Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.61 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA
SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔNG VIỆT NAM
I. Thực trạng tạo vốn (huy động vốn)
1. Yêu cầu đặt ra đối với công tác huy động vốn
Lấy chiến lược huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội làm mục tiêu hành
động của mình, yêu cầu đặt ra đối với công tác huy động vốn:
- Đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên;
- Đáp ứng cao nhất yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước;
Muốn vậy công tác huy động vốn của Ngân hàng phải thoả mãn các yêu
cầu;
+ Từng bước nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong cơ cấu tổng
nguồn vốn, thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ, phong phú về hình thức, biện
pháp huy động vốn qua các kênh. Xây dựng chiến lược kinh doanh, trước hết từ
chiến lược vốn;
+ Trong công tác huy động vốn phải xuất phát từ phía yêu cầu (đầu ra) để
lo nguồn huy động (đầu vào), đồng thời phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của
địa bàn để có kế hoạch, chương trình huy động vốn. Phải xem việc khai thác có
hiệu quả các nguồn vốn dưới mọi hình thức qua nhiều kênh khác nhau, vừa là
nhiệm vụ lâu dài vừa là yêu cầu mang tính giải pháp tình thế hiện nay, gắn chiến
lược huy động vốn với chiến lược sử dụng vốn trong một thể thống nhất, nhịp
nhàng.
2. Thực trạng huy động vốn tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn
Nhằm đáp ứng vốn cho sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội,
Sở Giao dịch NHNo&PTNT đã tích cực khai thác các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi, đưa ra các hình thức huy động vốn tạo điều kiện chủ động trong hoạt động
cho vay và các hoạt động khác của Ngân hàng. Nhất là trong điều kiện hiện nay
công tác huy động vốn đang là một bài toán khó đối với các NHNo&PTNT.
Điều này đòi hỏi các NHNo&PTNT phải có biện pháp hữu hiệu, có các chiến


lược huy động vốn đúng đắn, hợp lý để thu hút nguồn vốn đảm bảo cho đầu ra
của Ngân hàng. Chỉ trên cơ sở có một nguồn vốn ổn định, giá cả hợp lý các
NHNo&PTNT mới có thể thực hiện được mục tiêu lợi nhuận của mình.
Với phương châm vốn là khâu mở đường nên Sở Giao dịch
NHNo&PTNT đã vận dụng nhiều hình thức khai thác vốn ổn định có lợi trong
kinh doanh. Việc huy động vốn không phải là công việc độc lập mà gắn liền với
các nghiệp vụ bên có và các nghiệp vụ trung gian khác như chuyển tiền, thanh
toán. Ngân hàng phải tạo lập một nguồn vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu vốn cho
khách hàng. Bên cạnh đó việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở xác định thị
trường đầu ra, phương án sản xuất kinh doanh có khả thi không, lãi suất có phù
hợp hay không. Chính vì vậy công tác huy động vốn của Sở Giao dịch phải đáp
ứng được mục tiêu đề ra là phải nâng cao cả về số lượng và chất lượng của
nguồn vốn huy động.
Nằm trên địa bàn có sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân hàng. Là một
Sở Giao dịch đi vào hoạt động được 7 năm nhưng tốc độ huy động vốn mà Sở
Giao dịch đạt được quả là đáng khích lệ. Bằng nhiều hình thức và biện pháp
thích hợp nguồn vốn của Sở Giao dịch đã có sự tăng trưởng nhanh, vững chắc.
Hình thức huy động chủ yếu là: tiền tiết kiệm, các loại kỳ phiếu, giấy tờ có giá
dài hạn bằng đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ.
Từ năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 31/3/2004 mặc dù tình hình cạnh
tranh trong lĩnh vực huy động vốn giữa các Ngân hàng trên địa bàn ngày
càng gay gắt nhưng Sở Giao dịch NHNo&PTNT luôn bám sát mục tiêu kinh
doanh, hoạt động huy động vốn đạt được các kết quả qua các năm như sau:
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
(Đơn vị: tỷ đồng)
Năm Nguồn vốn huy động
Tăng, giảm
Số tiền Tỷ lệ %
1999 564
2000 1.623 1.059 187,77%

2001 2.207 584 35,98%
2002 3.240 1.033 46,80%
2003 3.810 570 17,59%
31/3/2004 4.545 735 19,29%
Nguồn: Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Nhìn vào bảng 1 trên ta thấy nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch
NHNo&PTNT đều tăng trưởng qua các năm.
- Năm 2000 nguồn vốn huy động đạt 1.623 tỷ đồng, tăng so với năm 1999
là 564 tỷ đồng, tức là tăng 187,77%.
- Năm 2001 nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch NHNo&PTNT đạt
2.207 tỷ đồng tăng 584 tỷ đồng so với 2000, về số tương đối tăng 35,98%.
- Năm 2002 nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch NHNo&PTNT đạt
3.240 tỷ đồng tăng 1.033 tỷ đồng so với 2001, về số tương đối tăng 46,80%.
- Năm 2003 nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch NHNo&PTNT đạt
3.810 tỷ đồng tăng 570 tỷ đồng so với 2002, về số tương đối tăng 17,59%.
- 31/3/ 2004 Nguồn vốn huy động của Sở Giao dịch NHNo&PTNT đạt
4.545 tỷ đồng tăng 735tỷ đồng so với 2003, về số tương đối tăng 19,29%.
Để xem xét thực chất nguồn vốn huy động ta xem đến cơ cấu huy động
vốn tại Sở Giao dịch phân theo thời gian và theo thành phần kinh tế:
Bảng 2: Cơ cấu nguồn huy động tại Sở Giao dịch
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Quy

(tỷ
đồng)
Tỷ
trọng
trong
tổng

NV (%)
Quy
mô (tỷ
đồng)
Tỷ
trọng
trong
tổng
NV (%)
Quy

(tỷ
đồng)
Tỷ
trọng
trong
tổng
NV (%)
Tổng nguồn vốn 2.207 3.240 3.810
I. Phân theo thời gian
1. Tiền gửi không kỳ hạn
2. Tiền gửi có kỳ hạn
- Kỳ hạn dưới 12 tháng
- Kỳ hạn 12 tháng trở lên
2.207
1.018
1.189
505
684
100

54
46
-
-
3.240
1.179
2.061
451
1.610
100
36
64
-
-
3.810
1.182
2.628
869
1.759
100
31
69
-
-
II. Phân theo thàng phần kinh
tế
1. Tiền gửi tiết kiệm
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
- Có kỳ hạn 12 tháng trở lên

2. Phát hành giấy tờ có giá
2..20
7
824
23
801
504
14
100
37,3
-
-
-
0,6
57,7
3.240
986
29
957
618
275
1.927
100
30,4
-
-
-
8,4
59,5
3.810

1.079
27
1.052
743
146
2.575
100
28,3
-
-
-
3,8
67,6
3. Tiền gửi các tổ chức kinh
tế
4. Tiền gửi các tổ chức TD
1.274
95
4,3 52 1,6 10 0,2
Nguồn: Báo cáo nguồn vốn Sở Giao dịch
Nhận xét cơ cấu nguồn vốn:
- Theo thời gian: Năm 2001 tổng nguồn vốn huy động là 2.207 tỷ đồng
trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 1.018 tỷ đồng chiếm 54% tổng vốn huy động.
Tiền gửi có kỳ hạn là 1.189 tỷ đồng chiếm 46% tổng nguồn vốn huy động. Năm
2002 tổng nguồn vốn huy động là 3.240 tỷ đồng tăng 1.033 tỷ đồng so với năm
2001 trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 1.179 tỷ đồng chiếm 36% tổng nguồn
vốn huy động, tiền gửi có kỳ hạn là 2.061 tỷ đồng chiếm 31% tổng nguồn vốn.
Năm 2003 tổng nguồn vốn huy động là 3.810 trong đó tiền gửi không kỳ hạn là
1.182 tỷ đồng, tiền gửi có kỳ hạn là 2.628 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 69% tổng
nguồn vốn.

Như vậy, ta thấy quy mô vốn tăng trưởng và cơ cấu vốn cũng dần phù
hợp hơn. Tiền gửi không kỳ hạn về số tuyệt đối tăng qua các năm. Do vậy, nó đã
góp phần tăng qui mô huy động vốn của cả năm nhưng tỷ trọng có giảm dần.
Năm 2001 tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn là lớn nhất 54%. Nguồn vốn không kỳ
hạn có ưu điểm là chi phí huy động thấp do vậy giảm chi phí hoạt động góp
phần tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên với sự biến động phức tạp của
loại vốn này mà Sở Giao dịch đã chú ý đến điều này và điều chỉnh cơ cấu vốn
cho phù hợp hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối và thế nó cũng
tạo điều kiện để Sở Giao dịch thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình trong mọi trường hợp. Vì Sở Giao dịch có ưu thế là ngân hàng đầu mối do
vậy Sở Giao dịch tăng thêm nguồn vốn điều phối cho các Sở Giao dịch khác
đang gặp khó khăn về vốn.
Tuy nhiên tiền gửi có kỳ hạn có tỷ trọng cao nên chi phí huy động lớn, lãi
suất đầu vào cao, nhưng nó lại có cơ cấu vốn ổn định để cho vay các dự án và
cho vay trung, dài hạn.
- Theo thành phần kinh tế:
Năm 2001 tiền gửi tiết kiệm là 824 tỷ đồng chiếm 37,3% tổng nguồn vốn,
phát hành giấy tờ có giá là 14 tỷ đồng chiếm 0,6%, tiền gửi của các tổ chức kinh
tế là 1.274 tỷ đồng chiếm 57,7% và tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 95 tỷ
đồng chiếm 4,3%.
Năm 2002 tiền gửi tiết kiệm là 986 tỷ đồng chiếm 30,4%, phát hành giấy
tờ có giá là 275 tỷ tăng 259 tỷ so với năm 2001 chiếm 8,4% tiền gửi của các tổ
chức kinh tế là 1.972 tỷ chiếm 59,5% tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 52 tỷ
chiếm 1,6%.
Năm 2003 tiền gửi tiết kiệm là 1.079 tỷ đồng tăng 93 tỷ đồng so với năm
2002 chiếm 28,3%, phát hành giấy tờ có giá là 146 tỷ chiếm 3,8% tiền gửi các
tổ chức kinh tế là 2.575 tỷ đồng tăng 548 tỷ so với năm 2002 chiếm 67,6%, tiền
gửi của các tổ chức tín dụng là 10 tỷ chiếm 0,2%.
Ta thấy tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của các tổ chức kinh tế đều tăng qua

các năm. Tiền gửi của dân cư có xu hướng tăng dẫn đến chi phí lớn nhưng nó lại
có tính ổn định hơn giúp nâng cao khả năng thanh toán giảm rủi ro trong thanh
khoản và tạo điều kiện thuận lợi cho Sở trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tiền gửi của các đơn vị kinh tế cũng tăng đều qua các năm và nhất là năm 2003
tăng nhanh chiếm 67%. Nguồn vốn này có ưu điểm là chi phí thấp so với tiền
gửi của dân cư. Tuy nhiên với tiền gửi của các tổ chức kinh tế lớn cũng gây ra
những khó khăn nhất định. Bởi vì huy động được lượng lớn nhưng nguồn vốn
này cũng không có tính ổn định cao vì các tổ chức kinh tế có thể gửi tiền vào
cùng một lúc nhưng cũng có thể rút ra bất cứ lúc nào với số lượng lớn. Do vậy
lượng vốn này không ổn định và nó lại phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của
các tổ chức. Chính vì vậy, Sở Giao dịch cần phải điều chỉnh để có một cơ cấu
vốn phù hợp hơn.
Trên đây ta thấy được tình hình huy động vốn nói chung và cơ cấu vốn
huy động tại Sở Giao dịch. Qua phân tích cho ta thấy được những thuận lợi
cũng như những khó khăn trong việc huy động vốn và nó liên quan đến vấn đề
sử dụng vốn của Sở Giao dịch.
3. Các hình thức huy động vốn
Các NHNo&PTNT làm nhiệm vụ vay tiền và cho vay hoặc đầu tư với
mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Nghiệp vụ huy động vốn của NHNo&PTNT.
Việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp linh hoạt là điều rất cần thiết của
NHNo&PTNT. Có như vậy mới khai thác được mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong
xã hội. Các hình thức huy động vốn có ảnh hưởng đến khối lượng vốn huy động
được vào Ngân hàng. Vì vậy việc sử dụng linh hoạt và kết hợp các hình thức
huy động vốn sẽ thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng.
3.1. Huy động vốn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá
nhân trong xã hội.

Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào hoặc trả

cho bên thứ ba bằng cách phát hành séc và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu
đó của khách hàng. Thực chất đây là khoản tiền dùng để đảm bảo khả năng
trong thanh toán.
Ở một số nước có công nghệ Ngân hàng phát triển cao, việc rút tiền từ tài
khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc cũng có thể rút tiền
một cách dễ dàng qua các máy rút tiền tự động ATM.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào Ngân hàng để thực hiện
các khoản chi trả về mua hàng hoá dịch vụ và thực hiện các khoản chi trả khác
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng một cách thuận
tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền nhàn rỗi chờ thanh toán. Bởi vậy đối với
khách hàng đây là một tài sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho Ngân hàng bảo quản
và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách hàng. Do đó việc
dễ dàng chuyển nhượng được xem như là yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng
lãi đối với số vốn được dùng với mục đích giao dịch chỉ là điều thứ yếu. Do vậy
loại tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi
suất cụ thể. Đối với Ngân hàng đây là một khoản nợ mà Ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất
thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác, nhưng khi khách
hàng mở và sử dụng tài khoản này thì Ngân hàng cung ứng các loại dịch vụ
miễn phí hoặc với mức phí thấp.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong
việc bảo quản vốn và trong quá trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ.
Ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch
vụ miễn phí. Còn đối với Ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế
toán theo dõi và ghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và
một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn nhưng nó được bù đắp lại bởi
vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra là không cùng
một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền trên tài khoản của
mình. Do đó luôn tồn tại lại một khoản tiền trên tài khoản trong một thời
gian dài, số dư ấy được Ngân hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số

doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như
vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch
không những được bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận
cho Ngân hàng.

Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp chưa
sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác
định trước. Do đó doanh nghiệp thường gửi vào Ngân hàng dưới hình thức tiền
gửi có kỳ hạn. Phần lớn nguồn tiền này xuất phát từ nguồn tích luỹ của doanh
nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và
được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm
khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, các NHNo&PTNT cho phép
khách hàng rút tiền trước thời hạn, trong trường hợp này khách hàng không
được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của loại tiền gửi không kỳ
hạn.
Do tính chất của loại nguồn này tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử
dụng được phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu
nguồn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện
thuận lợi, chủ động cho Ngân hàng trong qúa trình kinh doanh. Các
NHNo&PTNT thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền
của khách hàng. Hiện nay các NHNo&PTNT có các loại tiền gửi có kỳ hạn: 1
tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi kỳ hạn khác
nhau thì Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất khác nhau. Thông thường thì thời
hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các NHNo&PTNT thường khuyến khích
khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn định, Ngân
hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Nhưng về phía khách hàng khi gửi tiền với
kỳ hạn dài họ sẽ lo âu vì sự không ổn định của đồng tiền, chỉ số lạm phát năm
của nền kinh tế và khả năng tài chính của Ngân hàng. Để thu hút được nhiều
nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị đồng

tiền phải được đảm bảo, lạm phát vừa phải và tình hình hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng có hiệu quả.
Ở Mỹ tiền gửi có kỳ hạn chiếm 39% tiền gửi Ngân hàng. Các khoản này
chủ yếu được thể hiện bằng chứng chỉ tiền gửi, được ghi rõ hạn định và giá trị
thanh toán. Việc rút tiền trước thời hạn sẽ bị phạt và mức phạt có thể vượt quá
số lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền. Nhưng ở Đức, để khắc phục việc rút
vốn trước hạn gây bất lợi cho người gửi tiền, Ngân hàng thường cấp cho khách
hàng cần rút vốn trước hạn một khoản tín dụng mà coi khoản tiền gửi theo kỳ
hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó.
Mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt
tuỳ theo sự lựa chọn cuả khách hàng và đối với loại chứng chỉ tiền gửi có lãi
suất linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. Các chứng chỉ
tiền gửi đã được đa dạng hoá nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong huy động vốn
của các Ngân hàng. Ví dụ, các chứng chỉ tiền gửi với mệnh giá cao do Ngân
hàng lớn phát hành có thể chuyển nhượng được và chính những người mua
chứng khoán đã tạo ra một thị trường phụ cho chứng chỉ tiền gửi này. Như vậy
Ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này
có thể dùng vốn đầu tư vào các trái phiếu kho bạc hay vào thị trường tiền tệ.
Các chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng tốt này thường được các
công ty, các quỹ hưu trí và các tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn
và được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp trước hạn định thanh
toán.

Huy động tiền gửi tiết kiệm
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền
thống của các NHNo&PTNT. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường
chiếm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi Ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào
Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo quy định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận
thu nhập bằng tiền của cá nhân chưa sử dụng được gửi và Ngân hàng. Nó là một

dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền vào Ngân
hàng người gửi tiền được nhận một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận gửi
tiền vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản
tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản
tiền này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước.
Khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công
cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Số dư tài khoản này thường không lớn
nhưng có ưu điểm hơn so với các tài khoản giao dịch ở chỗ số dư này ít biến
động. Chính vì vậy đối với loại tiền gửi này, các NHNo&PTNT thường phải trả
lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các
NHNo&PTNT có thể dễ dàng huy động số vốn này.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Khi cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn trên
cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo
quy định, và khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn. Về nguyên tắc, một khi
khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc và
lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi,
một số ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, nhằm
tránh việc khuyến khích khách hàng rút tiền trước hạn, một phần trong tiền lãi
mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ.
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định cho nên
các NHNo&PTNT thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng,
6 tháng, 12 tháng, 24 tháng... nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất
của các loại kỳ hạn khác nhau. Thông thường kỳ hạn càng dài thì lãi suất huy
động càng cao.
- Tiền gửi tiết kiệm dài hạn
Loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, nhằm thu
hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình tiết kiệm khác,

đối với tài khoản này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào
tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn.
Đây là loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo các nguồn
vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của
mình.
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ
hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng, và nó phụ thuộc rất lớn vào thu
nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư,
đặc tính tâm lý của dân cư, chất lượng phục vụ của Ngân hàng, sự ổn định của
đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
3.2. Huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh
giá lớn
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa quan
trọng trong việc quản lý tài sản nợ hơn là biện pháp để các NHNo&PTNT huy
động vốn, bởi nó chỉ được sử dụng khi cần thiết. Mức lãi được trả cho các
chứng chỉ tiền gửi loại này được quy định bằng cách thoả thuận trực tiếp giữa
Ngân hàng và người gửi tiền hoặc được quy định ở mức mà người gửi tiền có
thể chấp nhận được.
Xuất phát từ thực tế khách quan, những người mua chứng chỉ tiền gửi này
rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động được vốn nhằm đáp ứng
các nhu cầu thanh toán hay nhu cầu tín dụng các NHNo&PTNT có thể đưa ra
mức lãi suất cao hơn so với các chứng chỉ tiền gửi khác.
3.3. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn
dưới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động

×