Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.75 KB, 2 trang )
Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong
truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
1. Mở bài: - Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt: + Kim Lân là nhà văn viết rất ít nhưng viết
rất thành công ở lĩnh vực truyện ngắn. Ông được coi là nhà văn “một lòng đi về với đất, với người, với
thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). + Tiêu biểu cho sự thành công lĩnh
vực truyện ngắn là tác phẩm Vợ nhặt - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Bằng tấm lòng và tài năng, Kim
Lân đã khắc họa đậm nét và cảm động diễn biến tâm trạng đầy phức tạp và nỗi lòng của người mẹ nghèo
khổ – bà cụ Tứ 2. Thân bài: a. Giới thiệu khái quát tác phẩm, nhân vật: - Vợ nhặt là truyện ngắn
thành công với đề tài quen thuộc: số phận người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu.
Tác phẩm được viết lại từ một phần của cuốn tiểu thuyết Xóm ngụ cư. - Bà cụ Tứ: + xuất hiện trong tác
phẩm với dáng đi “lọng khọng” vừa “húng hắng ho”, vừa “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng” • gợi lên số
phận con người lam lũ, đầy ắp lo toan vất vả. + hoàn cảnh nghèo khó, góa bụa nên không thể và không
dám nghĩ đến chuyện lấy vợ cho con. Xuất hiện muộn trong tác phẩm, bà cụ Tứ là nhân vật được nhà văn
đầu tư tài năng và tâm huyết để khắc họa tâm trạng và tính cách. b. Phân tích tâm trạng nhân vật: Xung
quanh việc Tràng có vợ, tâm trạng bà cụ rất phức tạp song cũng rất nhất quán và lôgic - Ngạc nhiên đến
sững sờ: vì có người đàn bà lạ trong nhà, lại đứng ở đầu giường con mình và chào bà bằng “u”. Bà ngạc
nhiên đến mức không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa. (Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn…. Bà
quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu) - Xót thương con: hiểu ra con mình “nhặt’ được vợ, bà cúi đầu nín
lặng, hiểu ra bao cơ sự oái oăm và ai oán xót thương cho số kiếp của đứa con mình. - Vừa mừng vừa tủi:
bà mừng cho con từ nay yên bề gia thất vừa tủi thân vì bổn phận làm mẹ mà không lo nổi vợ cho con,
không thể giúp gì cho các con khi cảnh nhà nghèo khó. Nỗi buồn tủi làm bà nghẹn lời. (Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con… còn mình thì…) - Thương và lo cho các con: + Bà thương con dâu cũng
nghèo khổ, đói khát, thương con trai lấy vợ lúc đói quay, đói quắt: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. + Bà lo cho tương lai các con:
“chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”, “có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”. Bà mừng trước hạnh phúc của con nhưng nỗi lo, niềm thương xót làm cho “nghẹn lời không nói
được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng”: “năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương
quá…” - chan chứa niềm vui, niềm hi vọng: + vui vì con trai đã lấy vợ, một niềm vui tưởng như không
cất lên được bởi sự đè nặng của cái đói, cái nghèo nhưng vì thương con thương dâu, bà cố gắng xua tan
không khí nặng nề, buồn thảm. + niềm vui được khơi lên bằng hi vọng về tương lai tốt đẹp: “Rồi ra may
ông giời cho khá… ai giàu ba họ ai khó ba đời” + niềm vui thể hiện ở dáng vẻ, nét mặt, lời nói và hành