Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC HẠCH TOÁN DOANH THU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.23 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC HẠCH TOÁN DOANH THU
CHI PHÍ TRONG NGÀNH BƯU CHÍNH – VIỄN THÔNG
1.1- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH THU - CHI PHÍ TRONG NGÀNH BƯU
CHÍNH - VIỄN THÔNG ( BC – VT ) :
1.1.1. Những đặc điểm của kinh doanh BC - VT có ảnh hưởng đến công
tác kế toán của Công ty Viễn thông .
Ngành Bưu điện là ngành thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân, là
ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có những đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh
doanh đặc thù, là một ngành kinh tế đặc biệt vừa có tính phục vụ vừa có tính kinh
doanh, là công cụ của Đảng và Nhà nước trong việc truyền dẫn các thông tin về
chính sách kinh tế xã hội phục vụ nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực trong quá trình
kinh doanh. Là ngành sản xuất vật chất đặc biệt chính vì vậy mà ảnh hưởng đến tổ
chức công tác kế toán.
a ) Sản phẩm Viễn thông là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa
thông tin từ người gưỉ đến ngươì nhận:
Sản phẩm viễn thông không phải là vật thể cụ thể, không phải là vật thể chế
tạo mới. Tính không vật thể được thể hiện dưới dạng kết tinh của lao động sống và
lao động qúa khứ trong tin tức được truyền đưa. Chỉ khi được truyền đưa tin tức
được hoàn thanh mới được coi là sản phẩm. Chính vì lẽ đó tổ chức công tác kế
toán trong doanh nghiệp Bưu chính viễn thông có những đặc thù riêng mà biểu
hiện cụ thể trong việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán do Nhà nước ban hành
không như các doanh nghiệp khác.
Ví dụ: Không sử dụng tài khoản 155 – Thành phẩm , để quản lý thành phẩm
Bưu chính viễn thông sản xuất ra nhập kho…
b ) Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm:
Nghiên cứu quá trình sản xuất ta thấy: Khi nhận tin vào lúc bắt đầu sản xuất,
khi tin tức đến tay người nhận kết thúc quá trình sản xuất cũng là lúc hoàn thành
quá trình tiêu thụ. Do đó trong tổ chức công tác kế toán, không hạch toán quá trình
xuất kho thành phẩm bán hoặc quá trình đưa hàng đi gửi bán chờ tiêu thụ.
c ) Quá trình sản xuất mang tính dây truyền do nhiều đơn vị tham gia:
Để truyền đưa một tin tức hoàn chỉnh từ người gửi đến người nhận, tin


thường có sự tham gia của 2 hay nhiều doanh nghiệp Bưu điện, mỗi doanh nghiệp
bưu điện thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức. Việc
thu cước chỉ diễn ra một nơi thường là nơi gửi. Chính vì thế mà doanh thu, cước
thu được không thể coi là kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị chấp nhận gửi.
Doanh thu này phải được phân chia lại cho tất cả các đơn vị cùng tham gia.
Nơi ký gưỉ tin Truyền đưa Đơn vị trung gian Truyền đưa Nơi nhận thông tin
Đơn vị 1 Đơn vị 2 Đơn vị 3 Đơn vị 4 Đơn vị 5
Từ quy trình trên ta thấy mỗi đơn vị Bưu điện chỉ thực hiện một công đoạn
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chi phí cho một quá trình sản phẩm
Bưu điện rải rác ở nhiều đơn vị song giá bán toàn trình lại chỉ được thực hiện ở
một nơi đó là nơi ký gửi thông tin do vậy trong từng đơn vị Bưu điện không thể
xác định chính xác chi phí và thu nhập nên chi phí và thu nhập Bưu chính viễn
thông chỉ được xác định trên phạm vi toàn ngành.
Các đơn vị Bưu điện tỉnh là đơn vị hạch toán phụ thuộc, các Bưu điện
huyện, thị xã Công ty Viễn thông trực thuộc Bưu điện tỉnh là đơn vị hạch toán nội
bộ, từ đó xuất hiện rất nhiều mối quan hệ thanh toán qua lại lẫn nhau về doanh thu,
chi phí, chi hộ, thu hộ được cấp và phải nộp.v.v giữa Bưu điện huyện và các Công
ty trực thuộc, giữa Bưu điện huyện với các công ty. Do đó TK 136 – Phải thu nội
bộ, và TK 336 – Phải trả nội bộ được quy định rất chi tiết, tỉ mỉ để phản ánh những
mối quan hệ thanh toán qua lại này.
d ) Đối tượng lao động của các doanh nghiệp Bưu chính – Viễn thông là
tin tức.
Đây là một đặc điểm vừa thuận lợi vừa khó khăn cho việc tổ chức công tác
kế toán trong doanh nghiệp Bưu chính - Viễn thông, thuận lợi ở chỗ các doanh
nghiệp Bưu chính viễn thông không phải bỏ tiền ra mua đối tượng lao động như
các ngành khác, tiết kiệm đáng kể vốn trong kinh doanh và công tác kế toán cũng
giảm bớt phần nào do không phải mở số theo dõi chi tiết và hạch toán đối tượng
lao động. Nhưng ngược lại, tin tức do khách hàng đem đến không đồng đều theo
thời gian, giờ trong ngày, ngày trong tuần, tuần trong tháng và tháng trong năm,
dẫn đến khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh không đồng đều, công việc kế toàn

nhiều lúc dồn lại đòi hỏi kế toán viên phải tăng cường độ cũng như thời gian lao
động mới giải quyết hết được khối lượng công việc.
Cũng do đặc điểm đối tượng lao động là tin tức do khách hàng đem đến, vì
vậy muốn sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Bưu chính –Viễn thông phải tiếp
cận với khách hàng, phải có mạng lưới rộng khắp, các Bưu cục triển khai đến từng
xã, từng cụm dân cư, do đó việc tổ chức bộ máy kế toán phải phù hợp với mô hình
tổ chức sản xuất.
Đặc điểm kinh doanh của ngành BCVT có ảnh hưởng rất lớn tới nội dung
doanh thu, chi phí và hạch toán doanh thu, chi phí kinh doanh. Các Bưu điện thuộc
tỉnh miền núi sản phẩm đến thì ít, sản phẩm qua thì nhiều, chi phí lớn nhưng doanh
thu ít, tin tức tới người nhận, không thể lấy thu bù chi phí bỏ ra. Vì vậy ngành Bưu
điện được phép phân phối lại doanh thu ở những đơn vị có thu nhiều mà không
phải nhận trả tin lớn, các cơ sở Bưu điện được áp dụng hạch toán kinh tế không
đầy đủ theo hình thức thu hạch toán phụ thuộc (hạch toán toàn ngành) việc hạch
toán kinh doanh được quy định như sau:
Từng đơn vị Bưu điện xác định doanh thu trong tổng doanh thu ngành phù
hợp với kết quả đóng góp của từng đơn vị theo phương thức ăn chia cước, ngành
tạm thời xác định doanh thu riêng của từng đơn vị theo hệ số phân phối doanh thu.
Hệ số phân phối doanh thu của từng đơn vị theo hệ số phân phối doanh thu. Hệ số
phân phối doanh thu của từng đơn vị do Tổng giám đốc Tổng công ty BC-VT Việt
nam quy định và phần chi phí cho mỗi đơn vị cũng do Tổng giám đốc phân phối
dựa trên cơ sở kế hoạch và thực tế khối lượng sản phẩm Bưu điện đi - đến – qua
cùng với lao động đóng góp của từng đơn vị Bưu điện.
Có thể nói tổ chức bộ máy kế toán trong Tổng công ty Bưu chính – Viễn
thông với mô hình vừa tập trung, vừa phân tán đã đáp ứng được yêu cầu quản lý
trong điều kiện cạnh tranh hội nhập và phát triển.
1.1.2 . Chi phí kinh doanh ngành Bưu chính – Viễn thông
a ) Khái niệm chi phí kinh doanh :
Chi phí sản xuất - kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí
về lao động sống và lao dộng vật hoá mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ

để thực hiện quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm . Thực chất chi phí là sự dịch
chuyển vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá
( sản phẩm , lao vụ , dịch vụ ) liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh trong
một thời kỳ nhất định ( tháng , quý , năm ) .
Nền sản xuất của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận
động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất . Nói cách khác , quá
trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp cả 3 yếu tố : Tư liệu lao động - Đối
tượng lao động – Sức lao động . Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá cúng chính
là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên . Như vậy để tiến hành sản
xuất hàng hoá , người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động , về tư liệu lao
động và đối tượng lao động . Vì thế , sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo
ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan , không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của người sản xuất .
Tuy nhiên chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ
mật thiết với nhau . Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí , không có chi tiêu thì
không có chi phí . Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá
trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất - kinh doanh tính vào
kỳ này . Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về
thời gian , có những khoản chi tiêu kỳ này không được tính vào chi phí ( Vật liệu
mua về nhập kho ) . Và có những khoản tính vào chi kỳ này nhưng thực tế chưa chi
tiêu ( Chi phí trích trước ) . Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các
doanh nghiệp là do đặc điểm , tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá
trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng
b ) Chi phí kinh doanh dịch vụ Bưu chính - Viễn thông ( BC-VT ) :
Quan niệm về chi phí sản xuất trong ngành BV - VT cũng không nằm ngoài
quan điểm chung về chi phí sản xuất - kinh doanh . Do có đặc điểm là ngành sản
xuất vật chất đặc biệt nên chi phí trong ngành BC - VT luôn luôn được gắn liền
với quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm , và đều nhằm một mục đích là phải tạo
ra được sản phẩm phù hợp với nhiệm vụ sản xuất đã xác định và thực hiện .
Các khoản chi phí luôn vận động thay đổi trong quá trình tái sản xuất , tính

đa dạng của nó được thể hiện cụ thể gắn liền với sự đa dạng , phức tạp của các loại
hình sản xuất khác nhau , các giai đoạn công nghệ khác nhau , của sự tiến bộ
không ngừng của khoa học kỹ thuật .
Chi phí kinh doanh dịch vụ BC – VT bao gồm nhiều loại có nội dung , có
tính chất kinh tế , có mục đích , có công dụng khác nhau . Vì vậy để đáp ứng yêu
cầu quản lý kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất cho các đối tượng có liên
quan theo nội dung chi phí phát sinh .
c ) Phân loại chi phí :
 Phân loại chi phí theo yếu tố ( tính chất )
Theo cách phân loại này người ta dựa vào sự giống nhau về tính chất ban
đầu của chi phí chi ra trong sản xuất để sắp xếp chi phí sản xuất thành các yếu tố
mà không cần biết các phi phí đó phát sinh ở đâu , sử dụng vào việc gì . Theo cách
này chi phí được chia thành :
- Chi phí nguyên , vật liệu
- Chi phí nhân công
- Chi phí khấu hao TSCĐ
- Chi phí dịch vụ mua ngoài .
Việc phân loại này cho ta biết kết cấu tỷ trọng của từng loại chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình ( kỳ ) sản xuất và phản ánh trong bảng thuyết
minh báo cáo tài chính để phục vụ nhu cầu thông tin , quản lý doanh nghiệp và lập
dự toán chi phí cho sản xuất kỳ sau .
 Phân loại theo công dụng kinh tế ( Khoản mục )
Phân loại chi phí theo cách này là căn cứ vào công dụng của chi phí , các
khoản chi phí có cùng một công dụng kinh tế được đưa vào một khoản chi phí bao
gồm :
- Chi phí nguyên nhiện vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung
- Chi phí bán hàng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp

Các yếu tố và khoản mục chi phí nêu trên có thể được chi tiết hoá thành
nhiều yếu tố hoặc nhiều khoản mục phù hợp với đặc điểm phát sinh và hình thành
chi phí .tại doanh nghiệp . Việc phân loại chi phí này có tác dụng cung cấp thông

×