MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM GÓP PHẦN NÂNG
CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSLĐ CỦA CÔNG TY CÔNG TRÌNH HÀNG
KHÔNG
I - NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÔNG TY
1. Thành tích
Là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện kết hợp nhiệm vụ kinh tế và nhiệm
vụ quốc phòng và lại hoạt động trên một thị trường có tính cạnh tranh ngày càng
quyết liệt, ban lãnh đạo công ty Công ty Công trình Hàng không đã tỏ rõ bản lĩnh
kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển.
Với bản chất là người lính đi làm kinh tế, lãnh đạo và tập thể công nhân viên
Công ty Công trình Hàng không đã thực hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh
thần và ý thức trách nhiệm cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có, liên tục huy
động về trang thiết bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng mở
rộng về quy mô, phát triển năng lực, đầu tư những thiết bị, công nghệ hiện đại, tìm
kiếm những thị trường mới và đã khẳng định được chỗ đứng của Công ty Công
trình Hàng không trên thị trường xây dựng cơ bản nói chung cũng như trong bản
thân nội Tổng Công ty Hàng không nói riêng.
Thực tế cho thấy trong vòng những năm trở lại đây, Công ty Công trình
Hàng không liên tục làm ăn có lãi, hoàn thành tốt mọi chỉ tiêu kế hoạch và luôn là
ngọn cờ đầu trong Tổng Công ty Hàng không. Mặc dù hiệu quả sử dụng tài sản sản
xuất kinh doanh của công ty có thể chưa theo kịp tốc độ huy động và sử dụng tài
sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh song sự mở rộng vẫn đem lại sự tăng
trưởng trong doanh thu cũng như lợi nhuận của Công ty Công trình Hàng không .
Tuy nhiên, xuất phát từ một đơn vị quốc phòng nay đi làm nhiệm vụ kinh tế
khi bước vào lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ này Công ty Công trình Hàng không cũng
đã phải vật lộn với những khó khăn thử thách trong công tác quản lý tài chính mà
trong đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một trong những khó khăn chủ
chốt .
Thành tích nổi bật trong việc quản lý và sử dụng TSLĐ là công ty đã cố
gắng đáp ứng đầy đủ nhu cầu TSLĐ cho sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt
động sản xuất kinh doanh . Công ty bằng nhiều biện pháp khác nhau đã luôn đảm
bảo ứng trước một khối lượng TSLĐ rất lớn trong việc xây dựng nhiều công trình
có quy mô lớn, thời gian thi công kéo dài. Chính việc quản lý và sử dụng TSLĐ
một cách linh động, uyển chuyển đã không những giúp công ty vượt qua những
khó khăn trở ngại mà còn góp phần không nhỏ trong việc phát triển của công ty,
thể hiện ở việc tăng doanh thu trong năm 1999 về số tuyệt đối là 24.914.886.000 đ,
với tỷ lệ tăng là 48,75%; thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách tăng 86,75% với số tiền
tăng lên là 209.870.000 đ, đời sống của cán bộ công nhân viên được nâng cao; các
chi nhánh và văn phòng đại diện được mở rộng thêm tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Nha Trang, Đà Nẵng... không những hoạt động trên thị trường trong nước mà còn
vươn ra thực hiện các công trình ở nước ngoài mà gần đây là hợp đồng cải tạo và
mở rộng sân bay Savanakhet tại nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào.
2. Hạn chế
Mặc dù trong thời gian qua đã liên tục có những cố gắng vượt bậc nhưng
trong hoạt động quản lý và sử dụng TSLĐ của Công ty Công trình Hàng không vẫn
còn bộc lộ một số điều bất cập nhất định. Nguyên nhân của những mặt hạn chế này
bao gồm cả những lý do chủ quan lẫn khách quan: Những khó khăn từ phía thị
trường tác động khiến công ty phải đưa ra các giải pháp tình thế chưa phù hợp, do
mối quan hệ giữa Công ty Công trình Hàng không và các nhà cung cấp...và một
phần còn là do những khiếm khuyết mà bản thân công ty đã phạm phải trong công
tác quản lý tài chính. Để thực hiện tốt hơn nữa việc nâng cao hiệu quả sử dụng
TSLĐ, Công ty Công trình Hàng không cần tiếp tục tháo gỡ những hạn chế sau :
2.1. Công tác đảm bảo thanh toán
Khi phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ tại Công ty Công trình Hàng không ta
đã thấy rằng việc đảm bảo khả năng thanh toán của công ty chưa thực sự tốt. Ngoài
hệ số thanh toán ngắn hạn (hiện thời) mang tính chất khái quát, các hệ số thanh
toán nhanh và hệ số thanh toán tức thời là những chỉ tiêu chi tiết hơn đều chưa đạt
được mức tối ưu (chỉ xấp xỉ 0,1 - 0,2). Điều này tiềm ẩn rủi ro mất khả năng thanh
toán nếu như Công ty Công trình Hàng không vấp phải những biến động lớn của
thị trường. Tất nhiên, là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện kết hợp nhiệm vụ
kinh tế và quốc phòng, Công ty Công trình Hàng không có thể trông đợi vào sự
giúp đỡ của các ngân hàng thương mại cũng như sự ứng cứu của Tổng Công ty
Hàng không cùng với các thành viên khác, ngoài ra còn có thể từ bộ chủ quản.
Nhưng đây sẽ là vấn đề nổi cộm trong cạnh tranh khi môi trường kinh tế của nước
ta đang trong giai đoạn được cải thiện nhằm làm cho các chủ thể kinh tế thực sự
bình đẳng với nhau trên thị trường.
Một trong những nguyên nhân khiến khả năng thanh toán của Công ty
Công trình Hàng không không ổn định là sự hạn chế trong việc kế hoạch hoá ngân
quỹ nói riêng và kế hoạch hoá hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Trong
công tác quản lý tài chính ngắn hạn, Công ty Công trình Hàng không chỉ mới dừng
lại ở việc lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp ) theo quý,
xác định các luồng tiền vào, ra cho toàn bộ công ty và các chi nhánh chứ chưa lập
kế hoạch thu chi ngân quỹ theo các công trình hoặc cụ thể đến từng tuần, từng
tháng... Muốn làm được điều này, Công ty Công trình Hàng không cần xác định
được các luồng tiền thu vào và chi ra trong từng khoảng thời gian tương ứng mà
đay lại là việc chưa thể có được trong công tác quản lý tài chính tại Công ty Công
trình Hàng không nói riêng cũng như nhiều doanh nghiệp xây dựng khác nói chun.
Lượng tiền vào phụ thuộc vào công tác thanh toán nên tương đối khó khăn trong
việc dự đoán nhưng lượng tiền ra phụ thuộc vào nhu cầu của các đơn vị trực tiếp
sản xuất (các đội thi công) nên việc lập kế hoạch là hoàn toàn có thể được. Hiện
nay, các đội thi công này chưa dự đoán cụ thể được nhu cầu mua nguyên vật liệu
phục vụ thi công theo tiến độ mà hoàn toàn mang tính bị động.
Chính vì vậy nên nhiều khi các nhu cầu phát sinh dồn dập nhất là trong mùa xây
dựng khiến Công ty Công trình Hàng không buộc phải chiếm dụng vốn từ nhiều
khác nhau, làm giảm tính lành mạnh trong hoạt động tài chính của công ty.
2.2 Quản lý và sử dụng hàng tồn kho
Như ta đã biết, năm 1999 tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của công ty đã
giảm 0.03 vòng so với năm 1998, gây lãng phí một lượng vật tư của công ty là
2.491.216.000 đ .
Nguyên nhân của tồn tại này là do công ty chưa có kế hoạch dự trữ vật tư
phù hợp, dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn. Hơn nữa hoạt động xây dựng cơ bản
thường buộc doanh nghiệp phải duy trì một lượng vốn ứng trước lớn mà trong đó
có một bộ phận không nhỏ nằm trong giá trị sản xuất kinh doanh dở dang. Để
chuẩn bị tiến hành thi công một công trình công ty phải đầu tư huy động trang thiết
bị, vật tư , máy móc và nhân lực cho quá trình thi công. Lượng vốn dồn vào công
trình mà đặc biệt là những công trình có khối lượng thi công lớn, yêu cầu chất
lượng và kỹ thuật cao không phải là ít. Việc kéo dài thời gian ngừng thi công (thời
gian chết ) sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng các yếu tố khác như trang thiết bị, vật tư,
nhân lực... Một số chi phí khác như chi phí thuê máy móc, thiết bị, vật tư (thuê cẩu,
thuê cốp pha, giàn giáo...), chi phí tiền lương công nhân chờ việc, chi phí mua vật
tư chờ sử dụng sẽ tăng lên, do phải kéo dài thời gian thanh toán làm tăng lượng
vốn đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh mà hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn
giảm.
2.3 Quản lý các khoản phải thu
Trong phần "Phân tích hiệu quả sử dụng các loại tài sản của công ty" ở trên
đã cho ta thấy tình hình thu hồi công nợ của công ty trong năm 1999 là không tốt.
Cụ thể tốc độ thu hồi công nợ năm 1999 là 3,77 vòng giảm 0,1 vòng so với năm
1998. Điều này được lý giải như sau:
Mối quan hệ tài chính giữa Công ty Công trình Hàng không và chủ đầu tư
(bên A)là mối quan hệ thanh quyết toán các công trình, hạng mục công trình mà
công ty đã hoàn thành thi công bàn giao cho chủ đầu tư. Tuy chỉ ngắn gọn như vậy
nhưng trên thực tế từ khi Công ty Công trình Hàng không hoàn thành thi công cho
đến khi được thanh toán đầy đủ là một quá trình kéo dài và rất phức tạp. Nguyên
nhân của hiện tượng này chủ yếu là do những rắc rối trong những thủ tục trong
việc thanh quyết toán các hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao. Mặc dù
Công ty Công trình Hàng không có một thuận lợi là được trực tiếp ký kết hợp đồng
với các chủ đầu tư và cũng được thanh toán trực tiếp không phải thông qua Tổng
Công ty Hàng không nhưng vẫn còn khá nhiều thủ tục rườm rà khác mà Công ty
Công trình Hàng không phải vượt qua.
Công việc đầu tiên trong việc thanh quyết toán là bản thân công ty phải lập
hồ sơ hoàn công đề nghị thanh toán. Với mục đích sớm được thanh toán thì công ty
thường hoàn thành hồ sơ nhanh chóng với sai sót không đáng kể. Tuy nhiên vì
Công ty Công trình Hàng không chủ yếu thực hiện các công trình có nguồn vốn
của Nhà Nước nên công ty sau đó đề nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra để đảm
bảo tính khách quan.Điều đáng nói ở đây là có tới hai cơ quan thẩm định là bộ đầu
tư thuộc Bộ Tài Chính và Cục Đầu Tư thuộc Bộ Quốc Phòng. Nếu hồ sơ quyết
toán đã được một cơ quan thẩm định nhưng chủ đầu tư vì một lý do nào đó yêu cầu
cơ quan kia thẩm định lại và không khớp nhau giữa hai kết quả thẩm định thì chắc
chắn việc quyết toán sẽ bị đình lại cho đến lúc đạt được sự thống nhất của hai cơ
quan. Sau khi đã được phê duyệt thì việc thanh toán thường thuận lợi hơn vì chủ
đầu tư đã có căn cứ chính xác để trả tiền cho Công ty Công trình Hàng không.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp sau khi đã có hồ sơ quyết toán được
phê duyệt, việc thanh toán công nợ giữa bên A và Công ty Công trình Hàng không
lại còn phải chờ nguồn vốn được cấp của bên chủ đầu tư. Nguồn vốn này lại còn
phụ thuộc vào kế hoạch phân bổ vốn của các cấp chủ quản bên A xuống cho công
trình. Ngoài ra cũng phải kể đến trường hợp bên A đã được cấp vốn nhưng giữ lại
để sử dụng cho mục đích khác gây trở ngại cho quá trình thanh toán.
Từ những thành tích đạt được và những tồn tại cần khắc phục trong quản lý
và sử dụng TSLĐ. Công ty cần phải có những biện pháp tích cực hơn nữa để
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh nói chung.
II- MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG TSLĐ TẠI CÔNG TY CÔNG TRÌNH HÀNG KHÔNG
Qua quá trình thực tế ở Công ty Công trình Hàng không, qua đánh giá
phân tích tình hình kinh doanh của công ty nói chung, tình hình sử dụng TSLĐ của
công ty nói riêng cùng với những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập
tại trường Đại Học Thương Mại, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ đối với công ty như sau:
1. Quản lý sử dụng tốt hơn hàng tồn kho
Thứ nhất để đảm bảo dự trữ nguyên vật liệu hợp lý công ty cần lập hồ sơ
cập nhật cho các bộ phận vật tư dự trữ theo số lượng và giá trị, tiến hành kiểm kê
tài sản, theo dõi sự phân phối vật tư cho xây dựng, kiểm tra sự thừa thiếu của dự
trữ, bảo đảm an toàn, sản xuất liên tục nhưng không để chi phí quá lớn do dự trữ
gây nên. Đặc biệt là xây dựng các chiến lược dự trữ sẵn sàng cung cấp tối ưu vật tư
cho sản xuất kinh doanh.
Thứ hai là việc công ty phải tạm ngừng thi công chủ yếu là do phải chờ
chỉnh sửa thiết kế. Để có thể phần nào khắc phục thiệt hại trong trường hợp này,
trước khi thi công Công ty Công trình Hàng không cần yêu cầu chủ đầu tư khảo sát
thiết kế thật kỹ lưỡng. Bên cạnh đó, công ty cần đưa ra những điều khoản cam kết
thoả thuận cụ thể về trách nhiệm vật chất đối với việc làm chậm tiến độ thi công,
lấy đó làm căn cứ yêu cầu chủ đầu tư có trách nhiệm bồi thường đối với những tổn
thất do ngừng thi công gây ra.
Tương tự đối với những công trình thi công theo tiến độ cấp vốn của chủ đầu
tư, Công ty Công trình Hàng không nên có sự thoả thuận về trách nhiệm vật chất
của chủ đầu tư về những tổn thất mà công ty phải chịu khi ngừng thi công do thiếu