Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.48 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề 8. Phân tích truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân.</b>


Khi nói về cơng việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thờng thổ lộ rằng ông
muốn thể hiện con ngời mình qua trang viết. Có lẽ, ở trờng hợp nh Kim Lân,
sự tự thể hiện thành ra một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho
tác phẩm của ơng. Những gì nhà văn chứng kiến, trải nghiệm trong những
thời điểm quan trọng của lịch sử đất nớc trở thành nguồn nguyên liệu trực
tiếp để ơng sáng tạo nên những hình tợng đặc sắc. Truyện ngắn Làng, với
nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng nói:


"Cái khơng khí ngày đầu kháng chiến ở nơng thơn, tơi đã đa vào Làng.
Lúc ấy Tây cịn đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận
mắt thế nào là "làng chiến đấu". Trong khơng khí ấy, cùng với d luận bán tín
bán nghi về làng chợ Dầu theo Tây làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện
ngắn này. Ơng lão Hai chính là tơi".


Tình u quê hơng đất nớc trong mỗi con ngời cụ thể mang một hình hài
riêng. Có thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngồi mặt trận, có thể
là công sức khai hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mợt mà
hay hùng tráng của một ca khúc ca ngợi tình ngời, tình đời, v.v... Và ở đây là
tình u, sự gắn bó thuỷ chung với cái làng của mình, của một ngời nơng dân
phải rời làng đi tản c trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp.


Thành cơng của truyện Làng chính là ở hình tợng nhân vật lão Hai với
những trạng huống tâm lí, ngơn ngữ đợc khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh
động. Tuy nhiên, để nhân vật bộc lộ đợc tâm lí hay ngơn ngữ, trớc hết, nhà
văn phải xây dựng đợc tình huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ đợc thể
hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống
thờng đợc các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản c là sự việc có ý nghĩa
tạo khung cho câu chuyện. Đó cha phải là tình huống. Phải đến khi ông Hai


nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự
bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ơng Hai biết đợc sự thực làng của
ơng khơng theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nơng dân tha
thiết u làng q của mình, một lịng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc
nét, với chiều sâu tâm lí, ngơn ngữ mang đậm màu sắc cá thể hố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khơng cịn thấy ơng đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ơng nhận thức đợc
nó làm khổ mình, làm khổ mọi ngời, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy
cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái
chân ơng đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe làng ông khởi
nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì cịn trong bóng tối", rồi
những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của
làng ơng,... Cũng vì u làng q nh thế mà ông nhất quyết không chịu rời
làng đi tản c. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản c ơng buồn khổ lắm,
sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cời, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản c,
ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em, "Ô,
sao mà độ ấy vui thế. Ơng thấy mình nh trẻ ra.[...] Trong lịng ơng lão lại
thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe
tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây.
Thế mà, đùng một cái ông nghe đợc cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây
làm Việt gian. Càng yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây
giờ ơng Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã
chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng
thái tình cảm, hành động của con ngời khi miêu tả diễn biến tâm trạng và
hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.


Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì
những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo
giặc đã làm ông điếng ngời: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân
rân. Ơng lão lặng đi, tởng nh đến khơng thở đợc. Một lúc lâu ông mới rặn è


è, nuốt một cái gì vớng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi", "Ông Hai cúi gằm mặt
xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão nh vừa bị mất
một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật
xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó
cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị ngời ta rẻ rúng hắt hủi
đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành
hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực nhục cha, cả làng Việt gian! Rồi đây
biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai ngời ta chứa. Ai ngời ta buôn bán mấy. Suốt
cả cái nớc Việt Nam này ngời ta ghê tởm, ngời ta thù hằn cái giống Việt gian
bán nớc...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu khơng khí ảm đạm: "Gian nhà
lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo
âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng
nổi lên, nghe nh tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không
yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ơng
khơng dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông
tuyệt giao với tất cả mọi ngời, "khơng dám bớc chân ra đến ngồi" vì xấu hổ.
Và cái chuyện vợ chồng ơng lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi
gia đình ông, chỉ vì họ là ngời của làng theo Tây. Gia đình ơng Hai ở vào tình
thế căng thẳng. Ơng Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là
tuyệt đờng sinh sống! [...] đâu đâu có ngời chợ Dầu ngời ta cũng đuổi nh
đuổi hủi Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ ngời ta chẳng đuổi đi nữa, thì
mình cũng chẳng cịn mặt mũi nào đi đến đâu".


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>- Hóc kia! ThÇy hái con nhé, con là con của ai?</i>
<i>- Là con thầy mấy lị con u.</i>


<i>- Thế nhà con ở đâu?</i>
<i>- Nhà ta ở làng chợ Dầu.</i>


<i>- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?</i>


<i>Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:</i>
<i>- Có.</i>


<i>Ông lÃo ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:</i>
<i>- à, thầy hái con nhÐ. ThÕ con đng hé ai?</i>


<i>Th»ng bÐ gi¬ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:</i>
<i>- ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!</i>


<i> Nc mt ụng lóo gin ra, chảy rịng rịng trên hai má. Ơng nói thủ thỉ:</i>
<i>- ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.</i>


Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một
ngời lấy danh dự của làng q làm danh dự của chính mình, một ngời son sắt
một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ nh
minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng nh lời thề đinh ninh vang lên
từ đáy lịng ơng:


<i>Anh em đồng chí biết cho b con ụng</i>


<i>Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bè con «ng.</i>


<i>Cái lịng bố con ơng là nh thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết</i>
<i>có bao giờ dám đơn sai.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ngời đọc sẽ không thể quên đợc một ông Hai quá yêu cái làng của mình
nh thế. Mặt khác, cũng nh các nhân vật quần chúng (chị cho con bú loan tin
làng chợ Dầu theo giặc, bà chủ nhà,)... cái khó quên ở nhân vật này cịn là
nét cá thể hố rất đậm về ngơn ngữ. Lúc ơng hai nói thành lời hay khi ông
nghĩ, ngời đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ,


của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó","khơng đọc thành tiếng
cho ngời khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc
biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hng phấn
của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngơn ngữ của ngời
nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhng từ
ngữ cha hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào
cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.


</div>

<!--links-->

×