Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG TRANH CHẤP TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG UCP500

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.73 KB, 21 trang )

NHỮNG TRANH CHẤP TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG
UCP500
2.1. Những tình huống tranh chấp xảy ra khi áp dụng UCP500
Theo tổng kết của ICC, các vấn đề có nhiều tranh cãi nhất trong UCP500 đều liên quan tới
các điều khỏan sau:
Điều 14: Chứng từ bất hợp lệ và việc thông báo bất hợp lệ
Điều 23: Chứng từ vận đơn đường biển
Điều 13: Tiêu chuẩn để kiểm tra chứng từ
Điều 48: Tín dụng chuyển nhượng
Điều 21: Nội dung của chứng từ và người phát hành không quy định
Điều 37: Hóa đơn
Điều 9: Trách nhiệm của ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận.
Và nó chiếm tới 58% trong tổng số các vấn đề mà ICC phải đưa vào trong các cuốn ICC
Opinion đuợc án bản kể từ năm 1993. Cụ thể :
Điều 14: có 60 vấn đề, chiếm 13,6%
Điều 23: có 47 vấn đề, chiếm 10,5%
Điều 13: có 31 vấn đề, chiếm 9,6%
Điều 48: có 31 vấn đề, chiếm 6,9%
Điều 21: có 29 vấn đề, chiếm 6,5%
Điều 37: có 26 vấn đề, chiếm 5,8%
Điều 9: có 26 vấn đề, chiếm 5,8%
Sau đây là một số tranh chấp đã xảy ra mà đề tài đã nghiên cứu :
2.1.1. Liên quan đến điều khỏan số 14 : Các chứng từ phù hợp và thông báo
 Thắc mắc 1: Ngân hàng phát hành L/C mở một L/C trả ngay thương lượng tại ngân
hàng thông báo. Người thụ hưởng xuất trình chứng từ không phù hợp với tín dụng
thư (xếp hàng trễ). Ngân hàng của người thụ hưởng gửi chứng từ cho ngân hàng mở
L/C và chỉ ra chứng từ có sai sót, chờ ủy quyền thanh tóan. Khi kiểm tra chứng từ
ngân hàng mở L/C cũng phát hiện ra sai sót này và đã hành động theo điều 14
UCP500 là từ chối chứng từ , giữ chứng từ với sự định đoạt của ngân hàng gửi
chứng từ và thông báo sau đó, nhưng không tiếp cận với người mở L/C để có được
sự bỏ qua các bất hợp lệ này. Người mở L/C tự thương lượng với người thụ hưởng


và họ đồng ý nhận chứng từ đồng thời họ chỉ thị ngay cho ngân hàng mở L/C.
Câu hỏi : ngân hàng phát hành có nghĩa vụ phải tuân theo chỉ thị của người mở L/C là
thanh tóan bộ chứng từ có sai sót đó hay là có quyền từ chối chứng từ và chuyển trả lại
cho ngân hàng thông báo mặc dù đã nhận được chỉ thị từ người mở L/C là thanh tóan?
Phân tích : Theo điều 9 UCP500, một thư tín dụng không hủy ngang tạo thành một
cam kết rõ ràng của ngân hàng phát hành miễn là bộ chứng từ được gửi đến ngân hàng
phát hành hay ngân hàng chỉ định phù hợp với các điều kiện điều khỏan của thư tín
dụng và ngân hàng phát hành sẽ thanh tóan hoặc chấp nhận thanh tóan.
Trong trường hợp sai sót chứng từ được tìm thấy trong bộ chứng từ xuất trình và ngân
hàng phát hành thực hiện đúng như các yêu cầu của điều 14(d) , ngân hàng phát hành
không có nghĩa vụ phải chấp nhận bộ chứng từ thậm chí ngay cả khi nhận được sự chấp
nhận sai sót chứng từ của người mở L/C.
 Thắc mắc 2: Khi nhận được sự chấp nhận sai sót bộ chứng từ của người mở L/C
thì điều này có trói buộc ngân hàng phát hành L/C phải chấp nhận bộ chứng từ hay
không?
Câu hỏi : Có tranh chấp giữa khách hàng và ngân hàng phát hành L/C về việc ngân
hàng phát hành L/C từ chối thanh tóan L/C khi đã nhận được từ người mở L/C chấp
nhận mọi sai sót chứng từ và đồng ý thanh tóan?
Phân tích : Miễn là ngân hàng phát hành thực hiện theo điều 14(d)(i) phù hợp và đưa
ra thông báo từ chối thanh tóan chứng từ trong vòng 7 ngày làm việc sau ngày nhận
chứng từ thì ngân hàng phát hành được giải phóng khỏi cam kết phải thực hiện thanh
tóan.
Việc nhận được chấp nhận sai sót bộ chứng từ từ phía người mở L/C hoặc là trực tiếp
hoăc là thông qua người thụ hưởng đều không trói buộc ngân hàng phát hành phải chấp
nhận bộ chứng từ.
 Thắc mắc 3: Liệu rằng chứng từ có tự bản thân nó trở thành không có giá trị nếu nó
được phát hành sau ngày xếp hàng.
Câu hỏi : Ngân hàng xác nhận sau khi kiểm tra chứng từ đã thông báo chứng từ có sai
sót sau: “Giấy chứng nhận giám định hàng hóa phát hành ngày 8/12 trong khi ngày xếp
hàng lên tàu là ngày 6/12”. Chứng từ trên có phải được lập chậm nhất vào ngày xếp

hàng lên tàu, trong trường hợp ngày phát hành chứng từ sau ngày xếp hàng thì chứng
từ có cần phải chỉ ra ngày giám định không?
Phân tích : Trong trường hợp giấy chứng nhận giám định ghi ngày phát hành sau ngày
xếp hàng lên tàu mà trong nội dung của giấy chứng nhận này không ghi rõ hay chỉ ra
rõ ngày thực hiện giám định là ngày trước hoặc cùng ngày với ngày xếp hàng lên tàu
thì chứng từ này coi như là bất hợp lệ. Tự bản thân tiêu đề của chứng từ này đã giả định
trước như là một hành động phải được xảy ra trước hoặc trong ngày xếp hàng lên tàu.
 Thắc mắc 4: URC có thể thay thế cho UCP khi người mở L/C không thực hiện
thanh tóan vào ngày đáo hạn?
Câu hỏi : Một ngân hàng phát hành L/C khi nhận được bộ chứng từ thì phát hiện ra
chứng từ có bất hợp lệ, ngân hàng này đã gửi thông báo cho ngân hàng thương lượng
và báo rằng chứng từ đang được giữ và chờ chỉ thị của ngân hàng thương lượng. Sau
đó chứng từ lại được người mở chấp nhận nên ngân hàng phát hành đã gửi thông báo
chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý thanh tóan tiền vào ngày đáo hạn. Tới ngày đáo hạn,
người mở L/C không thanh tóan tiền theo cam kết, vậy vị trí của ngân hàng chúng tôi
có thể coi như là ngân hàng nhờ thu chứng từ vì chứng từ sai sót và chỉ thanh tóan khi
nào người mở L/C thanh tóan?
Phân tích: Khi ngân hàng phát hành đã thông báo cho ngân hàng thương lượng việc
chấp nhận bộ chứng từ và cam kết thanh tóan vào ngày đáo hạn thì có nghĩa là đã trói
buộc nghĩa vụ thanh tóan vào ngày đáo hạn mặc dù nguời mở L/C có thanh tóan được
hay không . Việc áp dụng URC chỉ khi ngân hàng phát hành thông báo bất hợp lệ và
đồng thời thông báo người mở L/C đã từ chối thanh tóan bộ chứng từ và ngân hàng
thương lượng phải đồng ý xử lý bộ chứng từ đó như là bộ chứng từ nhờ thu.
2.1.2. Liên quan đến điều khỏan số 23: Vận tải đơn đường biển hàng hải
 Thắc mắc 1: Liệu rằng bên ký B/L có thể xác thực bất kỳ thay đổi hay sửa chữa nào
trên B/L .
Câu hỏi : Ngân hàng thươnglượng đã nhận được thông báo từ chối chứng từ do bất hợp
lệ : B/L được ký bởi thuyền trưởng nhưng chữ ký sửa sai chứng từ lại là của đại lý của
người chuyên chở. Ngân hàng thương lượng chứng từ không đồng ý sai sót này vì cho
rằng không có điều khỏan nào trong UCP quy định rằng việc sửa chữa chứng từ phải

được xác thực bởi chính người ký phát hành chứng từ đó.
Phân tích : Việc ký xác thực sửa chữa trên B/L có thể được ký bởi bất kỳ đại lý nào
của người chuyên chở chúng và không bị giới hạn liệu rằng đại lý của người chuyên
chở đó có phải là bên ký phát hành B/L hay không.
 Thắc mắc 2 : Liệu rằng B/L xuất trình không chỉ ra số lượng bản gốc đã được phát
hành và hãng tàu lại lập thêm một giấy chứng nhận chỉ ra số lượng bản gốc đã được
phát hành có hợp lệ không?.
Câu hỏi : Một ngân hàng khi mở L/C yêu cầu phải xuất trình “một bộ đầy đủ B/L gốc“.
Nhưng khi ngân hàng thương lượng gửi chứng từ về thì cùng với 3 bản B/L gốc là một
giấy chứng nhận của hãng tàu xác nhận rằng tất cả chỉ có 3 B/L gốc được phát hành.
Vì L/C không quy định cụ thể số bản gốc là bao nhiêu và cũng không có điều kiện nào
yêu cầu phải ghi số bản gốc được phát hành trên B/L . Vậy nếu coi đó là bất hợp lệ thì
có hợp lý không?
Phân tích: Thư tín dụng đã yêu cầu xuất trình một bộ đầy đủ vận đơn với mong đợi là
trên B/L sẽ ghi đầy đủ số bản gốc được phát hành để có thể kiểm tra được số bản gốc
được xuất trình. Nếu như hãng tàu lập thêm giấy xác nhận chỉ ra số lượng bản gốc
được phát hành thì nên được phát hành như một phần phụ thêm vào của B/L và phải chỉ
ra rằng đây là một phần tách rời của B/L. Nếu không, khi xuất trình thì do giấy xác
nhận này không được tín dụng thư yêu cầu nên sẽ không được kiểm tra theo điều 13(a)
của UCP 500.
 Thắc mắc 3 : Nơi nhận hàng và cảng xếp hàng cùng là một nơi
Câu hỏi : Một ngân hàng khi xuất trình một B/L chỉ ra : “nơi nhận hàng Hongkong-vận
chuyển trước bởi tàu feeder, và cảng xếp hàng: Hongkong-vận chuyển bởi tàu biển”,
đã bị ngân hàng phát hành từ chối vì cho rằng phải chỉ ra một ghi chú hàng đã được xếp
lên tàu biển (hay tàu feeder)
Phân tích : Điều 23(a) (ii) chỉ ra “khi nơi nhận hàng khác với cảng xếp hàng thì ghi
chú xếp hàng lên tàu phải bao gồm cảng xếp hàng được quy định trong L/C và tên của
con tàu mà hàng hóa được xếp lên thậm chí hàng hóa được xếp lên một con tàu ghi tên
trên B/L”. Điều này cũng được áp dụng ngay cả khi trên B/L có in sẵn hàng chữ đã bốc
hàng xong lên tàu. UCP 500 chỉ tham chiếu đến con tàu đã ghi tên, tàu dự định, tàu mà

hàng hóa đã được bốc lên chứ không có phân biệt cụ thể giữa tàu feeder và tàu biển.
Điều 23a(iii) cũng yêu cầu B/L phải chỉ ra cảng xếp hàng và cảng dỡ hàng như quy
định trong L/C. Bởi vậy, tham chiếu tới con tàu đã ghi tên là con tàu rời khỏi cảng xếp
hàng và không có bất kỳ tàu feeder nào có thể xuất hiện trong ô “chuyên chở trước”
 Thắc mắc 4 : Liệu rằng vận đơn của hãng giao nhận (forwarder’s bill of lading) có
duy trì trách nhiệm hàng xếp trên tàu cho tới cảng đích cuối cùng không?
Câu hỏi : Theo yêu cầu của người mở L/C ngân hàng phát hành yêu cầu xuất trình một
vận đơn FBL lập theo lệnh của ngân hàng phát hành với mong muốn là có tòan quyền
trong việc giao nhận hàng. Vì chứng từ này hòan tòan phù hợp với điều 23 và 30 nên
câu hỏi đặt ra ở đây là liệu rằng người phát hành FBL có chịu trách nhiệm về việc xếp
hàng lên tàu cho tới cảng đích cuối cùng? Đặc biệt hơn là có chịu trách nhiệm khi hàng
được xếp lên xà lan từ tàu tại vùng nước ranh giới của cảng đích?
Phân tích : Vì chứng từ đưa ra là phù hợp với điều 23 và 30, vậy khi tín dụng thư yêu
cầu một vận đơn của hãng giao nhận thì nó có thể được ký bởi hãng giao nhận, người
chuyên chở hoặc đại lý của người chuyên chở. Khi L/C yêu cầu một FBL thì nó sẽ
được ký bởi hãng giao nhận với trách nhiệm chỉ của nhãng giao nhận. Và nếu phát
hành theo kiểu này có nghĩa là đã có hợp đồng với hãng chuyên chở thực sự theo trách
nhiệm nhận hàng và giao hàng thực tế. Vì vậy trong trường hợp này hãng giao nhận đã
ký vận đơn như một người chuyên chở hoặc đại lý cho người chuyên chở nên trách
nhiệm đối với việc xếp hàng sẽ duy trì cho đến khi giao hàng tới người nhận hàng đích
danh, bên mà được ký hậu hay người giữ vận đơn trong trường hợp ký hậu để trống.
2.1.3. Liên quan đến điều khỏan số 48: Tín dụng chuyển nhượng
 Thắc mắc 1 : Quyền thay thế hóa đơn và hối phiếu, việc sửa đổi điều kiện tín dụng
thư, người thụ hưởng thứ nhất và thứ hai, người gửi hàng khác với người ký hóa
đơn ?
Câu hỏi : Theo điều 48 (i), người thụ hưởng thứ nhất có quyền thay thế hóa đơn nhưng
nếu người thụ hưởng thứ nhất không xuất trình hóa đơn và hối phiếu thì ngân hàng
chuyển nhượng có thể gửi chứng từ với hóa đơn hối phiếu gốc tới ngân hàng phát hành
(đó là vì việc gửi chứng từ của người thụ hưởng thứ hai tới ngân hàng phát hành không
tạo thành bất hợp lệ).

• Trong MT720 sử dụng để chuyển nhượng tín dụng thư thì người mở L/C không
xuất hiện. Bởi vậy người thụ hưởng thứ hai chỉ có thể lập hóa đơn mà trong đó
người thụ hưởng thứ nhất là người nhận hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng
phát hành có thể chỉ ra rằng người thụ hưởng thứ nhất là người nhận hàng trong
hóa đơn là bất hợp lệ.
Lúc nào thì người thụ hưởng thứ nhất phải thay thế hóa đơn và hối phiếu?
• Theo điều 48 (d) khi người thụ hưởng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng chuyển
nhượng thông báo sửa đổi tới người thụ hưởng thứ hai, tu chỉnh tăng tiền cũng có
thể được coi như sửa đổi nói trên và bởi vậy được thông báo tới người thụ hưởng
thứ hai?
• Liên quan tới việc thay thế hóa đơn và hối phiếu bởi người thứ nhất, người thụ
hưởng thứ hai được chỉ ra là người gửi hàng trên vận đơn, bảo hiểm, giấy chứng
nhận xuất xứ và chứng nhận của người thụ hưởng. Vậy những chứng từ trên có
được coi là không phù hợp với hóa đơn và được coi là bất hợp lệ không ?
Phân tích : Trong MT720 có trường 50 “người thụ hưởng thứ nhất”, điều này là cơ sở
cho hầu hết các trường hợp người thụ hưởng thứ nhất lựa chọn thay thế chứng từ. Nếu
như người thụ hưởng thứ nhất không tìm thấy bất kỳ sự liên quan nào trong yêu cầu
chuyển nhượng thì tên của người mở thư tín dụng gốc sẽ được thêm vào.
- Nếu người thụ hưởng thứ nhất quyết định chọn thay thế hóa đơn và hối phiếu nếu có
cho người thụ hưởng thứ hai và quên không làm như vậy theo yêu cầu đầu tiên, ngân
hàng chỉ định có thể gửi chứng từ bao gồm cả hóa đơn được phát hành bởi người thụ
hưởng thứ hai cho người thụ hưởng thứ nhất và ngân hàng phát hành phải chấp nhận
chúng như là một chứng từ hợp lệ theo thư tín dụng.
Điều 48(i) tham chiếu việc thay thế chứng từ xảy ra cho lần yêu cầu thứ nhất .
- Nếu người thụ hưởng thứ nhất yêu cầu người thụ hưởng thứ hai và người mở L/C
không được biết những liên quan đến giao dịch, thư tín dụng gốc sẽ cần được sửa đổi ở
những chỗ mà thông tin được tiết lộ như vậy có thể xảy ra. Việc phát hành những sửa
đổi để bỏ bớt chứng từ hay các điều kiện của thư tín dụng thì phải có sự chấp thuận và
chủ ý của người mở thư tín dụng.
- Nếu người thụ hưởng đã thông báo cho ngân hàng chuyển nhượng rằng theo điều

48(d) anh ta không muốn duy trì quyền từ chối thông báo sửa đổi tới người thụ hưởng
thứ hai, thì ngân hàng chuyển nhượng tòan quyền thông báo tất cả sửa đổi khi nhận
được tới người thụ hưởng thứ hai mà không cần tham chiếu tới người thụ hưởng thứ
nhất. Nhưng ICC cũng khuyên rằng người thụ hưởng thứ nhất nên duy trì quyền từ chối
thông báo sửa đổi trừ khi anh ta không còn tham gia vào giao dịch đó nữa.
- Người gửi hàng trên chứng từ chỉ có thể là người thụ hưởng thứ nhất nếu tín dụng
thư quy định như vậy. UCP 500 không cấm chứng từ của bên thứ ba. Vì vậy trừ khi có
quy định khác trong tín dụng thư, người gửi hàng có thể khác người phát hành hóa đơn
và không được coi là bất hợp lệ.
 Thắc mắc 2 : Ngân hàng chuyển nhượng có thể tự động thêm điều kiện thanh tóan
vào trong thư chuyển nhượng
Câu hỏi : Ngân hàng A phát hành tín dụng thư ghi rõ: L/C này chiết khấu tại bất kỳ
ngân hàng nào bằng hối phiếu trả ngay khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với điều
kiện của L/C. Khi ngân hàng B làm thư chuyển nhượng tới người thụ hưởng thứ hai đã
ghi vào trong thư chuyển nhượng : L/C này chiết khấu tại bất kỳ ngân hàng nào bằng
hối phiếu sau …. ngày trả ngay và thanh tóan sẽ chỉ được thực hiện khi nhận được tiền
từ ngân hàng phát hành.
Phân tích : Trong trường hợp này, ngân hàng B đã nhấn mạnh điều khỏan sẵn sàng
hòan trả cho người thụ hưởng chỉ khi ngân hàng phát hành thực hiện thanh tóan cụ thể
là khi họ nhận được chứng từ phù hợp với tín dụng thư. Như vậy ngân hàng B đã
không sẵn lòng thương lượng /chiết khấu trước bộ chứng từ gửi tới ngân hàng phát
hành.
 Thắc mắc 3 : Trách nhiệm, rủi ro của ngân hàng chuyển nhượng như thế nào?
Câu hỏi : Ngân hàng B (ngân hàng chuyển nhượng) khi chuyển nhượng đã không tăng
đủ số tiền bảo hiểm để bằng với 110% trị giá hóa đơn của người thụ hưởng thứ nhất.
Khi nhận được chứng từ từ ngân hàng của người thụ hưởng thứ hai, ngân hàng B trong
khi thay thế hóa đơn và hối phiếu đã nhận được hóa đơn và hối phiếu sai (mô tả hàng
hóa trong hóa đơn không phù hợp với L/C). Ngân hàng B chuyển bộ chứng từ tới ngân
hàng phát hành chờ thanh tóan và ngân hàng phát hành từ chối thanh tóan với lý do :
bảo hiểm không đủ số tiền và mô tả hàng hóa không phù hợpđồng thời trả lại chứng từ

cho ngân hàng B
- Vậy trách nhiệm của ngân hàng B như thế nào? Ngân hàng B có bị bắt buộc phải
hòan trả cho ngân hàng của người thụ hưởng thứ hai không?
- Rủi ro và trách nhiệm của ngân hàng chuyển nhượng không kể rằng L/C được xác
nhận hay không
Phân tích : Bộ chứng từ đã nhận được bởi ngân hàng chuyển nhượng đáp ứng điều kiện
của tín dụng đã chuyển nhượng. Việc xuất trình hóa đơn và hối phiếu không phù hợp khi
thay thế hóa đơn và hối phiếu của người thụ hưởng thứ hai không thay đổi khả năng chấp
nhận việc xuất trình ban đầu. Việc xắp đặt chứng từ chỉ nên xảy ra với thỏa thuận giữa
người thụ hưởng thứ nhất và thứ hai. Trên cơ sở đó chứng từ của người thụ hưởng thứ
hai phù hợp với tín dụng chuyển nhượng. Ngân hàng B nên hành động theo điều 48(i) và
nếu cần thiết sử dụng chứng từ của người thụ hưởng thứ hai như một đề nghị theo thư tín
dụng.
Rủi ro và trách nhiệm của phía ngân hàng chuyển nhượng là đang hóan đổi thông tin từ
tín dụng thư gốc và chuyển mẫu đơn được cung cấp bởi người thụ hưởng thứ nhất vào
nội dung thư chuyển nhượng. Vì vậy những yêu cầu trong thư chuyển nhượng phải hợp
lý và không gây trở ngại cho việc thay thế chứng từ.
2.1.4. Liên quan đến điều khỏan số 21: Không quy định người lập và nội dung
chứng từ
 Thắc mắc 1 : Khi thư tín dụng yêu cầu một giấy chứng nhận xuất xứ thì điều
này có thể hiểu là giấy chứng nhận xuất xứ này phải được ký bởi một tổ chức có
thẩm quyền?
Câu hỏi : Nếu có một thông báo về xuất xứ không được yêu cầu trong L/C có thể xác
thực trong bộ chứng từ như là tuyên bố xuất xứ của hàng hóa thì có thể thay thế cho
một giấy chứng nhận xuất xứ?
Phân tích : Việc phát hành thực sự ở đây là người mở L/C có cái gì, cụ thể nhà nhập
khẩu đã yêu cầu trong đơn xin mở tín dụng thư về người phát hành và nội dung ghi
trong giấy chứng nhận xuất xứ. Những chỉ dẫn này phản ánh đầy đủ các yêu cầu của cả
người nhập khẩu và quốc gia nhập khẩu để thuận lợi cho việc nhập hàng hóa đã quy
định.

Điều 5(b) UCP 500 chỉ ra rằng “ Tất cả các chỉ thị phát hành và bản thân tín dụng thư . .
. phải tuyên bố chính xác các chứng từ dùng để thanh tóan, chấp nhận hoặc chiết khấu”
và nếu cần thiết thì ngân hàng phát hành phải quy định rõ người phát hành và nội dung
của chứng từ được yêu cầu .
 Thắc mắc 2 : Số hóa đơn chiếu lệ không chính xác trong hóa đơn, số L/C thêm vào
viết bằng tay vào chứng từ có tạo ra bất hợp lệ không?
Câu hỏi : Một L/C yêu cầu là tất cả các chứng từ phải chỉ ra số L/C và phải chỉ ra
chính xác số lượng hàng hóa tham chiếu hóa đơn chiếu lệ đã được quy định. Khi nhận
chứng từ, số L/C thì được viết bằng tay thêm vào, còn số hóa đơn chiếu lệ thì ghi
không chính xác, vậy chứng từ coi là bất hợp lệ không?
Phân tích : Nếu như L/C quy định yêu cầu chi tiết của số hóa đơn chiếu lệ phải ghi
trong hóa đơn mà không có hoặc ghi không chính xác thì đây là bất hợp lệ.
Số L/C được ghi thêm vào bằng tay không nhất thiết là bất hợp lệ. Việc bao gồm số
tham chiếu L/C chỉ đơn thuần cho mục đích cho sự nhận dạng, nó không phải là một
phần cấu thành nên chứng từ đã được yêu cầu . Trừ khi L/C qui định khác thì việc viết
thêm bằng tay vào chứng từ số L/C không tạo ra bất hợp lệ.
 Thắc mắc 3 : Người nhận hàng ghi trên chứng nhận xuất xứ khác với ghi trên vận
đơn?
Câu hỏi: Một ngân hàng đã từ chối bộ chứng từ khi kiểm tra thấy người gửi hàng ghi
trên chứng nhận xuất xứ khác với ghi trên vận đơn mặc dù người nhận hàng ghi trên vận

×