch giữa các bên trong hợp đồng.
Như vậy biện pháp của các ngân hàng, doanh nghiệp là phải tăng cường tổ chức
các lớp tập huấn đào tạo, học về phương thức tín dụng chứng từ và UCP600. Trên
thực tế do các địa bàn khác nhau thì họat động xuất nhập khẩu cũng khác nhau
nên kinh nghiệm và sự hiểu biết của cán bộ nhân viên cũng khác nhau. Vì vậy
việc tổ chức học hỏi kinh nghiệm thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng.
Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức
pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu
vực cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công
đối với sự phát triển của đất nước nói chung cũng như của từng ngân hàng thương
mại nói riêng. Vì vậy, vấn đề đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ
làm công tác chuyên môn có trình độ, năng lực, phẩm chất là hết sức quan trọng
và cần thiết.
Bên cạnh đó cần phải đặt mua các tạp chí có uy tín trên thế giới như :
Documentary credit world . . . Các tạp chí này rất hữu ích vì nó có nội dung tường
3
4
thuật lại qúa trình giải quyết vụ việc tranh chấp về L/C trên thế giới, các bài viết
bình luận về UCP của các chuyên gia hàng đầu thế giới về luật, các thống kê tình
hình sử dụng L/C thương mại, L/C dự phòng trên thế giới và các khuyến cáo về
các kiểu lừa đảo hay xảy ra trên thế giới. Qua các tạp chí này, người đọc sẽ nắm
bắt được những thông tin mới nhất về phương thức thanh tóan tín dụng chứng từ,
nâng cao khả năng làm việc của mình.
3.2.2. Các bên liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ phải hiểu được
những rủi ro có thể xảy ra và từ đó mỗi bên đưa ra những biện pháp ngăn
ngừa rủi ro riêng.
3.2.2.1. Rủi ro đối với mỗi bên

Đối với nhà nhập khẩu: Việc thanh toán của ngân hàng cho nhà xuất khẩu chỉ căn
cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra thực tế hàng
hoá. Ngân hàng chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ. Nếu nhà xuất
khẩu chủ tâm gian lận có thể xuất trình chứng từ giả mạo cho ngân hàng chỉ định
để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng
hàng hoá sẽ đúng như hợp đồng về số lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì.
Trong trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán
cho ngân hàng phát hành.
Đối với nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù hợp
với L/C thì mọi khoản thanh toán (chấp nhận) đều có thể bị từ chối và nhà xuất
khẩu sẽ phải tự giải quyết bằng cách dỡ hàng, lưu kho, bán đấu giá… cho đến khi
vấn đề được giải quyết hoặc phải chở hàng quay về nước. Nhà xuất khẩu phải trả
các khoản chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hoá…
trong khi không biết nhà nhập khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì
lý do bộ chứng từ có sai sót. Nếu ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận
mất khả năng thanh toán thì mặc dù bộ chứng từ xuất trình có hoàn hảo cũng
không được thanh toán. Cũng tương tự như vậy, nếu ngân hàng chấp nhận hối
phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không
được trả tiền. Trừ khi L/C được xác nhận bởi một ngân hàng có uy tín trong nước.
Còn lại nhà xuất khẩu sẽ phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của ngân hàng phát
hành cũng như rủi ro chính trị hay rủi ro do cơ chế chính sách của nhà nước thay
đổi.
4
5
Đối với ngân hàng phát hành L/C (issuing bank): Ngân hàng phát hành là ngân
hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
Ngân hàng này thường được hai bên nhập khẩu và xuất khẩu thoả thuận lựa chọn
và được quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập
khẩu có quyền lựa chọn. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành là ở chỗ ngân hàng
phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C

trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không thanh toán hay không có khả
năng thanh toán. Vì thế, trước khi chấp nhận phát hành L/C, Ngân hàng cần thẩm
định một cách chặt chẽ giống như việc cấp một khoản tín dụng cho khách hàng.
Đối với ngân hàng thông báo thư tín dụng (advising bank): Ngân hàng thông báo
là ngân hàng được ngân hàng mở yêu cầu thông báo một L/C do ngân hàng mở
phát hành cho người bán. Ngân hàng thông báo phải chịu trách nhiệm về tính
chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khoá mã,
mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối với ngân hàng
thông báo xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi
chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì ngân hàng thông báo phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm với các bên liên quan.
Đối với ngân hàng được chỉ định: Ngân hàng được chỉ định không có một trách
nhiệm nào phải thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ ngân
hàng phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, các ngân hàng được chỉ định thường
ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy đòi (with recourse) để trợ
giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này thường phải tự chịu rủi ro tín dụng
đối với ngân hàng phát hành hoặc nhà xuất khẩu.
Đối với ngân hàng xác nhận (confirming bank): Ngân hàng xác nhận thường là
ngân hàng lớn có uy tín hoặc ngân hàng có quan hệ tiền gửi, tiền vay với ngân
hàng mở, được ngân hàng mở yêu cầu xác nhận và cam kết trả tiền cho người bán
nếu như ngân hàng mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Đối với ngân
hàng xác nhận, khi tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buộc trách nhiệm của mình
vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro đối với ngân
hàng xác nhận xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của ngân
hàng mở mà xác nhận theo yêu cầu của họ để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải
chịu trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở L/C do ngân hàng mở L/C
thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán, thậm chí bị phá sản.
5
6
Đối với ngân hàng chiết khấu (negotiating bank): Ngân hàng chiết khấu là ngân

hàng được chỉ định cụ thể hoặc bất cứ ngân hàng nào nếu L/C cho chiết khấu tự
do. Cũng như ngân hàng phát hành, ngân hàng chiết khấu có thể gặp phải rủi ro
nếu như không thực hiện chính xác nghiệp vụ cũng như không tuân thủ theo các
điều kiện của UCP500. Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu phần nhiều
phụ thuộc vào thiện chí của ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Các rủi ro mà ngân
hàng chiết khấu có thể gặp phải là: Rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng;
rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán; rủi ro trong quá trình vận chuyển; rủi
ro do nhà nhập khẩu từ chối thanh toán bộ chứng từ; rủi ro do ngân hàng mở bị
phá sản; rủi ro do ngân hàng chiết khấu không hành động đúng theo quy định của
UCP600.
3.2.2.2. Biện pháp ngăn ngừa tranh chấp đối với mỗi bên trong phương thức tín dụng
chứng từ
Đối với người mua : Người mua cần phải hết sức thận trọng khi đàm phán để ký
kết hợp đồng tránh việc sau khi ký kết hợp đồng rồi mới thấy bất lợi nên cố tình
kéo dài thời gian mở L/C. Nên quy định điều kiện phạt nếu giao hàng chậm vào
trong hợp đồng để tránh trường hợp người bán thấy bất lợi cho mình mà kéo dài
thời gian giao hàng.
Khi làm đơn xin mở L/C thì phải thống nhất với hợp đồng vì muốn nhận được
hàng hóa đúng như hợp đồng người mua cần phải quy định cụ thể chặt chẽ các
điều kiện của hợp đồng vào trong L/C dưới dạng điều kiện có chứng từ.
Đối với người bán : Việc người mua không mở L/C hay mở chậm trễ là bất lợi
lớn cho người bán. Nên quy định điều kiện phạt nếu mở L/C chậm hoặc có quyền
thay đổi đơn giá vào trong hợp đồng để giảm thiểu rủi ro này.
Người bán phải kiểm tra kỹ nội dung của L/C để xem họ có thể đáp ứng được các
điều kiện về chứng từ mà L/C yêu cầu không. Nếu thấy không thể thì phải yêu
cầu sửa đổi. Bộ chứng từ muốn thanh tóan được thì phải phù hợp nghiêm ngặt với
điều kiện của L/C và phù hợp với UCP600.
Đối với ngân hàng phát hành : trách nhiệm của ngân hàng là phải làm cho người
mua hiểu được nghĩa vụ phải thanh tóan của họ khi bộ chứng từ hợp lệ. Điều cốt
yếu phải hiểu là hợp đồng hòan tòan độc lập với tín dụng thư, ngân hàng không

chịu trách nhiệm về tính thật giả của bộ chứng từ. Để tránh tình trạng khi ngân
hàng phát hành đã thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình mà người mua vẫn cố
6

×