Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 21 chứng kiến sự tăng trưởng
ngoạn mục của ngành tài chính – ngân hàng, trong đó ấn tượng nhất là của
các ngân hàng thương mại. Số lượng và vốn của các ngân hàng thương mại
tăng rất nhanh, cùng với đó là sự đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội với xuất phát điểm là
NHTMCP nông thôn Nhơn Ái, với số vốn ban đầu chỉ là 400 triệu vào năm
1993, tuy nhiên chỉ sau 16 năm thành lập thì ngân hàng đã có số vốn điều lệ là
hơn 2000 tỷ đồng, tổng tài sản hơn 21.000 tỷ ( số liệu 30/09/2008).
Tuy nhiên, bất cứ sự tăng trưởng nào cũng đi kèm với các mặt trái của
nó. Cùng với tốc độ tăng trưởng của vốn điều lệ và đặc biệt là tổng dư nợ thì
tình trạng nợ xấu đã xuất hiện và thực sự đáng chú ý khi nền kinh tế đang lâm
vào hoàn cảnh khó khăn như hiện nay.
Khi khối lượng nợ xấu tăng đến một mức nhất định thì sẽ gây ảnh
hưởng xấu tới sự phát triển cũng như hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, vấn
đề quản lý nợ xấu được đặt ra ở hầu hết các NHTM. Tuy nhiên, không tồn tại
một mô hình hay một cách thức nào chung về quản lý nợ xấu cho mọi ngân
hàng thương mại. Tùy từng đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng mà họ đưa ra
cho mình cách thức quản lý nợ xấu tốt nhất.
Được nhà trường giới thiệu thực tập và ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà
Nội chấp nhận, ngày 7/01/2009 tôi bắt đầu kỳ thực tập của mình tại Phòng
Khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng. Cùng với sự quan tâm về vấn đề nợ
xấu và quá trình nghiên cứu, quan sát tại phòng KHDN tôi thấy vấn đề quản
lý nợ xấu tại phòng còn nhiều vấn đề như sự thiếu định hướng chung và thống
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
1
Chuyên đề thực tập
nhất trong chiến lược quản lý nợ xấu, thiếu cán bộ chuyên trách, công tác
kiểm soát tín dụng, kiểm soát nội bộ còn yếu,…
Vì vậy, trên cơ sở đó tôi quyết định thực hiện đề tài “ Quản lý nợ xấu
tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội”
1.2. Xác định vấn đề nghiên cứu
Như đã nói ở trên, ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội cần một chiến lược
quản lý nợ xấu với mục tiêu hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro không thể thu
hồi được của các khoản cho vay mà không ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận
của ngân hàng. Tuy nhiên, chiến lược này là không cứng nhắc và phải thay
đổi sao cho phù hợp với đặc thù của từng thời điểm.
Đề tài của tôi nghiên cứu dựa trên số liệu của quá khứ là 2 năm 2007 và
2008, đó cũng là 2 thời điểm có thể nói là khá khác biệt nhau về tính đặc thù
của nền kinh tế. Trong khi năm năm 2007 là năm nền kinh tế đang tăng
trưởng tốt, các ngân hàng nói chung và SHB nói riêng đẩy mạnh cho vay,
vào cuối năm này mới manh nha xuất hiện các dấu hiệu của khó khăn; thì
năm 2008 lại là năm chứng kiến nhiều cú sốc lớn về kinh tế, cả nội tại lẫn các
cú sốc bên ngoài. Các ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn, lạm phát gia
tăng và chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến việc co hẹp tín dụng. Bên cạnh đó,
tôi còn dựa vào dự báo về nền kinh tế nước ta và tình hình ngành ngân hàng
năm 2009
Với thực tiễn nghiên cứu như vậy, vấn đề đặt ra cho đề tài này là:
Quản lý nợ xấu cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội sao cho phù hợp với
thực tiễn hiện tại.
1.3. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
Để có thể giải quyết được vấn đề nghiên cứu đặt ra và với qui mô của
một luận văn, tôi cho rằng vấn đề quan trọng đầu tiên mà tôi cần giải quyết là
tìm hiểu các lý thuyết về nợ xấu trong bối cảnh hiện tại và thực tiễn vấn đề
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
2
Chuyên đề thực tập
quản lý nợ xấu tại SHB nói chung và phòng KHDN – H.O SHB nói riêng. Chỉ
có thế, tôi mới đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao khả năng quản lý nợ
xấu tại ngân hàng. Như vậy, đề tài của tôi sẽ tập trung làm rõ 3 vấn đề:
Thứ nhất: Làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận liên quan đến quản lý nợ xấu
Thứ hai: Phân tích tình hình quản lý nợ xấu tại SHB và chỉ ra các mặt đạt
được và chưa đạt được
Thứ 3: Dựa trên sự phân tích và cơ sở lý luận đã làm rõ để đưa ra các khuyến
nghị nhắm nâng cao khả năng quản lý nợ xấu của SHB trong thời điểm hiện
tại
1.4. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia thành 4 chương và một phần kết luận chung. Cụ thể:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Lý thuyết về quản lý nợ xấu của các Ngân hàng thương mại
Chương 3: Thực trạng quản lý nợ xấu tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
Chương 4: Một số khuyến nghị nhằm nâng cao khả năng quản lý nợ xấu tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
Kết luận chung
1.5. Ý nghĩa và ứng dụng của đề tài nghiên cứu
Đề tài của tôi vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Về mặt khoa học thì đề tài đã đưa ra được một hệ thống lý thuyết liên quan
đến quản lý nợ xấu ở các ngân hàng thương mại. Tất nhiên, hệ thống này
được tổng hợp là dựa trên quan điểm của cá nhân tôi.
Về mặt thực tiễn thì đề tài đã đưa ra được đánh giá của bản thân về thực trạng
của quản lý nợ xấu tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội; để từ đó có thể
đưa ra được các khuyến nghị của mình.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
3
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT VỀ QUẢN LÝ NỢ XÁU CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về nợ xấu ở các Ngân hàng
2.1.1. Khái niệm nợ xấu
2.1.1.1. Qui định của Việt nam
*) Quan niệm về nợ xấu của ngân hàng trước năm 2000
Trước năm 2000, hệ thống NHTM Việt Nam chưa có quy định cụ thể về
nợ xấu mà chỉ có các quy định về nợ quá hạn, nợ khó đòi phát sinh do các
nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan trong hoạt động tín dụng của các
NHTM.
Khi đó, nợ xấu trong thời kỳ này bao gồm các khoản nợ quá hạn, nợ
khó đòi và việc phân loại nợ xấu được xác định theo thời gian quá hạn bao
gồm: nợ quá hạn dưới 90 ngày, nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày, nợ quá
hạn từ trên 180 ngày đến 360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày, trong đó các
khoản nợ quá hạn trên 360 ngày được gọi là nợ khó đòi. Theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng (TCTD) chỉ có thể
chuyển nợ quá hạn đối với từng kỳ hạn trả nợ bị quá hạn, không được chuyển
toàn bộ khoản vay sang nợ quá hạn. Việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ cụ
thể được căn cứ vào nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan dẫn đến nợ quá
hạn, nợ khó đòi không thu hồi được.
*) Quan niệm về nợ xấu theo Quyết định 149/2001/QĐ-TTg.
Ngày 05/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
149/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM,
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phân loại nợ và xử lý các khoản nợ tồn đọng
phát sinh trước thời điểm 31/12/2000 của các NHTM.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
4
Chuyên đề thực tập
Mặc dù nội dung Quyết định 149/2001/QĐ-TTg không quy định cụ thể
về nợ xấu, nhưng theo Quyết định này có thể hiểu nợ xấu bao gồm các khoản
nợ tồn đọng phát sinh trước thời điểm 31/12/2000 và không có khả năng trả
nợ, mặc dù ngân hàng áp dụng nhiều giải pháp theo quy định hiện hành
nhưng vẫn không thu hồi được nợ. Trong quá trình triển khai thực hiện Quyết
định này, theo đề nghị của NHNN và các NHTM, Thủ tướng Chính phủ đã
cho phép đưa vào trong đề án xử lý nợ tồn đọng đối với một số khoản nợ chưa
quá hạn trước thời điểm 31/12/2000 nhưng NHTM có đủ căn cứ để xác định
khả năng khó thu hồi nợ.
Như vậy, khác với giai đoạn trước, các NHTM phân loại các khoản nợ
xấu tồn đọng không căn cứ vào thời gian quá hạn cụ thể mà căn cứ vào tính
chất và khả năng thu hồi nợ thông qua các biện pháp bảo đảm của khoản vay
(có tài sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm) và tình trạng pháp lý
khách hàng (không còn tồn tại hoặc còn tồn tại, hoạt động) để phân loại thành
03 nhóm nợ tương ứng với các cơ chế xử lý kèm theo khác nhau, bao gồm:
- Nợ xấu tồn đọng có tài sản bảo đảm (nợ tồn đọng nhóm 1);
- Nợ xấu tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng
thu hồi (nợ tồn đọng nhóm 2);
- Nợ xấu tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ đang còn tồn
tại, hoạt động (nợ tồn đọng nhóm 3).
*) Quan niệm về nợ xấu theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (giai
đoạn hiện nay).
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống
đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành “Quy định về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng”, Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN
Việt Nam ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
5
Chuyên đề thực tập
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, việc xác định, phân loại nợ xấu của
các TCTD đã bước đầu theo sát với thông lệ quốc tế (phân loại căn cứ vào
thực trạng khách hàng chứ không chỉ căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản
cấp tín dụng). Theo đó, các TCTD có thể thực hiện xác định, phân loại các
khoản nợ dựa trên phương pháp phân loại nợ định lượng hoặc định tính thành
05 nhóm nợ: nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý), nợ
nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có
khả năng mất vốn). Tương ứng với mỗi nhóm nợ, NHNN quy định tỷ lệ trích
lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau: Nhóm 1 là 0%; Nhóm 2 là
5%; Nhóm 3 là 20%; Nhóm 4 là 50% và Nhóm 5 là 100%, riêng đối với các
khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, TCTD trích lập dự phòng cụ thể theo
khả năng tài chính của TCTD.
Đồng thời, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng
Nhà nước cũng quy định: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào
nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả
năng mất vốn)”.
Các tiêu chí để phân loại nợ xấu cụ thể như sau:
Trích Điều 6, Điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
* Phân loại nợ theo phương pháp định lượng:
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91
ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các
khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 ở trên; các
khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
6
Chuyên đề thực tập
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày
đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90
ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần thứ 2; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn
trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90
ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại
lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên, kể cả
chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các
khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5.
* Phân loại nợ theo phương pháp định tính:
Nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh
giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 - Nợ nghi ngờ bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn bao gồm các khoản nợ được TCTD
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tóm lại, nợ xấu theo thông lệ quốc tế và theo chuẩn mực ở Việt Nam đều
có đặc điểm chung đó là các khoản nợ đã quá hạn trả nợ gốc/lãi trên 90 ngày
và/hoặc các khoản nợ mà TCTD có lý do chắc chắn để đánh giá là không có
khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn.
2.1.1.2. Qui định và thông lệ của thế giới
* ) Theo ngân hàng Trung ương Liên minh Châu Âu
Nợ xấu trong các NHTM gồm
- Những khoản nợ không thể thu hồi được :
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
7
Chuyên đề thực tập
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ để
đòi bồi thường từ nợ.
+ Người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
+ Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ
hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
+ Những khoản nợ mà khách nợ đã chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý
tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
- Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp
không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả và lãi
hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ
không thể thu hồi được đầy đủ như :
+ Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng
phần còn lại không thể được đền bù cho khoản nợ, hoặc những khoản nợ
trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ
trang trải toàn bộ khoản nợ cho ngân hàng
+ Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu được gia
hạn nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thoả thuận
+ Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế
chấp ở Ngân hàng không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc
nợ không có khả năng trả nợ Ngân hàng đầy đủ
+ Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi
hoàn ít hơn dư nợ.
*) Theo định nghĩa Nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hợp quốc
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc, “về cơ
bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
8
Chuyên đề thực tập
vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá
hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản
vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn
trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên
thế giới.
Một định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc
tế (IFRS) và IAS 39 vừa được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế cho ra đời
và được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005. Về
cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận
thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh
giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng
tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng). Hệ thống này được coi
là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, nó đang được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế chỉnh sửa lại.
Ví dụ ở Nhật Bản, theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán quốc tế
(BIS) tại cùng thời điểm 2003 nếu áp dụng cách đánh giá nợ xấu theo định
nghĩa về “Khoản vay, tại Luật Tái cơ cấu tài chính” là 35,3 ngàn tỷ Yên,
nhưng theo định nghĩa “Đánh giá khoản vay” tương tự IAS 39 thì nợ xấu lên
tới 90,1 ngàn tỷ Yên.
*) Theo Basel II
Tháng 6 năm 2004, ủy ban Basel đã xây dựng Hiệp định mới về “Tiêu
chuẩn vốn quốc tế” - mà chúng ta vẫn gọi là Basel II, và được chỉnh sửa liên
tục trong các thời gian tiếp theo. Theo đó, các ngân hàng sẽ sử dụng hệ thống
cơ sở dữ liệu của nội bộ để đánh giá vấn đề rủi ro tín dụng, từ đó xác định hệ
số an toàn vốn tối thiểu.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
9
Chuyên đề thực tập
Việc đưa Basel II vào phần lý thuyết chung về phân loại nợ xấu của tôi
bởi Basel II trình bày các nguyên tắc và công thức mang tính quốc tế liên
quan đến việc xếp hạng tín dụng nội bộ, ước lượng rủi ro của các khoản cho
vay, từ đó là cơ sở để phân loại nợ xấu một cách chính xác.
Cụ thể, theo yêu cầu của Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng các mô
hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng.
Các ngân hàng sẽ xác định các biến số như PD - Probability of Default: xác
suất khách hàng không trả được nợ; LGD: Loss Given Default - tỷ trọng tổn
thất ước tính; EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời
điểm khách hàng không trả được nợ. Thông qua các biến số trên, ngân hàng
sẽ xác định được EL: Expected Loss - tổn thất có thể ước tính
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa
trên công thức sau:
EL = PD x EAD x LGD
Tuy nhiên, ở đây tôi sẽ chỉ đề cập đến biến số PD - xác suất không trả
được nợ bởi biến số này sẽ là nhân tố quyết định đến việc phân loại khoản nợ
của khách hàng.
PD - xác suất không trả được nợ: cơ sở của xác suất này là các số liệu
về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ đã trả,
khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel
II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân hàng phải
căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó.
Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau:
- Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách
hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
10
Chuyên đề thực tập
- Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý,
khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng
tăng trưởng của ngành,…
- Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo
hiệu khả năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức
thấu chi…
Từ những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó
tính được xác xuất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình
tuyến tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn
chuyên nghiệp.
2.1.2. Nguyên nhân hình thành nên nợ xấu
2.1.2.1. Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp gây ra tình trạng nợ
xấu tại ngân hàng, tuy nhiên lỗi chính không nằm về phía ngân hàng.
- Do các cú sốc về kinh tế không thể lường trước
Mỗi nền kinh tế luôn có những đặc điểm riêng của mình và chịu sự tác động
của rất nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố bên ngoài như chính trị, xã hội và
các yếu tố nội tại. Khi các yếu tố này gặp các cú sốc bất lợi như thiên tai,
khủng hoảng chính trị hay sự sụp đổ của 1 vài yếu tố kinh tế thì nên kinh tế sẽ
bị tác động trực tiếp dẫn đến khủng hoàng. Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái,
mặc nhiên tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp hay thu nhập của các
hộ tiêu dùng cũng sẽ khủng hoảng. Vì vậy, khả năng hoàn trả các món nợ đã
vay ngân hàng cũng sẽ giảm sút; dẫn đến tình trạng nợ xấu gia tăng
- Do sự mất ổn định và thiếu đồng bộ, hợp lý của pháp luật
Một sự thay đổi trong pháp luật sẽ gây ra tác động không nhỏ tới hoạt động
của doanh nghiệp. Ví dụ như một sự thay đổi về sách thuế có thể tác động làm
cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm hoặc làm thua lỗ một dự án. Bên cạnh
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
11
Chuyên đề thực tập
đó, phải kể đến đó là sự chồng chéo của các văn bản pháp lý. Sự chồng chéo
này không những gây ra sự khó khăn cho doanh nghiệp trong việc kinh doanh
mà còn gây ra sự khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ xấu.
- Các nguyên nhân xuất phát từ vấn đề đạo đức khách hàng
Với việc cung cấp các báo cáo tài chính và các văn bản pháp lý của doanh
nghiệp có sự sai khác so với thực tế, vì vậy làm cho các nhận định của cán bộ
tín dụng đối với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không
chính xác. Quá trình này bắt đầu từ giai đoạn thẩm định hồ sơ vay vốn cho tới
quá trình quản lý khoản vay, cán bộ tín dụng sẽ không phát hiện những bất
thường hay là những dấu hiệu chứng tỏ khả năng không hoàn trả được món
vay của doanh nghiệp.
Không chỉ vậy, có một số khách hàng tuy có tiền nhưng tỏ ra chây ỳ, nhằm
chiếm dụng hoặc chiếm đoạt vốn.
2.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Sự yếu kém trong công tác xây dựng và thực thi chiến lược quản lý nợ xấu
Với tình hình thực tiễn của nền kinh tế và đặc điểm của mỗi ngân hàng
thì chiến lược quản lý nợ xấu phải được xây dựng sao cho phù hợp. Tuy
nhiên, do sự yếu kém trong công tác này, các sai lầm ví dụ như trong việc đề
ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng quá cao khi chưa đồng bộ với 1 cơ chế kiểm
soát, 1 qui trình tín dụng chặt chẽ sẽ dẫn đến sự gia tăng của nợ xấu. Bên
cạnh đó là là sự mất hợp lý của cơ cấu cho vay, sự thiếu chính xác trong nhận
định xu hướng phát triển hay suy thoái của các ngành, các khách hàng mục
tiêu dẫn đến sự tập trung tín dụng sai lầm.
Bên cạnh việc xây dựng chiến lược thì việc thực thi nó cũng quan trọng
không kém. Một chiến lược đúng đắn tuy nhiên không được thực thi một cách
có hiệu quả. Điều này có thể xuất phát từ cơ chế kiểm soát nội bộ yếu kém
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
12
Chuyên đề thực tập
nhưng cũng có thể là do sự thiếu ý thức, trình độ của nhà quản lý, các nhân
viên tín dụng
- Sự yếu kém về trình độ và đạo đức của nhân viên tín dụng
Các nhân viên tín dụng là những người trực tiếp thực thi việc cho vay cũng
như quản lý các món vay. Về mặt lợi ích, khi các nhân viên này với đạo đức
kém và bộ phận kiểm soát không phát hiện kịp thời sẽ lợi dụng quyền hạn để
có thể cho vay các khoản vay với rủi ro. Họ có thể thực hiện việc này thông
qua việc làm sai lệch cách nhìn về báo cáo tài chính và triển vọng của khách
hàng. Cũng như là sự sai lệch về giá trị thực của tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên, không phải tất cả các lỗi này đều xuất phát từ vấn đề đạo đức mà
có thể xuất phát từ vấn đề trình độ.
2.2. Lý thuyết về quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
2.2.1. Khái niệm quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
Khái niệm này được tôi đưa ra trong quá trình nghiên cứu, có tham
khảo của một số luận văn tốt nghiệp các khóa trước. Theo tôi thì:
Quản lý nợ xấu không chỉ là việc xử lý như thế nào khi đã có nợ xấu
phát sinh mà nó bao gồm quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các
chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng của ngân hàng nhằm đạt được các
mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các
biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý
các khoản Nợ xấu đã phát sinh nhằm phù hợp đối với mục tiêu trong từng giai
đoạn của mỗi ngân hàng.
2.2.2. Mục tiêu của quản lý nợ xấu
Mục tiêu của quản lý nợ xấu tại mỗi ngân hàng và các thời điểm khác
nhau là khác nhau. Tuy nhiên, theo một cách chung nhất thì mục tiêu của
quản lý nợ xấu trong bất kỳ hoàn cảnh nào và đối với bất kỳ ngân hàng nào
thì đó chính là việc phải xây dựng và thực thi được một qui chế, chính sách
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
13
Chuyên đề thực tập
sàng lọc khách hàng phù hợp với từng thời kỳ sao cho phải hạn chế đến mức
thấp nhất rủi ro không thể thu hồi được của các khoản cho vay mà không ảnh
hưởng tới mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng
2.2.3. Nội dung của quản lý nợ xấu
2.2.3.1. Xây dựng chiến lược và thực thi quản lý nợ xấu
Mỗi ngân hàng đều phải xây dựng cho mình một chiến lược quản lý nợ
xấu phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình trong từng thời kì, và phải
linh hoạt có thể điều chỉnh tuỳ theo diễn biến thị trường tín dụng. Chiến lược
quản lý nợ xấu cũng phải chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu của ngân
hàng, cũng như những cơ hội và thách thức đối với ngân hàng để phát huy tối
đa tiềm lực của ngân hàng. Như ta thấy nợ xấu là không thể tránh được đối
với mỗi ngân hàng, ngân hàng nào cũng phải chấp nhận tồn tại các khoản nợ
xấu.Vì thế cân phải xác định giới hạn cần thiết của Nợ xấu hay cụ thể hơn là
xác định mức độ và tỷ lệ của Nợ xấu thích hợp. Nếu ngân hàng duy trì tỷ lệ
Nợ xấu quá cao hoặc không hợp lý thì nguy cơ phải gặp rủi ro của ngân hàng
cao, ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ngoài ra, chiến lược quản lý nợ xấu hay chiến lược quản lý rủi ro tín dụng
cần đặc biệt chú trọng đến việc đa dạng hoá danh mục tín dụng nhằm giảm
bớt rủi ro. Tránh tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”, tín dụng chỉ tập trung vào
một nhóm khách hàng hay một lĩnh vực nào đó. Không chỉ thế cơ cấu tín
dụng còn phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy động được.
Ngoài ra, để có thể thực hiện được việc quản lý nợ xấu thì ngân hàng
phải xây dựng các qui trình qui chế và thực thi chúng một cách hợp lý.Cụ thể:
- Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.
Bản thân hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng nguy cơ rủi ro tiềm
ẩn, vì vậy các ngân hàng cần phải xây dựng một quy trình tín dụng chặt chẽ từ
khâu xét duỵệt, thẩm định, giải ngân cho vay đến các khâu kiểm tra giám sát
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
14
Chuyên đề thực tập
trước và sau cho vay… Khi các ngân hàng tiến hành hoạt động tín dụng phải
tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình tín dụng đó. Việc xây dựng, thực hiện và
quản lý nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng sẽ giúp ngân hàng hạn chế
được rủi ro các khoản Nợ xấu phát sinh, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các
sai phạm và thiếu sót trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với mỗi khoản tín dụng không chi phải kiểm tra trước khi giải ngân
mà công việc kiểm tra giám sát tín dụng sau giải ngân cũng quan trọng không
kém. Việc này nhằm hạn chế hạn chế rủi ro đạo đức , nhằm đảm bảo răng
khách hàng vay không làm những việc rủi ro từ nguồn vốn vay. Ngân hàng sẽ
giám sát tình hình sử dụng vốn vay sau giải ngân bằng cách kiểm tra hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng định kỳ. Đây là một yêu cầu bắt
buộc trong quy trình tín dụng của bất cứ một NHTM nào.
Ngày nay, các ngân hàng có rất nhiều biện pháp khác nhau để kiểm tra
giám sát các khoản vay, một số các biện pháp cơ bản hầu hết các ngân hàng
đang sử dụng là:
+ Tất cả các loại hình tín dụng đều phải được tiến hành kiểm tra theo
định kì, ví dụ như kiểm tra theo chu kỳ 30,60 hay 90 ngày đối với những
khoản vay lớn, đồng thời cũng tiến hành kiểm tra bất thường đối với những
khoản cho vay có quy mô nhỏ.
+ Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra giám
sát một cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng
nhất của mỗi khoản vay phải được kiểm tra.
+ Kiểm soát và theo dõi thường xuyên các khoản cho vay lớn bởi vì
những khoản cho vay lớn này nếu xảy ra rủi ro sẽ gây ảnh hưởng nghêm
trọng đến tình hình kinh doanh của ngân hàng.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
15
Chuyên đề thực tập
+ Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tíndụng có vấn đề, tăng
cường kiểm tra giám sát khi phát hiện ra những dấu hiệu không lành mạnh có
khả năng dẫn đến rủi ro liên quan đến khoản vay.
+ Trong trường hợp nền kinh tế có chiều hướng suy giảm hay các
ngành có tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của ngân hàng phải đối mặt
với những vấn đề khó khăn lớn thì ngân hàng phải tăng cường các biện pháp
kiểm soát tín dụng.
- Xây dựng và thực thi qui chế kiểm tra kiểm soát nội bộ
Một khía cạnh khác cũng rất quan trọng của hoạt động kiểm tra giám sát
hoạt động tín dụng là công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Thông qua công tác
này có thể phát hiện ,ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình
thực hiện quy trình nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát nội
bộ còn góp phần phát hiện ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng
gây ra. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ được thực hiện bởi một bộ phận
độc lập với hoạt động tín dụng đó là phòng kiểm tra nội bộ, có chức năng đưa
ra các đánh giá một cách khách quan đối với hoạt động tín dụng. Trên cơ sở
đó, bộ phân kiểm tra nội bộ thực hiện chức năng tư vấn cho các bộ phận
nghiệp vụ và là công cụ quản lý của ban lãnh đạo ngân hàng.
2.2.3.2. Các biện pháp xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng
Như tôi đã nói, nợ xấu luôn tồn tại song song với ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu
được đặt ra là phải xử lý các khoản nợ xấu sau khi đã phát sinh. Sau đây là
một số biện pháp xử lý nợ xấu
2.2.3.2.1. Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi
phân tích thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá
khách hàng có khả năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho ngân hàng thì
ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp.
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
16
Chuyên đề thực tập
Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản
xuất kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh,
tài chính kém nhưng có khả năng phục hồi. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh
nghiệp được thực hiện giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh doanh,
ngân hàng cho vay nợ với mục đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho
doanh nghiệp.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp
dụng cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng
được quyết định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì
quan hệ với đối tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông
qua việc giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành
động cần thiết để cải thiện tình hình của họ, và sửa chữa sai sót. Đặc biệt,
trong trường hợp không trả được nợ lần đầu, ngân hàng cần có hành động
cương quyết để thuyết phục khách hàng trong việc thực thi các biện pháp
cứng rắn để củng cố vị thế của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ
chặt chẽ với khách hàng để giám sát tiến trình xử lý nợ. Trên cơ sở đó, ngân
hàng có thể áp dụng các phương pháp:
- Điều chỉnh kỳ hạn nợ:
Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường được thực hiện thông qua việc
hoãn hoặc/và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh toán của kỳ hạn trả nợ,
nhưng không được giảm tổng số nợ phải trả. Nếu được sử dụng một cách cẩn
thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nợ là một hình thức được chấp nhận khi thực
hiện cơ cấu lại nợ.
- Gia hạn nợ
Đây là phương án tránh áp lực trả nợ của khách hàng để hỗ trợ khách hàng
tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín dụng giúp
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
17
Chuyên đề thực tập
khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản nợ
trước. Đây không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao
- Giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả:
Giải pháp này có thể được xem xét áp dụng tuỳ thuộc vào thiện chí trả
nợ vay của khách hàng và tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước
và của từng ngân hàng. Việc giảm, miễn lãi đối với khách hàng coi như sự hy
sinh một phần doanh thu của ngân hàng để có thể tận thu hồi được nguồn vốn
đã cho vay.
2.2.3.2.2 Chứng khoán hoá các khoản nợ xấu
Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đuợc áp dụng
rộng rãi trên thế giới là chứng khoán hoá các khoản nợ. Chứng khoán hoá là
chuyển đổi một tập hợp có chọn lọc các khoản vay có thế chấp của ngân hàng
mà trước đó không có thị trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán
khả mại, có thể bán trên thị trường thứ cấp. Ngân hàng có thể dùng kỹ thuật
này để xử lý các khoản nợ xấu của mình nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ
của thị trường chứng khoán cùng giao dịch mua bán nợ.
Đối mặt với áp lực rủi ro tín dụng và yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu, công
cụ quản lý rủi ro chứng khoán hoá các khoản cho vay đã giúp ngân hàng hạn
chế một cách hiệu quả rủi ro tín dụng. NHTM bắt đầu bằng cách khoanh
khoản nợ xấu có thế chấp và chuyển nó ra khỏi nội bảng, hạch toán ngoại
bảng để bán cho người đầu tư chứng khoán thông qua trung gian là người
được uỷ thác. Người được uỷ thác thường là tổ chức được bảo đảm không bị
phá sản và hoạt động chuyên nghiệp về phát hành chứng khoán. Đầu tư thông
qua hoạt động chứng khoán hoá giúp ngân hàng đa dạng hoá, giảm rủi ro,
giảm các chi phí đối với việc giám sát các khoản cho vay.
Công nghệ chứng khoán hoá hấp dẫn nhiều ngân hàng, bởi vì thông
qua đó mà ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
18
Chuyên đề thực tập
năng thanh khoản của tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm
được các chi phí có tính chất thuế cũng như tăng thu nhập từ thuế.
2.2.3.2.3 Xử lý tài sản bảo đảm, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng
không có khả năng phát triển, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử
lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất đai,
tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình
thức sau: Tự bán công khai trên thị trường; Bán qua Trung tâm dịch vụ bán
đấu giá tài sản; Bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước. Trong trường
hợp khoản vay không được thanh toán đầy đủ thì ngân hàng được xử lý tài
sản đảm bảo theo nguyên tắc và cơ chế theo luật định.
Đối với các khoản cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ 3: Ngân hàng
yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay. Trường hợp
bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay, ngân hàng chủ động xử lý
tài sản bảo lãnh tương tự như các tài sản thế chấp cầm cố của bên vay.
Thực hiện quyền truy đòi cho vay gián tiếp: nếu đến hạn mà người
thanh toán không thực hiện nghĩa vụ thì ngân hàng truy đòi người đi vay,
người bảo lãnh.
Mặc dù biện pháp này là không mong muốn do việc phát mại tài sản
bảo đảm hoặc đòi nợ bên bảo lãnh thường rất phức tạp với nhiều thủ tục, tốn
nhiều thời gian, khả năng thu hồi đầy đủ nợ thường không cao, song ngân
hàng vẫn buộc phải thực hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay, đây là một trong
số các biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả nhất cho các ngân hàng, đặc biệt các
khoản nợ do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách hàng lừa đảo ngân hàng…
2.2.3.2.4. Bán các khoản nợ
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng đối với các khoản nợ không có
tài sản đảm bảo hoặc không muốn mất thời gian đòi nợ. Ngân hàng sẽ chuyển
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
19
Chuyên đề thực tập
quyền đòi nợ cho một tổ chức tín dụng hoặc tổ chức hoặc cá nhân khác có
chức năng theo quy định để sớm thu hồi vốn của mình. Khi bán các khoản nợ
xấu, ngân hàng thường chấp nhận bán với giá thấp hơn giá trị khoản nợ để thu
hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng tới những khoản nợ còn lại. Để thực hiện
có hiệu quả biện pháp này, bên cạnh việc nhanh chóng đưa các khoản nợ xấu
ra khỏi bảng tổng kết tài sản, các ngân hàng thường thành lập một tổ chức có
tính chuyên môn hoá cao gọi là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Công
ty này sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện mua bán tiếp theo.
2.2.3.2.5. Sử dụng biện pháp pháp lý để xử lý
Biện pháp kiện khách hàng ra toà để đòi nợ được ngân hàng lựa chọn
khi các biện pháp trên không khả thi. Ngân hàng có thể nhờ toà án can thiệp
buộc khách hàng trả nợ, chuyển giao tài sản đảm bảo tiền vay, phát mại tài
sản của khách hàng hoặc nếu khách hàng là doanh nghiệp không trả được nợ
và ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin toà mở thủ tục
tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật phá sản. Theo quy định của luật này,
kể từ ngày Toà quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản, các khoản
nợ chưa tới hạn được coi là tới hạn, các chủ nợ không được tính lãi đối với
thời gian chưa tới hạn. Việc ngừng tính lãi (dù nợ chưa trả) là không có lợi
cho ngân hàng. Cho nên, yêu cầu phá sản doanh nghiệp là biện pháp cuối
cùng để ngân hàng thu hồi nợ.
Trên thực tế, việc phải sử dụng đến giải pháp này thường không đem lại
hiệu quả cao cho việc đòi nợ của ngân hàng vì thủ tục rắc rối, khách hàng
thường là không còn khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo có tranh chấp về pháp
lý hoặc không đủ giá trị bù đắp cho khoản vay, việc xử lý tài sản hoặc thu hồi
nợ thông qua cơ quan Thi hành án thường mất nhiều thời gian, tốn kém về chi
phí và thời gian...
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
20
Chuyên đề thực tập
2.2.3.2.6. Ngân hàng thương mại dùng dự phòng rủi ro để xử lý
Theo thông lệ quốc tế, muốn xoá nợ khê đọng phải có nguồn tiền nhất
định. Ở Việt Nam, tiền dùng để xử lý nợ là từ quỹ dự phòng rủi ro của ngân
hàng hoặc từ Ngân sách nhà nước.
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ
theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi
phí hoạt động của TCTD.
Những trường hợp được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro là khi khách hàng
vay vốn, bên được bảo lãnh vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là
những tổ chức bị giải thể, phá sản hoặc cá nhân bị chết, mất tích hoặc không
thực hiện được các nghĩa vụ nợ do bất khả kháng và những khoản nợ thuộc
nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn.
Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các ngân hàng
vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này
là ngân hàng sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều
giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn
không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú trọng vào các biện pháp thu
hồi nợ có tính triệt để hơn.
2.2.2.3.7. Sự trợ giúp của Chính phủ
Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính
sách của Chính phủ, các ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ Ngân
sách Nhà nước. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi như
khoản vay có bảo lãnh của bên thứ ba là Chính phủ. Do vậy, khi ngân hàng
không thể thu hồi được nợ từ khách hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ
phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính phủ có thể sử dụng Ngân sách
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
21
Chuyên đề thực tập
mua toàn bộ số nợ xấu của NHTM để xử lý dần trong một số năm nhằm giải
thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp ngân
hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh. Biện pháp này có hạn chế là thủ
tục, trình tự xử lý phức tạp, kéo dài, có sự tham gia của nhiều cơ quan chức
năng, không thể áp dụng thường xuyên vì vốn ngân sách có hạn, việc xử lý
một khối lượng lớn nợ xấu rất tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư cho các
lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế.
2..3. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về xử lý nợ xấu
2.3.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Những năm gần đây, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước Trung Quốc
luôn cao hơn mức cho phép. Năm 1995, tỷ lệ nợ xấu là 21,4%, đến năm 2000
tỷ lệ này tăng lên 29%. Năm 2001, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhằm làm
giảm bớt tỷ lệ nợ xấu song vẫn là 25,4%- cao hơn nhiều so với mức cho phép
của quốc tế. Tỷ lệ nợ xấu quá cao không những cản trở tiến trình cải cách của
NHTM Trung Quốc mà còn làm tăng rủi ro tài chính trong hệ thống ngân
hàng. Chính vì vậy, nhằm xử lý nợ tồn đọng, Trung Quốc đã áp dụng một số
giải pháp sau:
- Hoàn thiện các bộ luật, văn bản pháp quy về tiền tệ, phát hành trái
phiếu Chính phủ đặc biệt để bổ sung vốn cho các NHTM nhà nước.
- Xử lý nợ xấu của các NHTM thông qua việc cải cách quản lý nợ và
phân loại nợ thành 5 cấp dựa trên mức độ rủi ro: loại đạt tiêu chuẩn, loại nợ
đáng chú ý, loại nợ bình thường, loại nợ có nghi vấn và loại nợ dễ bị mất
nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động thi hành các biện pháp cần
thiết.
- Thành lập 4 công ty Quản lý tài sản trực thuộc 4 NHTM nhà nước để xử lý
nợ xấu theo hướng chuyển nợ thành cổ phần. Các công ty quản lý tài sản
được lập ra nhằm tiếp nhận, quản lý, xử lý các khoản nợ xấu của ngân hàng
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
22
Chuyên đề thực tập
chuyển giao. Các công ty này coi việc bảo toàn tài sản, giảm thua lỗ cho các
doanh nghiệp nhà nước làm mục tiêu hoạt động chủ yếu của mình. Vốn ban
đầu của 4 công ty là 10 tỷ NDT (1,2 tỷ USD) và do Bộ Tài chính Trung Quốc
cấp. Trong quá trình hoạt động, các công ty này có quyền phát hành trái phiếu
có sự bảo đảm của ngành tài chính ra công chúng, sau đó dùng vốn thu được
để mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, trực tiếp chuyển các khoản nợ
này thành khoản đầu tư vào doanh nghiệp hoặc thành cổ phần của doanh
nghiệp. Đối với các DNNN lâm vào khó khăn, Công ty Quản lý tài sản thực
hiện mua lại quyền sở hữu nợ và cổ phần của các nhà đầu tư ở trong và ngoài
nước của doanh nghiệp nhà nước, tổ chức lại doanh nghiệp thông qua chuyển
nợ thành cổ phần, thực hiện thanh lý, phá sản đối với các doanh nghiệp có
những khoản nợ khổng lồ và không có khả năng thanh toán. Như vậy, thông
qua việc chuyển nợ thành cổ phần, các doanh nghiệp thay vì phải trả lãi các
khoản nợ ngân hàng đã chuyển sang trả cổ tức cho cổ đông. Đây là giải pháp
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa Ngân hàng và doanh nghiệp
2.3.2. Kinh nghiệm từ Thái Lan
Thập kỷ 80, 90 nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng, có hiệu quả và tương
ứng với diễn biến đó là nợ xấu (NPLs) ở khu vực ngân hàng là khá thấp.
Những biện pháp thường được các ngân hàng áp dụng là: gia hạn nợ, điều
chỉnh lãi suất vay, đảo nợ. Các biện pháp này đã có kết quả khi mới sảy ra nợ
xấu. Đó là việc làm trước tiên của ngân hàng.
Nhưng từ năm 1997, nhất là năm 1998, tác động mạnh của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ lên nền kinh tế, nhiều Công ty là khách hàng vay nợ
ngân hàng không còn khả năng thanh toán, nợ quá hạn tăng lên đột ngột thì
các giải pháp nói trên tỏ ra không có hiệu quả nữa. Do vậy, cần có các giải
pháp khác như tái cơ cấu doanh nghiệp, đấu thầu quản lý Công ty, tái cơ cấu
nợ ngân hàng..…qua đó tách ra khỏi doanh nghiệp các khoản nợ xấu tạo điều
kiện để họ cạnh tranh được trong thị trường đầy biến động. Bốn mô hình
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
23
Chuyên đề thực tập
(phương thức) đã được Thái Lan áp dụng là: cơ cấu kế hoạch hoá; chu trình
CDRAC; phương án không chính thức; phương án tái cơ cấu.
* Cơ cấu kế hoạch hoá (Planner Regime)
Theo mô hình này, doanh nghiệp con nợ phải đệ đơn, cơ quan quản lý
phải chỉ định đối tác, con nợ phải xuất trình kế hoạch trong thời hạn ấn định,
sự chấp nhận kế hoạch của con nợ, tổ chức gặp gỡ giữa các chủ nợ và người
tham gia kế hoạch. Toà án xem xét kế hoạch, chấp nhận hoặc không chấp
nhận để doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch đó trong thời hạn từ 5-7 năm.
Ngân hàng có quyền can thiệp vào một Công ty, trong trường hợp công ty
không hoàn trả vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên áp dụng mô hình này rất khó,
vì các công ty tìm mọi cách để ngân hàng không can thiệp vào. Họ tìm cách
“ru ngủ” ngân hàng, tạo ra bảng cân đối của Công ty và chứng tỏ là có lợi
nhuận. Họ thành lập các Công ty con rồi chuyển lợi nhuận cho các Công ty
đó, và còn nhiều thủ thuật khác để ngăn cản không cho ngân hàng can thiệp.
* Chu trình CDRAC (Corporate Debt Restructuring Advisory
Committee)
Dưới sức ép của IMF, Thái Lan đã phải xây dựng một Luật để có hành
lang pháp lý cao hơn. Theo đó yêu cầu chủ nợ là ngân hàng và con nợ phải ký
kết với nhau và về phía nhà nước phải lập ra một Uỷ ban tư vấn tái cơ cấu nợ,
do Ngân hàng trung ương Thái Lan đảm nhiệm. Uỷ ban này viết tắt là
CDRAC. Bước tiếp cận mới này, yêu cầu các con nợ phải cung cấp thông tin
đầy đủ cho chủ nợ và phải có thái độ rõ ràng trong một thời gian sớm nhất, để
biết họ có khả năng tài chính trả nợ không, tiếp đó là ngân hàng cam kết giúp
đỡ con nợ duy trì hoạt động để có nguồn trả nợ. Uỷ ban CDRAC là người có
quyền xem xét việc thương thuyết giữa chủ nợ và con nợ, đưa ra yêu cầu 2
bên phải thực hiện.
Thực chất của phương thức này là sử dụng công cụ thương thuyết giữa
chủ nợ và con nợ. Ngân hàng nào có con nợ lớn nhất thì đưa ra kế hoạch sơ
thảo và đứng ra triệu tập họp. Các chủ nợ họp trước, làm biên bản ghi nhớ,
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
24
Chuyên đề thực tập
sau đó mời các con nợ đến bàn thảo. Trong thời gian 3 tháng nghiên cứu, các
chủ nợ lập kế hoạch và chuyển kế hoạch đó cho con nợ nghiên cứu trước.
Cuộc họp được chính thức tiến hành, sau trao đổi thảo luận là biểu quyết lần
1, nếu không xong lại bàn thảo tiếp và biểu quyết lần 2. Biểu quyết lần 2
mang tính chất bắt buộc. Nếu không nhất trí thông qua, thì quay lại từ đầu.
Kết quả xấu nhất, qua các lần làm đi, làm lại vẫn không thống nhất được thì
biện pháp cuối cùng là đưa ra toà án.
* Các phương án không chính thức (Informal Workouts)
Phương án này áp dụng với những Công ty có trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh tốt, nhưng lại gặp khó khăn tạm thời về khả năng thanh toán. Họ
phải chủ động đề ra các phương án hiệu quả, nhanh chóng khắc phục khó
khăn, mà không cần có sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Tuy vậy có rất ít phương án không chính thức để đưa đến tái cơ cấu
thực sự. Hầu hết các khách hàng vay lớn tìm cách bảo vệ quyền lợi của mình
và không sẵn sàng thảo luận vay trên cơ sở thương mại. Hậu quả là, các ngân
hàng không đầu tư thêm vốn để hỗ trợ các Công ty.
Ngân hàng Trung ương Thái Lan cho biết, phương pháp này rất có hiệu
quả đối vớí những Công ty thiếu khả năng chi trả tạm thời, nhưng lãnh đạo
Công ty có khả năng và có trình độ quản lý kinh doanh. Trong trường hợp
này, nếu lãnh đạo Công ty có trình độ, có quyết tâm cao và có phương án cụ
thể để khắc phục, thì ngân hàng tiếp tục hỗ trợ để khắc phục sự mất cân đối
tạm thời để duy trì sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu lãnh đạo
Công ty yếu kém, thì phương thức này có nhược điểm là không đưa ra được
tư vấn cụ thể nào cho khách hàng và ngân hàng, nó cũng không giúp cho 2
bên một sáng kiến nào, không đưa ra một nguồn vốn nào cho chủ nợ và con
nợ.
* Các Công ty Quản lý tài sản – AMC
SV:Nguyễn Quang Linh Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47A
25