Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HẠCH TOÁN
THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT
I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM VÀ
TIÊU THỤ THÀNH PHẨM
1. Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm:
a. Thành phẩm và vai trò của thành phẩm
Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp bao gồm thành phẩm, nửa thành
phẩm và lao vụ mà các đơn vị sản xuất ra để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của xã
hội trong đó thành phẩm chiếm đại bộ phận.
Thành phẩm: là những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn chế biến cuói cùng của qui
trình công nghệ sản xuất sản phẩm, do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và sản
xuất kinh doanh phụ của đơn vị tiến hành sản xuất xong hoặc thuê ngoài đã được
kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật và nhập kho hoặc giao trực tiếp cho
khách hàng.
Nửa thành phẩm: là những thành phẩm chưa qua giai đoạn chế biến cuối cùng của
quá trình chế biến, nhưng do yêu cầu của sản xuất và tiêu thụ nên được nhập kho
thành phẩm và khi bán cho khách hàng nửa thành phẩm cũng có ý nghĩa như thành
phẩm.
Thành phẩm được biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Số lượng thành
phẩm được xác định bằng các đơn vị đo lường như kg, lít, mét… Còn chất lượng thì
lại được xác định bằng tỷ lệ phần trăm tốt hay xấu hoặc được phân cấp theo phẩm cấp.
Sản xuất sản phẩm, hàng hoá là một quá trình diễn ra một cách thường xuyên có
tính chất lượng, phân công lao động có tính chuyên môn hoá cao. Trong một ngành
kinh tế, sản phẩm của công ty này có thể là vật liệu của công ty khác. Vì vậy thành
phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế và bản thân mỗi
doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp khối lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ là cơ sở để đánh
giá quy mô sản xuất của đơn vị, tỷ trọng cung ứng của doanh nghiệp về sản phẩm
trong nền kinh tế quốc dân. Qua đó có những đánh giá, phân tích về tình hình hoạt
SV : Nguyễn Thành Long
1
1
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
động tài chính của doanh nghiệp. Đây chính là những thông tin quan trọng ảnh hưởng
đến quan hệ của doanh nghiệp với các cơ quan quản lý của Nhà nước, với các đối tác
kinh doanh.
Đối với Nhà nước, khối lượng thành phẩm hoàn thành trong kỳ là cơ sở quan trọng
để Nhà nước xác định các khoản đóng góp nghĩa vụ của doanh nghiệp vào ngân sách
Nhà nước, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Đối với xã hội, khối lượng thành phẩm hoàn thành của doanh nghiệp là nguồn
hàng hóa tạo nên sự phong phú, đa dạng cho thị trường hàng hoá, đảm bảo sự cân đối
cần thiết giữa tiền và hàng. Thành phẩm của các doanh nghiệp là nguồn của cải vật
chất quan trọng không những cho tiêu dùng mà còn cho quá trình tái sản xuất mở rộng
nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, thành phẩm còn là kết quả lao động, sáng tạo của công nhân viên chức
trong doanh nghiệp. Vì vậy, công tác kế toán về thành phẩm phải luôn được quan tâm,
đảm bảo an toàn tối đa cho thành phẩm, tránh mọi tổn thất làm ảnh hưởng đến tài sản,
tiền vốn và thu nhập của doanh nghiệp, cần phải quản lý chặt chẽ thành phẩm cả về
chất lượng và số lượng để đảm bảo chữ tín trong doanh nghiệp.
b. Yêu cầu quản lý thành phẩm:
Như chúng ta đã biết, thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của tập thể người
lao động, là cơ sở để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Mọi tổn thất của quá trình sản
xuất thành phẩm trước hết ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của các đơn vị khác.
Chính vì vậy yêu cầu đặt ra là phải quản lý tốt thành phẩm đi đôi với việc kiểm tra
giám sát chặt chẽ về số lượng và về chủng loại thành phẩm góp phần nâng cao chất
lượng quản lý. Để quản lý thành phẩm một cách chặt chẽ các doanh nghiệp cần phải
làm tốt các yêu cầu sau:
- Trước hết phải quản lý về mặt số lượng. Muốn vậy phải thường xuyên phản ánh
giám sát tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh; tình hình xuất - nhập - tồn kho - dự
trữ thành phẩm để kịp thời phát hiện các trường hợp hàng hoá tồn đọng lâu trong kho
không được tiêu thụ, tìm biện pháp giải quyết, tránh trường hợp ứ đọng vốn.
- Bên cạnh đó, phải quản lý chặt chẽ về mặt chất lượng thành phẩm. Tránh việc
đưa ra thị trường các sản phẩm kém phẩm chất, bởi trong điều kiện hiện nay nó sẽ
SV : Nguyễn Thành Long
2
2
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đi đôi với việc
thường xuyên tăng cường chất lượng thành phẩm, doanh nghiệp cần phải thường
xuyên cải tiến mẫu mã, chủng loại mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
xã hội.
2. Tiêu thụ thành phẩm và yêu cầu quản lý tiêu thụ
a. Tiêu thụ thành phẩm và vai trò của tiêu thụ thành phẩm
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp chỉ có nhiệm vụ sản xuất ra
thành phẩm, còn tiêu thụ thuộc về trách nhiệm Nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, Nhà nước chỉ điều hành vĩ mô nền kinh tế thì các doanh nghiệp phải đảm
nhiệm cả nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ. Đây là điều mới mẻ song cần thiết giúp các
doanh nghiệp tự khẳng định mình và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Tiêu thụ là quá trình thực hiện trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để
thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Trong quá trình đó doanh nghiệp
chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, còn khách hàng trả cho
doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán sản phẩm hàng hoá đó theo giá trị
thoả thuận. Quá trình tiêu thụ kết thúc khi cả hai điều kiện sau được đảm bảo:
- Doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm và quyền sở hữu cho người mua
- Người mua đã trả tiền mua hoặc chấp nhận thanh toán.
Điều trên có nghĩa là trong quá trình tiêu thụ phải có sự thay đổi thoả thuận giữa
bên mua và bên bán, phải có sự thay đổi về quyền sở hữu sản phẩm và cả hai bên thực
hiện quá trình hàng và tiền.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ thành phẩm
là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa thành phẩm từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là
sản xuất và một bên là tiêu dùng.
Ở các doanh nghiệp tiêu thụ thành phẩm đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Khi thành phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ
tức là nó được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu
thụ thành phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, sự thích ứng với người tiêu
dùng, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm và sự hoàn thiện các hoạt động
SV : Nguyễn Thành Long
3
3
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
các hoạt động của đơn vị. Nói cách khác, tiêu thụ thành phẩm phản ánh đầy đủ những
điểm mạnh, những điểm yếu của doanh nghiệp.
Thông qua công tác tiêu thụ thành phẩm các nhà sản xuất có thể hiểu thêm về kết
quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ thành phẩm có vai trò trong việc cân đối cung
cầu nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nó giúp cho doanh nghiệp xác định được phương
hướng và bước đi kế tiếp của kế hoạch sản xuất giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu
thụ mỗi loại thành phẩm còn có thể dự đoán được nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói
chung và từng khu vực nói riêng.
b. Yêu cầu quản lý tiêu thụ
Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện tốt khâu tiêu thụ hàng hóa là
cơ sở cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng. Giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa tiền và hàng. Giữa sản xuất và tiêu dùng có quan hệ chặt chẽ, do đó
việc quản lý công tác tiêu thụ là cần thiết.
Để quản lý tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, cần phải quản lý chặt chẽ khối lượng sản
phẩm tiêu thụ, giá thành, giá bán, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán theo
hợp đồng đã ký kết và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra để đảm
bảo tính liên tục của quá trình sản xuất và việc sử dụng vốn có hiệu quả thì trong công
tác tiêu thụ cần biết rõ từng khoản thu nhập, nguyên nhân tăng, giảm từng khoản đó
đồng thời phân tích các nguyên nhân để tìm ra biện pháp có hiệu quả cao nhất.
3. Vai trò của kế toán đối với việc quản lý thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm
Thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là khâu động của hoạt động kinh doanh trong
xí nghiệp, vì quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra sản
phẩm mà phải tiêu thụ kịp thời. Giữa kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ luôn có
mối quan hệ mật thiết, trong đó sản xuất là cái gốc của tiêu thụ. Nếu sản xuất không
hoàn thành thì tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, bởi vậy kế toán thành phẩm và tiêu thụ
thành phẩm luôn gắn liền với nhau và có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thật vậy, thông qua số liệu của kế toán mà giám đốc xí nghiệp và cơ quan cấp trên
có thể biết được mức độ hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp về sản xuất sản phẩm,
SV : Nguyễn Thành Long
4
4
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
quá trình tiêu thụ để từ đó phát hiện phát hiện kịp thời những sai sót, mất cân đối ở
từng khâu của quá trình lập và thực hiện kế hoạch, đảm bảo sự cân đối thường xuyên
giữa các yếu tố của quá trình tiêu thụ, dự trữ… Để đạt được yêu cầu đó, công tác tổ
chức quản lý phải thật sự khoa học, đặc biệt là kế toán thành phẩm và tiêu thụ sản
phẩm.
Để phát huy vai trò của kế toán đối với công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phỉa thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Phản ánh, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm về thành phẩm, chất
lượng và chủng loại; tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm.
- Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ, tình hình thanh toán
tiền hàng, thanh toán hàng, thanh toán với ngân sách và xác định chính xác kết quả
tiêu thụ.
- Phản ánh và giám đốc tình hình thu nhập, cung cấp số liệu cho việc quyết toán
đầy đủ và đúng hạn.
- Lập và gửi báo cáo kết quả kinh doanh đúng chế độ, kịp thời. Định kỳ tiến hành
phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ của xí nghiệp.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý
chặt chẽ thành phẩm tiêu thụ trong xí nghiệp.
Song toàn bộ vai trò và nhiệm vụ đã nêu trên của kế toán thành phẩm và tiêu thụ
thành phẩm chỉ thực sự phát huy tác dụng khi cán bộ kế toán nắm vững nội dung việc
tổ chức công tác kế toán.
II: NỘI DUNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM
TRONG DOANH NGIỆP
1. Yêu cầu của công tác kế toán thành phẩm
Để quản lý và hạch toán chặt chẽ thành phẩm, công tác kế toán thành phẩm phải
được tổ chức theo nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Phải tổ chức hạch toán thành phẩm theo chủng loại thành phẩm,
theo đúng số lượng, chất lượng thành phẩm.
SV : Nguyễn Thành Long
5
5
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
Nguyên tắc 2: Phải kết hợp việc ghi chép của kế toán thành phẩm với việc ghi
chép ở kho và ở phân xưởng sản xuất, đảm bảo cho thành phẩm được phản ánh kịp
thời, chính xác phục vụ cho việc quản lý thành phẩm được chặt chẽ.
Nguyên tắc 3: Đối với thành phẩm trong xí nghiệp công ghiệp, khi nhập kho, xuất
kho phải ghi theo giá thành thực tế.
Nguyên tắc 4: Sự biến động của thành phẩm có rất nhiều nguyên nhân, vì vậy để
phản ánh được tình hình biến động của thành phẩm phải tổ chức công tác ghi chép
ban đầu một cách khoa học hợp lý.
2. Đánh giá thành phẩm
Đánh giá thành phẩm là xác định giá trị chúng theo nguyên tắc nhất định.
đối với thành phẩm phải xác định theo giá thực tế, xong trong doanh nghiệp có
nhiều loại thành phẩm và có biến động thường xuyên. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu
hạch toán hàng ngày, doanh nghiệp có thể xử dụng giá hạch toán để hạch toán chi tiết
hàng ngày. Nhưng đến cuối tháng hoặc cuối kỳ hạch toán kế toán phải tính hệ số giá
để chuyển giá hạch toán sang giá thực tế .
Giá hạch toán thành phẩm là giá ổn điịnh trong một niên độ kế toán, do phòng kế
toán quy định. Giá hạch toán có thể là giá thành kế hoạch hoặc theo giá nhập kho
tthống nhất quy định.
2.1. Đánh giá thành phẩm nhập kho
Trị giá thành phẩm phản ánh trong kế toán tổng hợp phải được phản ánh theo
nguyên tắc giá thực tế hay còn gọi là giá vốn thực tế có nghĩa là đánh giá theo giá
thành sản xuất. Giá thực tế của thành phẩm nhập kho được xác định với từng nguồn
nhập:
- Thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra được đánh giá theo giá thành công
xưởng thực tế:
Z
cxtt
= CPNVL trực tiếp + CPNC trực tiếp + CPSX chung
- Thành phẩm thuê ngoài gia công được đánh giá theo giá thành thực tế gia công
bao gồm: CPNVL trực tiếp đem gia công, chi phí thuê nhân công gia công và các chi
phí khác có liên quan đến thành phẩm gia công như chi phí vận chuyển, bảo quản…
- Đối với thành phẩm mua ngoài thì được tính theo giá vốn thực tế bao gồm giá
mua ghi trên hoá đơn (bao gồm cả thuế ) cộng với các chi phí mua thực tế như chi phí
SV : Nguyễn Thành Long
6
6
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
vận chuyển, bảo quản, chi phí thu mua… trừ đi các khoản giảm giá (nếu có). Như vậy,
ta có thể nhận thấy chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp được coi là chi phí làm
giảm lợi tức trong kỳ mà chúng phát sinh, chứ không cấu tạo nên thành phẩm. Do vậy,
các chi phí này được khấu trừ vào lợi tức của kỳ hạch toán đó để tính ra lợi tức ròng.
2.2. Đánh giá thành phẩm xuất kho
Đối với thành phẩm xuất kho, các doanh nghiệp có thể tuỳ theo đặc điểm thành
phẩm, tình hình quản lý của mình mà lựa chọn phương pháp hạch toán thích hợp
nhưng phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán.
Các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp tính giá thành thực
tế của thành phẩm xuất kho sau đây:
(1) Phương pháp bình quân gia quyền
Giá thành thực tế thành phẩm Giá thành thực tế thành phẩm
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong kỳ
Đơn giá bình quân = --------------------------------------------------------------------------
gia quyền Số lượng thành phẩm + Số lượng thành phẩm
tồn kho đầu kỳ nhập trong kỳ
Giá thành thực tế thành phẩm = Đơn giá bình x Số lượng thành
phẩm
xuất bán trong kỳ quân gia quyền xuất bán trong tháng
(2) Phương pháp nhập trước, xuất trước
Nguyên tắc thực hiện là nhập kho theo giá nào thì xuất theo giá đó và hàng nào
nhập trước thì xuất trước, xuất hết lô hàng nhập trước mới đến lô hàng nhập lần sau.
Phương pháp này phù hợp với việc bảo quản hàng tại kho. Giá tồn kho và giá bán
ra được phản ánh chính xác nhưng khó khăn trong hạch toán chi tiết. Do vậy, phương
pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có chủng loại mặt hàng ít, việc nhập xuất
không thường xuyên.
(3) Phương pháp nhập sau, xuất trước:
Theo phương pháp này doanh nghiệp tiến hành xuất lô hàng của lần nhập sau cùng
trước, nhập theo giá nào xuất theo giá đó.
SV : Nguyễn Thành Long
7
7
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
Sử dụng phương pháp này hạch toán thì thành phẩm trong doanh nghiệp phải được
phản ánh một cách chính xác theo từng lô hàng nhập vào, bán ta. Phương pháp này
thể hiện đầy đủ nhất nguyên tắc phù hợp, nghĩa là trị giá vốn của hàng bán ta phù hợp
với doanh thu tạo ra trong kỳ nên nó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong
hạch toán kế toán cũng như trong kế hoạch tiêu thụ. Tuy nhiên phương pháp này
không phù hợp với việc bảo quản hàng hoá tại kho.
(4) Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này thành phẩm được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng
lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp điều chỉnh)
phương pháp này thường sử dụng các loại vật liệu có giá trị cao và có tính cách biệt.
Khi sử dụng phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, theo dõi chặt
chẽ các loại thành phẩm theo từng lô. Khi xuất kho thành phẩm theo lô nào thì căn cứ
vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho thực tế của lô hàng đó để tính ra trị giá
hàng xuất kho.
(5) Phương pháp giá hạch toán
Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, khối lượng, chủng loại mặt hàng nhiều,
tình trạng nhập - xuất diễn ra thường xuyên nên việc xác định giá thực tế thành phẩm
xuất kho rất khó khăn. Bên cạnh đó, giá thành thực tế lại chỉ có thể tính vào cuối
tháng. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, công tác kế toán doanh
nghiệp có thể sử dụng phương pháp hạch toán để hạch toán tình hình nhập xuất hàng
ngày. Cuối kỳ kế toán phải điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế. Việc điều chỉnh
này căn cứ vào hệ số giá. Hệ số giá được tính bằng công thức sau:
Giá thực tế của thành phẩm + Giá thực tế của thành phẩm
tồn đầu kỳ nhập trongkỳ
Hệ số giá = --------------------------------------------------------------------------------
Giá hạch toán của thành phẩm + Giá hạch toán của thành phẩm
tồn đầu kỳ tồn kho trong kỳ
Sau đó căn cứ vào giá hạch toán thành phẩm xuất kho và hệ số giá ta tính được giá
thực tế của thành phẩm xuất kho bằng công thức sau:
Giá thành của thành phẩm = Hệ số giá x Giá hạch toán của thành phẩm
SV : Nguyễn Thành Long
8
8
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
xuất kho xuất kho
3. Chứng từ sử dụng
Để quản lý chặt chẽ thành phẩm, các hoạt động nhập, xuất kho thành phẩm đều
phải lập chứng từ kế toán một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng với quy định của
chế độ ghi chép ban đầu. Những chứng từ này sẽ là cơ sở pháp lý để tiến hành hạch
toán nhập, xuất kho thành phẩm, đồng thời là chứng cứ pháp lý khi xảy ra khiếu kiện.
Các chứng từ kế toán được sử dụng trong kế toán thành phẩm là:
- Phiếu nhập kho
- Biên bản kiểm kê kho
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho
- Phiếu xuất kho
4. Kế toán chi tiết thành phẩm
Kế toán chi tiết thành phẩm là kê toán theo từng danh điểm, từng loại thành phẩm,
từng kho thành phẩm, theo từng người chịu trách nhiệm bảo quản. Kế toán chi tiết
thành phẩm có thể tiến hành theo một trong ba phương pháp sau:
SV : Nguyễn Thành Long
9
9
Thẻ kho
Chứng từ nhập Chứng từ xuất
Sổ kế toán chi tiết
BK tổng hợp nhập - xuất - tồn Kế toán tổng hợp
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
4.1. Phương pháp ghi thẻ song song
Trong phương pháp này, việc hạch toán thành phẩm được tiến hành đồng thời ở cả
kho và phòng kế toán.
Ở kho: Việc ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm hàng ngày do thủ
kho tiến hành trên thẻ kho và chỉ ghi theo số lượng căn cứ vào số liệu trên các chứng
từ nhập, xuất kho (sau khi đã kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chứng từ).
Ở phòng kế toán: Kế toán sử dụng sổ chi tiết kế toán thành phẩm để ghi chép tình
hình nhập, xuất, tồn kho theo chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Cuối tháng, kế toán cộng sổ
chi tiết thành phẩm của mình và tiến hành kiểm tra, đối chiếu với thẻ kho do kế toán
đưa lên. Có thể khái quát nội dung trình tự kế toán chi tiết thành phẩm theo phương
pháp ghi thẻ song song như sau:
Ghi chú: : ghi hàng ngày
: ghi cuối tháng
: đối chiếu kiểm tra
Phương pháp này ghi chép đơn giản, dễ kiểm tra, dễ đối chiếu. Tuy nhiên, việc ghi
chép ở kho và phòng kế toán còn bị trùng lặp về chỉ tiêu số lượng. Việc kiểm tra đối
chiếu được tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế chức năng kiểm tra kịp thời của kế
toán. Do vậy, phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp có ít chủng loại
thành phẩm, các nghiệp vụ nhập, xuất ít, không thường xuyên.
SV : Nguyễn Thành Long
10
10
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Bảng kê nhập
Sổ đối chiếu luân chuyển Kế toán tổng hợp
Bảng kê xuất
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
4.2. Phương pháp đối chiếu luân chuyển
Ở kho: vẫn mở thẻ kho để chi chép, theo dõi về mặt số lượng, tình hình nhập, xuất
kho hàng ngày của từng loại thành phẩm.
Ở phòng kế toán: Không sử dụng thẻ kho hay sổ chi tiết thành phẩm mà mở sổ đối
chiếu luân chuyển để hạch toán số lượng và số tiền của từng loại thành phẩm nhập,
xuất kho theo từng kho. Sổ được mở cho cả năm, mỗi tháng chỉ ghi một lần vào cuối
tháng. Trên cơ sở các chứng từ nhập, xuất kho kế toán lập ra các bảng kê nhập, xuất
lấy dòng tổng cộng ghi vào sổ đối chiếu một lần vào cuối tháng, sau đó tiến hành kiểm
tra, đối chiếu giữa thẻ kho và sổ đối chiếu luân chuyển của phòng kế toán.
Trình tự hạch toán chi tiết thành phẩm theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển
như sau:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Phương pháp này giúp khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi
một lần vào cuối tháng. Song việc ghi sổ vẫn bị trùng lặp giữa kho và phòng kế toán về
chỉ tiêu hiện vật. Việc tiến hành kiểm tra, đối chiếu diễn ra vào cuối tháng nên cũng
hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán. Do vậy, phương pháp này thích hợp với các
doanh nghiệp sản xuất không nhiều nghiệp vụ xuất, nhập.
4.3. Phương pháp sổ số dư
Phương pháp này được tiến hành như sau:
Ở kho: Thủ kho cũng dùng thẻ kho để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn kho nhưng
cuối tháng phải ghi số tồn đã tính được sang sổ số dư vào cột số lượng.
SV : Nguyễn Thành Long
11
11
BK nhập
Chứng từ nhập
Bảng luỹ kế nhập
Sổ só dư
BK tổng hợp N- X - T
Chứng từ xuất
BK xuất
Bảng luỹ kế xuất
Chuyên đề tốt nghiệp ĐHDL Phương
Đông
Ở phòng kế toán: Kế toán mở sổ số dư theo từng kho chung cho cả năm để ghi chép
tình hình nhập, xuất, tồn. Từ các bảng nhập, kế toán lập luỹ kế nhập, luỹ kế xuất theo
từng nhóm sản phẩm theo chỉ tiêu giá trị.
Cuối tháng, kế toán căn cứ vào số liệu trên cột số lượng và số tồn kho cuối tháng do
thủ kho ghi trên sổ dư để tính ra giá trị và ghi vào cột sổ tiền trên sổ số dư. Việc kiểm
tra, đối chiếu được căn cứ vào cột số tồn dư trên sổ số dư và bảng kê tổng hợp nhập,
xuất, tồn và số liệu kế toán tổng hợp.
Phương pháp sổ số dư được ghi theo trình tự sau:
: Kiểm tra,đối chiếu
: Ghi hàng ngày
: Ghi cuối tháng
Phương pháp này có ưu điểm là tránh được sự ghi chéo trùng lặp giữa kho và phòng
kế toán, công việc được tiến hành đều trong tháng. Tuy nhiên, do kế toán chỉ theo dõi
về mặt giá trị nên muốn biết số hiện có và tình hình tăng giảm thành phẩm về hiện vật
thì xem số liệu của thẻ kho. Do vậy, việc kiểm tra của kế toán sẽ kém hiệu quả, công
việc phát hiện sai sót, nhầm lẫn giữa thủ kho và kế toán gặp khó khăn phức tạp. Như
vậy phương pháp này thích hợp cho những doanh nghiệp với khối lượng các nghiệp vụ
nhập, xuất thành phẩm lớn, thường xuyên sử dụng giá hạch toán chi tiết thành phẩm.
Đồng thời cán bộ kế toán phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có ý thức, có trách
nhiệm trong việc tính toán sổ sách.
5. Kế toán tổng hợp thành phẩm
SV : Nguyễn Thành Long
Thẻ kho
12
12