Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.5 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU
THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ .
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của công tác hạch toán tiêu thụ và xác định
kết quả tiêu thụ hàng hoá.
1.1.1.1. Khái niệm.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua quá trình này hàng hoá được đưa từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng nhờ các
phương thức mua bán khác nhau, lúc này giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực
hiện, hàng hoá chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ (T-H-T

), doanh nghiệp
thu hồi được vốn bỏ ra để bù đắp những chi phí đầu tư ban đầu, giúp cho vòng luân
chuyển vốn được hoàn thành, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn nói riêng và hiệu quả sử
dụng vốn nói chung, đồng thời góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Theo quan điểm của hiệp hội kế toán quốc tế thì tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của
quá sản xuất kinh doanh, là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ cho khách hàng và thu được tiền ngay hoặc được khách hàng chấp nhận thanh toán.
Tiêu thụ nói chung bao gồm :
- Tiêu thụ ra ngoài đơn vị : Là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc các
cá nhân ngoài doanh nghiệp .
- Tiêu thụ nội bộ đơn vị : Là việc bán hàng cho các đơn vị trực thuộc trong
cùng một công ty, tổng công ty … hạch toán toàn ngành.
1.1.1.2. Vai trò, ý nghĩa :
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh tạo ra các loại sản phẩm và cung cấp dịch vụ nhằm thoả mãn nhu của thị trường
(nhu cầu sản xuất và tiêu dùng) thông qua quá trình bán hàng ( trao đổi) với mục tiêu là lợi
nhuận.
Như vậy, tiêu thụ hàng hoá ngoài việc thực hiện mục đích đưa hàng hoá đến tay
người tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của xã hội còn nhằm mục đích tiêu thụ được khối lượng


sản phẩm hàng hoá lớn nhất từ đó sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, việc tiêu thụ
hàng hoá không đơn thuần chỉ là đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng mà nó còn bao gồm
cả những việc như nghiên cứu thị trường, tập hợp việc tổ chức mua hàng cho tới giai đoạn
cuối cùng là xuất bán và thanh toán với khách hàng. Điều đó cho thấy, khái niệm tiêu thụ
hàng hoá được dùng trong doanh nghiệp thương mại phản ánh chức năng lưu thông, phân
phối hàng hoá giữa các vùng, đáp ứng một cách tốt nhất có thể mọi nhu cầu của thị trường.
Thông qua tiêu thụ thì giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện, hàng hoá
chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ (T-H-T

), giúp doanh nghiệp thu hồi vốn
được bỏ ra, vòng luân chuyển vốn được hoàn thành, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn nói
riêng và hịêu quả sử dụng vốn nói chung. Trong tiêu thụ một phần giá trị mới sáng tạo ra
trong sản xuất được thực hiện và biểu hiện dưới hình thức lợi nhuận. Các Mác đã từng
nói : “ Lưu thông vừa là tiền đề vừa là kết quả của sản xuất”.
Công tác hạch toán kế toán các nghiệp vụ tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng
hoá có ý nghĩa quan trọng.
Đối với mỗi doanh nghiệp, nó tính toán và kiểm tra việc sử dụng tài sản, tiền vốn
…nhằm cung cấp thông tin đảm bảo việc sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn kinh doanh giúp
doanh nghiệp tự chủ về tài chính. Tổ chức hợp lý quá trình hạch toán sẽ giúp doanh nghiệp
tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung, yêu cầu của công tác kế toán là “phản
ánh trung thực, hợp lý, khách quan, chính xác “ tránh được những sai sót có thể xảy ra
nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí. Đó được coi là yêu cầu không thể thiếu của các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Vì thế có thể nói tiêu thụ là căn cứ, là cơ sở để xác
định kết quả. Còn việc xác định kết quả là mục tiêu cuối cùng để đưa ra các quyết định, các
chiến lược, định hướng về tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. Hay nói cách khác nó còn
là khâu quuyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế quốc dân, quá trình tiêu thụ đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất
và tiêu dùng, giữa các ngành, các vùng, các khu vực góp phần thoả mãn nhu cầu của xã
hội. Bên cạnh chức năng cân đối cung cầu thì tiêu thụ còn tạo ra một luồng tiền – hàng
luân chuyển một cách liên tục, nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện cho các ngành, các khu vực

phát triển lớn mạnh, góp phần cùng sự phát triển chung của nền kinh tế. Tạo nguồn thu
nhập ổn định cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghĩa vụ nộp thuế.
1.1.2. Yêu cầu và nhiệm vụ kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ.
1.1.2.1. Yêu cầu :
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì đây được coi là một yêu
cầu hết sức quan trọng mà doanh nghiệp cần đảm bảo được như :
- Tổ chức chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân chuyển chứng từ hợp lý.
Các chứng từ ban đầu phải đầy đủ, hợp pháp, luân chuyển khoa học, tránh bỏ sót ghi chép
trùng lắp, không quá phức tạp mà vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý, nâng cao hiệu qủa công
tác kế toán. Doanh nghiệp sử dụng hình thức ghi sổ hợp lý sẽ phát huy được những ưu
điểm của chúng và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp, đáp ứng yêu
cầu quản lý đơn giản, tiết kiệm.
- Xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời ghi nhận,
phản ánh doanh thu và lập báo cáo bán hàng. Báo cáo thường xuyên, kịp thời tình hình bán
hàng, theo dõi tình hình thanh toán với khách hàng chi tiết cho từng loại hàng, từng hợp
đồng kinh tế.
- Xác định đúng và tập hợp đủ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp để
từ đó phân bổ hợp lý giúp cho công tác xác định kết quả lãi, lỗ một cách hợp lý nhằm tối
đa hoá lợi nhuận. Đồng thời phải theo dõi từng phương thức bán hàng, từng phương thức
thanh toán để đôn đốc việc thu hồi vốn nhanh và đầy đủ.
- Xác định đúng đắn kết quả của từng loại hoạt động kinh doanh, thực hiện
nghiêm túc cơ chế phân phối lợi nhuận.
1.1.2.2. Nhiệm vụ .
Tiêu thụ có ý nghĩa quyết định sự tồn tại, phát triển hay sự diệt vong của doanh
nghiệp. Vì thế nhiệm vụ của công tác hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng
hoá là phải phản ánh và giám đốc tình hình một cách chặt chẽ như :
- Ghi chép phản ánh chính xác, kịp thời, đầy đủ, chi tiết, sự biến động của các
loại hàng hoá tiêu thụ ở các trạng thái như : hàng đang đi đường, hàng trong kho, hàng gửi
bán …theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại, giá trị. Cũng như lựa chọn được
phương pháp tính giá vốn hàng bán một cách hợp lý để đảm bảo độ chính xác cho chỉ tiêu

lãi gộp và các báo cáo bán hàng.
- Phản ánh chính xác kịp thời khối lượng hàng tiêu thụ, ghi nhận doanh thu bán
hàng. Phân bổ chi phí thu mua một cách hợp lý cho khối lượng hàng bán ra trong kỳ. Đồng
thời tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ một cách đầy đủ, trung thực, kể cả các khoản bị
giảm trừ hay các khoản phải nộp ngân sách nhà nước để công tác xác định kết quả kinh
doanh được chính xác.
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, phản ánh kịp thời các khoản công nợ khách để đảm
bảo quá trình thu tiền và trả tiền hàng đầy đủ tránh thất thoát vốn một cách bất hợp lý, đáp
ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp .
- Tổ chức vận dụng tốt hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách kết toán phù
hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp .
- Tham mưu cho lãnh đạo về các giải pháp thúc đẩy quá trình bán hàng.
1.2. CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ
HÀNG HOÁ.
1.2.1. Kế toán chi tiết tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong
các doanh nghiệp thương mại .
1.2.1.1.Căn cứ .
Theo chế độ tài chính kế toán hiện hành của Việt Nam việc hạch toán chi tiết tiêu
thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại được thực
hiện dựa trên các căn cứ sau :
Tuỳ thuộc loại hình tính chất hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp để xác
định đối tượng chi tiết. Tuỳ theo tình hình thực tế của doanh nghiệp và đối tượng hạch toán
chi tiết có thể được chia ra từng loại hàng hoá hoặc từng quầy hàng, từng kho hàng .
Tuỳ thuộc vào tính trọng yếu của từng loại mặt hàng hay lĩnh vực hoạt động kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp .
Tuỳ thuộc vào công tác tổ chức hạch toán kế toán tại mỗi doanh nghiệp. Bên
cạnh đó người ta còn căn cứ vào các chứng từ sau :
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ.
- Hoá đơn bán hàng.
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.

- Hoá đơn thuế giá trị gia tăng.
- Phiếu xuất kho kiêm hàng gửi bán.
- Báo cáo bán hàng.
- Bảng kê bán lẻ hàng hoá dịch vụ.
- Bảng thanh toán hàng đại lý ký gửi.
- Thẻ quầy hàng.
- Giấy nộp tiền.
- Bảng kê nhận hàng và thanh toán hàng ngày.
- Các chứng từ khác có liên quan (hoá đơn, chứng từ đặc thù …).
1.2.1.2. Kế toán chi tiết tiêu thụ.
Qúa trình ghi sổ chi tiết nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá được tiến hành đồng thời cả ở
kho và ở phòng kế toán. Mọi ngiệp vụ phát sinh đều được lập chứng từ kế toán theo quy
định. Chứng từ kế toán phản ánh đầy đủ kịp thời chính xác tình hình nhập xuất hàng hoá và
là cơ sở để ghi chép trên thẻ kho và sổ kế toán .
Căn cứ vào các báo cáo, báo cáo bán hàng, các chứng từ nhập xuất để ghi vào thẻ
kho và bảng kê nhập xuất tồn hàng hoá. Bởi vậy giữa kho và phòng kế toán người ta có thể
sử dụng một trong ba phương pháp hạch toán chi tiết sau :
1.2.1.2.1. Phương pháp thẻ song song .
Sổ sách sử dụng: Thẻ kho, sổ chi tiết, bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho hàng hoá.
Ưu điểm: Đơn giản dễ làm, dễ kiểm tra, cung cấp thông tin kịp thời cho người quản
lý cả về mặt hiện vật và về mặt giá trị. Đồng thời phương pháp này cũng thuận tiện cho
việc làm kế toán trên máy vi tính.
Nhược điểm: Có sự trùng lặp về mặt ghi chép giữa kho và phòng kế toán.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp thẻ song song.
Thẻ kho
Sổ kế toán chi tiết
Bảng tổng hợpnhập, xuất, tồnnhập xuất tồn
Phiếu xuất Phiếu nhập
Sổ tổng hợp
Thẻ kho

Phiếu xuất kho
Phiếu nhập kho
Bảng kê xuất
Sổ đối chiếu luân chuyển
Bảng kê xuất
Kế toán tổng hợp
Ghi chú:
Ghi hàng ngày.
Ghi cuối tháng.
Đối chiếu.
1.2.1.2.2. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển .
Sơ đồ l.2. Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp sổ đối chiếu luân
chuyển.

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Phiếu giao nhận CT nhập
Sổ số dư
Phiếu giao nhận CT nhập
Sổ tổng hợp
Bảng kê luỹ kế nhập
Bảng kê luỹ kế nhập –xuất – tồn
Bảng kê luỹ kế xuất
Sổ sách sử dụng: Thẻ kho, sổ đối chiếu luân chuyển.
Ưu điểm: Giảm bớt được khối lượng công việc ghi chép của kế toán vì chỉ ghi vào

cuối tháng. Cung cấp thông tin cả về hiện vật cho người quản lý.
Nhược điểm: Là việc ghi sổ trùng lặp giữa kho và phòng kế toán về chỉ tiêu hiện
vật. Công tác kiểm tra chỉ tiến hành vào cuối tháng nên việc hạch toán và lập báo cáo
thường chậm trễ.
1.2.1.2.3. Phương pháp sổ số dư.
Sơ đồ 1.3. Sơ đồ hạch toán chi tiết theo phương pháp sổ số dư.
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Sổ sách sử dụng: Thẻ kho, phiếu giao nhận, chứng từ, bảng luỹ kế nhập – xuất –
tồn, sổ số dư.
Ưu điểm: Tăng hiệu qủa công tác kế toán, giảm sự ghi chép trùng lặp giữa kho và
kế toán.
Nhược điểm: Nếu sử dụng phương pháp này, khi có nhầm lẫn thì rất khó đối chiếu,
kiểm tra.
1.2.2. Kế toán tổng hợp tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ.
1.2.2.1. Các phương thức tiêu thụ.
Các doanh nghiệp thương mại có nhiều hình thức tiêu thụ hàng hoá khác nhau có
thể theo phương thức bán buôn, bán lẻ, gửi bán …mỗi phương thức lại có nhiều hình thức
khác nhau.
1.2.2.1.1. Bán buôn.
Bán buôn là hình thức bán hàng hoá cho mạng lưới bán lẻ, cho sản xuất, cho tiêu
dùng và cho các tổ chức kinh tế khác. Hay nói cách khác là phương thức bán hàng cho các
đơn vị thương mại, các doanh nghiệp sản xuất…để thực hiện bán ra hoặc để gia công, chế
biến bán ra.
Đặc điểm:
- Đối tượng bán hàng hoá là các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản xuất
và các tổ chức kinh tế khác.
- Hàng hoá có thể là vật phẩm tiêu dùng hoặc tư liệu sản xuất.

- Hàng hoá thường được bán ra theo lô hàng hoặc khối lượng hàng bán ra mỗi lần
thường là lớn.
- Hàng hoá bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông chưa đi vào
lĩnh vực tiêu dùng. Do vậy, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa được thực hiện.
- Giá bán ra của hàng hoá biến động tuỳ thuộc vào khối lượng hàng bán và
phương thức thanh toán.
- Việc thanh toán tiền hàng chủ yếu không dùng tiền mặt mà thông qua ngân hàng
và các hình thức thanh toán khác.
Các hình thức bán buôn hàng hoá :
* Bán buôn qua kho là phương thức bán buôn mà trong đó, hàng bán phải được
xuất từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho có thể thực hiện dưới
hai hình thức.
- Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: theo hình thức
này, bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp thương mại để nhận hàng. Doanh
nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi đại
diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là
tiêu thụ.
- Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức chuyển hàng: theo hình thức này,
căn cứ vào hợp đồng đã kí kết hoặc theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp thương mại xuất kho
hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển hàng đến kho của
bên mua hoặc một địa điểm nào đó do bên mua qui định trong hợp đồng. Hàng hoá chuyển
bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại, chỉ khi nào được bên mua kiểm
nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng chuyển giao mới được coi là tiêu
thụ, người bán mất quyền sở hữu về số hàng đã giao. Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp
thương mại chịu hay bên mua chịu là do sự thoả thuận từ trước giữa hai bên. Nếu doanh
nghiệp thương mại chịu chi phí vận chuyển, sẽ phải thu tiền của bên mua.
* Bán buôn không qua kho (bán buôn vận chuyển thẳng): theo phương thức này
doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, không đưa về kho mà chuyển
bán thẳng cho bên mua.
Có hai hình thức :

+ Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: theo hình thức này doanh
nghiệp thương mại sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại diện bên mua tại kho người
bán. Sau khi giao nhận, đại diện bên mua kí nhận đủ hàng, bên mua đã thanh toán tiền hàng
hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
+ Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: theo hình thức này
doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, dùng phương tiện vận tải của
mình hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng đến giao cho bên mua ở địa điểm đã được thoả
thuận. Hàng hoá chuyển bán trong trường hợp này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thương mại. Khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên
mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển đi mới được xác
định là tiêu thụ.
1.2.2.1.2. Bán lẻ.
Đây được coi là giai đoạn cuối cùng của sự vận động hàng hoá từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu thụ, hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng, lúc này hai chức năng của
hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng được thể hiện. Nói cách khác đây là phương thức bán
hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ chức kinh tế, các đơn vị kinh tế tập thể mua
về mang tính chất tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo phương thức này có đặc điểm là hàng
hoá bán ra đơn chiếc số lượng nhỏ giá bán thường ổn định, thanh toán ngay và hình thức
thanh toán thường là tiền mặt lên không lập chứng từ cho từng lần bán. Hàng hoá sau khi
bán đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông để đi vào lĩnh vực tiêu dùng với giá trị và giá trị sử
dụng của hàng hoá được thực hiện.
* Các hình thức bán lẻ :
- Bán lẻ thu tiền trực tiếp : Theo hình thức này, nhân viên bán hàng trực tiếp thu
tiền của khách và giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng làm
giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số
lượng hàng bán ra trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Khi đó thẻ quầy hàng sẽ
được mở cho mỗi mặt hàng, phản ánh cả số lượng, giá trị. Căn cứ vào việc kiểm kê lượng
hàng bán ra để lập báo cáo bán hàng, đây là căn cứ để ghi nhận doanh thu và đối chiếu với
số tiền đã nộp.
- Bán lẻ thu tiền tập trung : Khi đó việc thu tiền và bán hàng tách rời nhau. Báo

cáo bán hàng do nhân viên bán hàng lập, còn giấy nộp tiền do nhân viên thu ngân lập sau
đó nộp lên phòng kế toán. Báo cáo bán hàng được lập căn cứ vào hoá đơn hoặc tích kê giao
hàng hoặc kiểm kê hàng tồn cuối ngày để xác định lượng hàng bán ra. Báo cáo bán hàng
được coi là căn cứ để hạch toán doanh thu và đối chiếu với số tiền đã nộp .
- Hình thức bán lẻ tự phục vụ (tự chọn): theo hình thức này, khách hàng tự chọn
lấy hàng hoá, mang đến bàn tính tiền để tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân viên thu
tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng. Nhân viên bán
hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và bảo quản hàng hoá ở quầy do mình phụ
trách.
- Hình thức bán trả góp: theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng
thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán thông thường
còn thu thêm người mua một khoản lãi do trả chậm. Về thực chất, người bán chỉ mất quyền
sở hữu khi người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng
cho người mua, hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
- Hình thức bán hàng tự động: là hình thức bán lẻ hàng hoá mà trong đó các
doanh nghiệp thương mại sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc
một vài loại hàng hoá nào đó đặt ở các nơi công cộng. Sau khi người mua bỏ tiền vào máy,
máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
1.2.2.1.3. Phương thức gửi hàng đại lý hay ký gửi.
Lúc này doanh nghiệp thương mại giao cho cơ sở đại lý, ký gửi để các cơ sở này
trực tiếp bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì việc đa dạng hoá các hình thức
tiêu thụ giúp các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tham gia hoà nhập nền kinh tế quốc tế để
chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới. Đây được coi là yêu cầu
không thể thiếu với sự tồn tại của các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế của cả nước.
1.2.2.2.Các phương thức thanh toán :
- Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.
- Thanh toán qua ngân hàng.
+ Thanh toán bằng séc.
+ Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)

+ Thanh toán bù trừ.
+ Uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi …
1.2.3. Một số khái niệm cơ bản và các hình thức tính giá vốn hàng bán
1.2.3.1. Một số khái niệm cơ bản.
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ hàng hoá là toàn bộ số tiền thu được
hoặc sẽ thu được từ các giao dịch phát sinh doanh thu như bán sản phẩm, hàng hoá, cung
cấp dịch vụ cho khách hàng bao gồm khoản phải thu và phí thu thêm ngoài (nếu có).
- Giảm giá hàng bán là khoản giảm cho người mua do hàng hoá bán ra của doanh
nghiệp kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu.

×