Tải bản đầy đủ (.pdf) (295 trang)

Lịch sử việt nam cận đại 1858 1945 tài liệu giảng dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 295 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƢ PHẠM

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY

LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI (1858 – 1945)

ThS. NGUYỄN BẢO KIM

AN GIANG, THÁNG 7 NĂM 2019


Tài liệu giảng dạy “Lịch sử Việt Nam cận đại (1858 – 1945)”, do tác giả
Nguyễn Bảo Kim, công tác tại khoa Sư phạm thực hiện. Tác giả đã báo cáo nội dung
và được Hội đồng Khoa học và Đào tạo Khoa thông qua ngày 23/4/2019 và được Hội
đồng Khoa học và Đào tạo Trường Đại học An Giang thông qua.
Tác giả biên soạn

ThS. Nguyễn Bảo Kim

Trƣởng Đơn vị

Trƣởng Bộ môn

Hiệu Trƣởng

PGS. TS. Võ Văn Thắng

AN GIANG, THÁNG 7 NĂM 2019

i




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Lãnh đạo Khoa Sư phạm và cán
bộ Thư viện Trường Đại học An Giang đã tạo điều kiện tốt nhất cho tơi hồn thành
Tài liệu giảng dạy này.
Tơi xin cảm ơn quý Thầy, Cô Bộ môn Lịch sử, Khoa Sư phạm, Trường Đại
học An Giang đã dành nhiều công sức góp ý, chỉnh sửa giúp tơi hồn thành Tài Liệu
này.
An Giang, ngày 04 tháng 7 năm 2019

Ngƣời thực hiện

Nguyễn Bảo Kim

ii


LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan, đây là Tài liệu giảng dạy của riêng tôi, nội dung Tài liệu
giảng dạy có xuất xứ rõ ràng.
An Giang, ngày 04 tháng 7 năm 2019

Ngƣời biên soạn

Nguyễn Bảo Kim

iii



MỤC LỤC
Trang

CHƢƠNG 1. VIỆT NAM NỬA SAU THẾ KỶ XIX (1858 – 1896)…………..…..1
1.1. Việt Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1802 -1858)……...…..…….1
1.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1884)……………...12
1.3. Phong trào Cần Vương (1885 – 1896)………………………………..………...42
CHƢƠNG 2. VIỆT NAM TỪ 1897 ĐẾN CUỐI CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ NHẤT (1918)………………………………………………………………....62
2.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam từ 1897 đến 1918…………..62
2.2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam (1897 –
1914)……………………………………………………………….………...……...74
2.3. Sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam…………………………………...80
2.4. Xã hội Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)…………..85
2.5. Những điều kiện mới của phong trào dân tộc………………………………..…94
2.6. Phong trào dân tộc đầu thế kỷ XX…………………………………………….101
TỔNG KẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1918 ……………………...163
CHƢƠNG 3. VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
(1919 – 1930)……………………………………………………...…………….....171
3.1. Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp……..171
3.2. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam (1919 –
1925)……………………………………………………………………………….184
3.3. Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm 1925 – 1929 ………….…195
3.4. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời…………………………………………..…..209
CHƢƠNG 4. VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1930 – 1939……………....219
4.1. Phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 – 1935…………………….….219
4.2. Cuộc vận động dân chủ (1936 – 1939)……………………………………......235
CHƢƠNG 5. VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1939 – 1945………………253
5.1. Những nét chính về tình hình thế giới và Việt Nam từ 1939 đến đầu 1941…..253


iv


5.2. Những chính sách của phát xít Nhật – Pháp ở Đơng Dương (9/1940 đến
9/3/1945) ……………………………………………………………………...…...259
5.3. Tình cảnh nhân dân Đơng Dương trong những năm 1939 – 1945………….…260
5.4. Tình hình chính trị, tư tưởng Việt Nam từ 9/1940 đến 1945………………….261
5.5. Mặt trận Việt Minh và công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa……………………..…263
5.6. Cao trào kháng Nhật cứu nước……………………………………………...…269
5.7. Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời.272
TỔNG KẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM 1919 – 1945 ……………………………….282
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..285

v


CHƯƠNG 1
VIỆT NAM NỬA SAU THẾ KỶ XIX (1858 – 1896)
1. Mục đích
a. Về kiến thức
Nêu và khái quát được Việt Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp;
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1884) và phong trào Cần
Vương (1885 – 1896).
b. Về kỹ năng
- Phân tích, giải thích, đánh giá và vận dụng được kiến thức Chương 1 vào
học tập, nghiên cứu Lịch sử.
- Vận dụng được kiến thức Chương 1 vào giảng dạy Lịch sử ở các bậc học
phổ thông và các hoạt động văn hóa khác.
- Hồn thiện thêm kỹ năng hoạt động nhóm, thảo luận, thuyết trình, báo cáo.
2. u cầu

- Bám sát Đề cương chi tiết và Tài liệu giảng dạy (giảng viên cung cấp).
- Đọc sách tham khảo và trả lời các câu hỏi học tập trong Tài liệu giảng dạy
và trong Đề cương chi tiết.
- Làm bài tập ở nhà, thảo luận nhóm theo câu hỏi trong Đề cương chi tiết và
Tài liệu giảng dạy.
- Tập trung nghe giảng trên lớp.
- Kiểm tra lấy điểm thường xuyên trên lớp theo yêu cầu của giảng viên.
1.1. Việt Nam trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1802 – 1858)
1.1.1. Khái quát chế độ phong kiến triều Nguyễn trước khi thực dân
Pháp xâm lược
Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX, là một quốc gia thống nhất với sự hoàn chỉnh
cương vực quốc gia, thống nhất thị trường tiền tệ, có thể xây dựng, phát triển kinh tế
- xã hội mạnh mẽ, mở rộng quan hệ giao thương quốc tế, canh tân đất nước, vượt
qua sự can thiệp, xâm lược của các thế lực thực dân phương Tây.
Để đối phó với nạn bành trướng ngày một ráo riết của các nước thực dân
phương Tây và để tự cứu mình, một số nước phương Đông đã chọn con đường duy
tân đất nước. Đó là trường hợp của Nhật Bản và phần nào đó là Xiêm. Trong khi đó
tại Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn được tái lập từ đầu thế kỷ XIX nhưng lại tỏ ra
lúng túng, không bắt kịp với xu thế của thời đại.

1


Ngay từ đầu, chế độ nhà Nguyễn đã bộc lộ điểm yếu cơ bản về chính trị là:
khác với các triều đại trước thường được thiết lập trên cơ sở thắng lợi của những
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi hoàn thành những nhiệm vụ chống
ngoại xâm, bảo vệ độc lập, củng cố quốc gia…, còn triều Nguyễn được dựng lên
bằng một cuộc nội chiến mà kẻ chiến thắng đã dựa một phần vào thế lực ngoại bang,
và như vậy về khách quan đã đi ngược lại nguyện vọng và quyền lợi dân tộc.
Chính vì thế, nhìn tồn cục, bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội thời nhà

Nguyễn rất đa dạng, phức tạp, tự mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và bảo thủ, lạc hậu, giữa
cái mạnh và cái yếu, …
1.1.1.1. Về tình hình kinh tế
*Nơng nghiệp
Kinh tế nông nghiệp lúa nước vẫn được coi là nền tảng. Tuy nhiên, do sự
thắng thế của giai cấp địa chủ cường hào, ruộng tư đã lấn át ruộng công, khiến cho số
nông dân mất đất phải lưu tán ngày càng đông.
Với việc phát canh thu tô, dẫn đến sản lượng thu hoạch từ đồng ruộng rất
thấp, cùng với thiên tai lũ lụt, tô thuế, phu phen, tạp dịch nặng nề khiến cho đời sống
nông dân cùng quẫn, nền kinh tế nơng nghiệp lâm vào bế tắc.
Mặc dù có những chính sách khuyến khích phát triển cơng thương nghiệp,
nhưng xu hướng độc quyền công thương của nhà nước vẫn chế ngự, nhà nước phong
kiến Nguyễn lại thực hiện “bế quan tỏa cảng” dẫn đến công thương nghiệp lớn không
phát triển được. Do đó, cơng thương nghiệp nước ta vẫn quẩn quanh trong nền kinh
tế tự cấp, tự túc, lạc hậu.
Chế độ sở hữu ruộng đất công dưới thời Nguyễn đã suy yếu nhiều. Ruộng tư
ngày càng lấn át ruộng công. Nạn chấp chiếm ruộng đất của địa chủ ngày càng trầm
trọng. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết, vào năm 1840, tại tỉnh Gia Định “khơng
có ruộng cơng, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến hàng trăm mẫu, dân nghèo
không được nhờ cậy”. Cũng theo Sử cũ, vào năm 1852, trong 31 tỉnh của tồn quốc
thì chỉ có hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị có số ruộng cơng nhiều hơn ruộng tư.
Chỉ có 1 tỉnh Quảng Bình có ruộng cơng và ruộng tư bằng nhau, cịn lại 28 tỉnh khác
ruộng tư nhiều hơn ruộng công, trong đó phần ruộng tốt thì cường hào chiếm cả, thừa
ra thì hương lý bao chiếm. Dân chỉ được phần ruộng xấu, cằn cỗi bạc màu. (Nguyễn
Ngọc Cơ, 2007, tr.15)
Vì khơng cịn ruộng đất cơng để phong cấp cho quan lại và trực tiếp thu thuế
như trước, trong khi lại cần nhiều tiền để chi dùng, nhà nước phong kiến Nguyễn
không có cách nào khác là phải vơ vét, bóc lột nhân dân bằng nhiều thứ thuế: ngoài
thuế ruộng, thuế thân, dưới thời Nguyễn, nơng dân cịn phải đóng nhiều khoản phụ
thu như: tiền mân (tiền thu theo đầu người), tiền thập vật (chi vặt), tiền khoán khố

(giấy tờ, giữ kho), tiền sai dư (sai phái), tiền trước bạ, tiền dầu đèn, …

2


Nạn cường hào nhũng nhiễu đã nhiều lúc làm cho triều đình Huế lo ngại.
Song vì đây là bộ phận rường cột của chế độ, cho nên dù có biết, nhưng triều đình
đành phải làm ngơ.
Do bị áp bức, bóc lột đủ đường, nhất là bị cướp đoạt ruộng đất nên nhiều
nông dân đã phải bỏ làng mà đi. Thời Minh Mạng, có năm tại trấn Hải Dương, trong
số 13 huyện, dân phiêu tán mất 108 thôn xã, ruộng bỏ hoang hơn 1.270 mẫu. Thời Tự
Đức, nạn đê vỡ đã biến miền Khoái Châu thuộc Hưng Yên thành bãi cát hoang vu.
Năm Tự Đức thứ tám và thứ chín (1856, 1857), hàng chục vạn người chết đói ngay
trên đồng ruộng phì nhiêu vùng đồng bằng Bắc Bộ. Năm Tự Đức thứ mười hai
(1860), số người chết vì nạn đói và ôn dịch ở trong Nam ngoài Bắc lên đến 60 vạn.
(Đinh Xn Lâm, 1999, tr.12).
Để đối phó với tình trạng chết đói và phiêu tán của nơng dân, nhà Nguyễn đã
ban hành chính sách khẩn hoang, cho mở các đồn điền ở Nam Kỳ theo lối quân điền
và khai khẩn đất sa bồi ở vùng ven biển Bắc Kỳ. Từ năm 1828, chế độ Doanh điền
được ban hành. Theo đó, Nhà nước đứng ra tổ chức quy hoạch và góp vốn ban đầu,
cịn nhân dân thì hợp nhau góp cơng, góp sức khai hoang lập làng, mở rộng ruộng đất
cày cấy. Một số huyện ven biển Bắc Kỳ đã ra đời theo phương thức này, trong đó có
Kim Sơn (Ninh Bình) với 14.970 mẫu ruộng, 1.260 suất đinh và Tiền Hải (Thái
Bình) với 18.970 mẫu ruộng với 2.300 suất đinh. Hình thức doanh điền sau đó được
mở rộng ra nhiều tỉnh khác. Ngồi ra, nhà Nguyễn cũng khuyến khích nhân dân tự
động tổ chức khai hoang. Tính đến năm 1847, tổng diện tích canh tác lên tới
4.273.013 mẫu. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.206)
Công tác trị thủy lúc đầu được chú ý. Nhà nước hàng năm xuất tiền của thuê
nhân công sửa đắp đê điều và kêu gọi quan lại đóng góp ý kiến về các vấn đề chống
lụt, chống hạn, Nha Đê chính được thành lập (đến thời Tự Đức bị bãi bỏ), nhiều bản

tường trình về thực trạng sơng ngòi, đê đập được dâng lên, …
Mặc dù triều Nguyễn đưa ra nhiều biện pháp nhằm giải quyết tình trạng dân
phiêu tán và sự sa sút của nông nghiệp, nhưng chỉ thu được những kết quả rất hạn
chế. Thiên tai, lụt lội, mất mùa vẫn diễn ra. Số ruộng đất do chính tay người nơng
dân khai khẩn được cuối cùng lại bị coi là ruộng đất công, nếu ai sử dụng thì phải
nộp thuế rất cao. Rốt cục, người nơng dân lại vẫn rơi vào con đường nghèo khổ vì
khơng có ruộng cày.
Thực trạng trên đã khiến lực lượng sản xuất bị hao mịn, kinh tế nơng nghiệp
càng trở nên tiêu điều nghiêm trọng. Người nơng dân khơng cịn tha thiết với sản
xuất, cải tiến canh tác. Cơ sở kinh tế phong kiến tự cung tự cấp lại được phục hồi và
củng cố. Những yếu tố manh nha của nền kinh tế thị trường hình thành ở thế kỷ trước
bị chặn đứng.
*Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

3


Trong nửa đầu thế kỷ XIX, nước ta chưa hề có cơng nghiệp theo đúng nghĩa.
Hoạt động của cơng nghiệp chỉ bó hẹp trong khn khổ kinh doanh khai thác một số
hầm mỏ vàng, bạc, đồng, chì, … cung cấp nguyên liệu cho các xưởng thủ công chế
tác hầu hết các đồ dùng như tiền bạc, vũ khí, thuyền bè, xe cộ, quần áo, đồ trang sức.
Triều Nguyễn nắm độc quyền các cơng xưởng đúc súng, đóng tàu, đúc tiền và
các xưởng chuyên chế tạo đồ dùng riêng cho cung đình. Các cơng trường xây dựng
cung điện, thành qch, lăng tẩm đều do Bộ Cơng của triều đình quản lý.
Chế độ làm việc trong các công xưởng là chế độ “cơng tượng” mang nặng
tính chất cưỡng bức. Những người thợ giỏi ở các địa phương bị trưng tập về kinh đô
làm việc tập trung với tiền lương thấp, chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của quan lại
nên rất bất mãn, không phấn khởi với công việc.
Triều Nguyễn giữ độc quyền ngành khai mỏ. Số mỏ được khai thác từ năm
1802 đến năm 1858 là 139 mỏ, bao gồm đủ các loại. Phần lớn các mỏ đều nằm trong

tay các quan lại triều đình đứng ra khai thác. Phương thức khai thác mỏ theo lối thủ
công cá thể theo lối xưa cũ nên năng suất rất thấp.
Các nghề thủ công nghiệp trong nhân dân, do quy luật cung cầu chi phối vẫn
giữ được sự phát triển trong chừng mực nhất định. Ở khắp nơi vẫn xuất hiện nghề
rèn, nghề thợ xây, làm gốm, làm đồ gỗ, tơ lụa, dệt vải, nấu đường, đan lát mây tre
nan, làm nón, dệt chiếu, làm pháo, in tranh, … Tuy nhiên do hạn chế về nguồn tiêu
thụ và các luật lệ cấm đoán và thiếu sự khuyến khích từ phía Nhà nước, cho nên các
nghề thủ công đương thời không vươn mạnh lên được. Các nghề thủ cơng nhỏ và
nghề phụ gia đình ở nơng thơn cịn bị đình đốn bởi nơng dân đói khổ, li tán.
Các làng nghề thủ công cho dù nằm ở các trung tâm đô thị như Hà Nội vẫn
không thể phát triển lên thành các phường hội, có quy chế hoạt động giống như
phường hội Tây Âu thời trung đại, và cũng chưa có những thương nhân giàu có đứng
ra kinh doanh cố định một mặt hàng, làm cơ sở cho sự ra đời các công trường thủ
công giống như ở châu Âu.
*Thương nghiệp
Triều Nguyễn thực hiện chính sách “trọng nơng ức thương”. Về nội thương,
vì sợ nhân dân chế vũ khí chống lại triều đình, triều Nguyễn nắm độc quyền bn
bán ngun liệu cơng nghiệp (đồng, thiếc, kẽm, chì, lưu huỳnh, diêm tiêu). Chính
sách này giáng địn nặng nề vào nền thủ công nghiệp Việt Nam, khiến nhân dân thiệt
thịi về phương diện mưu sinh, đồng thời kìm hãm nghiêm trọng nền sản xuất nông
nghiệp – xương sống của kinh tế nước ta. Mặt khác, triều Nguyễn đặt ra nhiều luật lệ
để kiềm chế, như nắm độc quyền buôn bán đối với lâm sản quý (quế, nhung hươu,
sáp ong, ngà voi, gỗ quý), đánh thuế nặng vào các mặt hàng quan trọng đối với đời
sống nhân dân như lúa gạo để hạn chế việc chuyên chở trao đổi giữa các vùng trong
nước, cấm nhân dân họp chợ. Việc giao thương giữa các địa phương gặp rất nhiều
khó khăn, thị trường trong nước không tập trung và thống nhất.
4


Đối với ngoại thương, triều Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”

và nắm độc quyền ngoại thương. Chính sách “bế quan tỏa cảng”, khước từ quan hệ
thông thương với bên ngoài, nhất là với phương Tây đã làm cho Việt Nam bị tách
biệt với các nước. Thời Gia Long đã có sự hạn chế thuyền bè ngoại quốc ra vào các
cửa biển Việt Nam, trừ tàu buôn của Pháp thỉnh thoảng được phép qua lại. Đến các
triều vua sau này, đặc biệt dưới thời Tự Đức, việc buôn bán với các nước phương
Tây hầu như ngừng hẳn. Tàu thuyền của Anh, Pháp, Mỹ, … nhiều lần cập bến Đà
Nẵng xin buôn bán đều bị khước từ. Ngoại thương của Nhà nước chỉ được mở hạn
chế với các nước trong khu vực Đông Á hoặc Đông Nam Á, như Trung Quốc,
Philippines, Thái Lan, Singapore, Indonesia, … (Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.19)
Triều Nguyễn chỉ mở hạn chế một số cửa biển cho tàu thuyền nước ngồi
bn bán. Tàu thuyền nước ngồi được phép nhập vào những hàng hóa triều đình cần
như sắt, chì, gang, lưu huỳnh để làm súng đạn. Cấm tàu thuyền nước ngồi mua tơ
lụa, thóc gạo trong nhân dân khiến cho việc thương mại ngày càng suy sụp.
Về thuế quan, trước có 60 Sở thu thuế, đến năm 1851 cịn lại 21 Sở. Điều
đáng nói ở đây là việc hạn chế ngoại thương không xuất phát từ việc bảo vệ thị
trường trong nước, mà xuất phát từ ý thức ngăn chặn sự du nhập của đạo Thiên Chúa.
(Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.20)
*Tài chính
Những chính sách của triều Nguyễn đã khiến cho các ngành nông, công,
thương nghiệp và thủ cơng nghiệp đình đốn. Các yếu tố tư bản chủ nghĩa mới nảy
sinh trong các lĩnh vực kinh tế bị bóp nghẹt. Nền kinh tế hàng hóa vì vậy đã bị co hẹp
lại. Trên cơ sở đó, nền tài chính quốc gia ngày một kiệt quệ.
Để có tiền chi dùng, vua tôi nhà Nguyễn, nhất là thời Tự Đức đã dùng mọi
cách để vá víu, như bán cơng điền làm tư điền, cho nộp tiền chuộc tội, quyên tiền lấy
phẩm hàm, … Song vẫn không sao giải quyết được nạn khủng hoảng tài chính. Hậu
quả là nhân tài, vật lực nước ta bị kiệt quệ. Năm Tự Đức lên ngơi (1847), đình thần là
Trương Quốc Dụng tâu: “Tài lực của dân nay không bằng sáu phần mười năm
trước”. Tới năm 1859, khi quân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, chiến tranh mới
chỉ diễn ra ở vài nơi (Đà Nẵng, Gia Định) mà Nguyễn Tri Phương đã kết luận “Quân
và dân của đã hết, sức đã yếu”. (Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.21)

Thế kỷ XIX là thế kỷ bản lề với xã hội châu Á. Lúc đó, trước áp lực của chủ
nghĩa thực dân phương Tây, việc mở cửa, khai phóng những nhân tố kinh tế tư bản
chủ nghĩa là con đường duy nhất đúng để tăng sức mạnh bảo vệ nền độc lập. Nhưng
trên bình diện kinh tế, nhà Nguyễn đã khơng làm được việc đó.
1.1.1.2. Về tình hình chính trị
Trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, Việt Nam là một nước quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền, cao nhất là Hoàng đế, nắm tất cả quyền bính, có
Cơ mật viện bàn chuyện quốc sự, nhưng ý kiến quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến
5


của nhà vua. Hoàng đế tự xưng là Thiên tử (con Trời), thay Trời trị dân. Vua có uy
quyền tuyệt đối, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì kẻ ấy phải chết. Ý vua là
phép nước và nước là của vua. Trong thực tế, vua là địa chủ lớn nhất nước, có tồn
quyền quyết định trong việc sử dụng ngân khố nhà nước, có quyền tước đoạt bất kỳ
cái gì, của bất cứ ai nếu nhà vua muốn.
Để thống nhất điều hành từ triều đình cho tới xã, thôn, các vua triều Nguyễn
cho phân chia lại các khu vực hành chính, định lại bản đồ và tổ chức một hệ thống
quan lại hoàn chỉnh ở các cấp. Các hàng quan đầu tỉnh đều do Nhà nước bổ nhiệm,
thơng qua thi cử. Ở vùng thượng du, triều đình khơng có khả năng cai trị thì thơng
qua các tù trưởng để nắm quyền. Dưới các thơn xã, quyền bính nằm trong tay bộ
phận phú hào, cả về kinh tế, cai trị, giáo dục. Vận mạng của dân làng phụ thuộc vào
các tổng lý, kỳ dịch. Quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ.
Mơ hình nhà nước triều Nguyễn với nguyên lý quyền hành quá mức, hệ thống
chính quyền quân chủ tuyệt đối là đặc trưng của chế độ chính trị nhà Nguyễn. Vua
Tự Đức cũng phải thú nhận: “quan lại khắc nghiệt lấy giấy tờ pháp luật làm gông
cùm, lấy dân đen làm cá thịt…” (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.207). Thể chế ấy
sinh ra sự lộng hành ghê gớm của bọn cường hào các địa phương.
Về đối nội, triều Nguyễn đàn áp khủng bố các phong trào khởi nghĩa của
quần chúng, huy động những lực lượng quân sự to lớn vào việc dập tắt các cuộc khởi

nghĩa nông dân. Các cuộc hành quân liên miên đã khiến lực lượng quân đội triều
đình suy yếu dần, khả năng chiến đấu giảm sút. Lịng dân ốn thán, chia lìa, khối
đồn kết dân tộc bị rạn nứt. Tình hình trên đã gián tiếp tạo điều kiện cho thực dân
Pháp thơn tính nước ta.
Bộ máy nhà nước và Bộ luật Gia Long thời Nguyễn phỏng theo bộ máy nhà
nước và Bộ luật của nhà Thanh. Bộ luật Gia Long được áp dụng triệt để nhằm duy trì
chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Triều Nguyễn còn sử dụng văn học để tuyên truyền
cho chế độ thống trị hà khắc, như Minh Mạng ra 10 điều Huấn dụ, Tự Đức diễn âm
Thập điều diễn ca để truyền bá rộng rãi học thuyết Nho giáo, trên cơ sở đó củng cố ý
thức hệ phong kiến đã bị rạn nứt.
Việc trả thù thái quá với nhà Tây Sơn đến việc giết hại công thần như Nguyễn
Văn Thành, Đặng Trần Thường, từ sự chia rẽ trong hoàng tộc vì việc phế lập khiến
đại cơng thần như Lê Văn Duyệt cũng bị quật mồ mả vì tội “nâng đỡ dịng đích tơn”,
… các sự kiện đó chỉ làm cho tình hình đất nước thêm rối ren.
Về đối ngoại, triều Nguyễn khá mạnh so với các quốc gia phong kiến ở Đơng
Nam Á, nên trong chính sách đối ngoại, bên cạnh việc xin nhà Thanh phong vương,
chịu cống nạp, nhà Nguyễn không ngại đối đầu với nước Xiêm trong vấn đề “bảo hộ”
Cao Miên và biến Cao Miên thành một tỉnh (1835), đổi tên Nam Vang thành trấn Tây
Thành. Năm 1827, nhà Nguyễn đã buộc Lào thần phục.

6


Từ năm 1827 đến năm 1847, trong vòng 20 năm, nhà Nguyễn đã gây chiến
tranh với Cao Miên, Xiêm La và Lào, khiến cho nhân dân vô cùng khốn khổ. “Đi
đánh giặc Lạp, giặc Lào, giặc Xiêm” là ác mộng của nhân dân miền Trung và miền
Nam trong thời gian đó. Kết quả của 20 năm theo đuổi chính sách xâm lược tai hại đã
khiến cho tài lực của nhân dân hao mòn, hiềm thù ngày càng khoét sâu giữa các nước
láng giềng với nhau, trong lúc bọn thực dân đang nhịm ngó ngồi cửa ngõ.
Đối với các nước phương Tây, nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa

cảng”, cấm đạo, sát đạo.
Để đối phó với âm mưu của các cố đạo Pháp, các vua triều Nguyễn đã chọn
con đường hạn chế ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo. Ngay từ thời Gia Long đã có
chủ trương hạn chế việc truyền đạo, không cho làm thêm nhà thờ, tu bổ nhà thờ hoặc
giao thương với Pháp và các nước phương Tây. Từ Minh Mạng trở đi, bế quan tỏa
cảng và cấm đạo càng ngặt nghèo hơn. Tàu chiến Pháp càng gây sự, các cố đạo càng
can thiệp sâu vào công việc nội trị của Việt Nam bao nhiêu thì các hải cảng càng
được đóng chặt và các cha cố càng bị truy nã, khủng bố thêm bấy nhiêu.
Cho dù chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn có những lý do của nó, mà một
trong những lý do chính là những hoạt động gián điệp, khiêu khích trắng trợn của các
cha cố, nhưng những chính sách cấm đạo, sát đạo của triều Nguyễn đã bất lợi cho
nước ta trước cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Hậu quả là việc truyền đạo Thiên
Chúa khơng thể ngăn cản, mà cịn làm cho thế nước ngày càng suy yếu, gián tiếp
khuyến khích kẻ địch lấn tới và xâm lăng.
Tóm lại, trong gần 60 năm đầu thế kỷ XIX (1802 – 1858), triều đình nhà
Nguyễn ra sức củng cố quan hệ sản xuất phong kiến, bóp nghẹt lực lượng sản xuất
mới đã có manh nha từ thế kỷ XVIII, đối đầu với nước Xiêm, buộc Cao Miên, Lào
thần phục, bế quan tỏa cảng, cấm đạo, sát đạo với Thiên Chúa giáo, đàn áp đẫm máu
các phong trào khởi nghĩa nông dân, truyền bá và củng cố ý thức hệ Nho giáo...
Mọi chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối nội, đối ngoại, … triều
Nguyễn đã thi hành đều nhằm vào mục đích bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp
thống trị. Vì thế, đã khơng tạo ra được sức mạnh của nhân dân, không phát huy được
truyền thống yêu nước và tình hịa hiếu lâu đời vốn có của dân tộc, trong khi thực
dân Pháp đang ráo riết tìm cớ xâm lược nước ta.
1.1.1.3. Về mặt xã hội
Ách áp bức nặng nề cùng với những chính sách đối nội, đối ngoại thiển cận
của nhà nước phong kiến Nguyễn đã khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên
sâu sắc. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra suốt từ thời Gia Long đến thời Tự
Đức. Trong phong trào khởi nghĩa đó, có những cuộc khởi nghĩa kéo dài nhiều năm,
thu hút hàng ngàn người tham gia.

Trong suốt 18 năm thời Gia Long (1802 – 1820) có 73 cuộc khởi nghĩa nông
dân. Từ thời Minh Mạng trở về sau cho đến năm 1858, các cuộc khởi nghĩa nổ ra
7


ngày càng nhiều hơn, quy mô càng lớn hơn. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Phan
Bá Vành ở vùng Nam Định (1821 – 1827), khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 – 1856) ở
Hà Nội, khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở miền núi Thanh Hóa (1833 – 1834), cuộc
nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833 – 1836), khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833) ở
vùng rừng núi Tuyên Quang, Cao Bằng, … (Đinh Xuân Lâm, 1999, tr.15)
Trong vòng 7 năm ở ngơi của Thiệu Trị, đã có tới 56 cuộc khởi nghĩa nông
dân. Thời Tự Đức, cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm cho nền tảng chế độ phong
kiến lung lay. Từ năm 1848 đến năm 1862, đã có 40 cuộc khởi nghĩa. Nếu tính đến
năm 1883, khi nhà Nguyễn ký Điều ước Harmand, thừa nhận sự chiếm đóng của
Pháp trên tồn cõi Việt Nam thì các cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã lên tới con
số 103 cuộc. (Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.23)
Các cuộc hành quân liên miên đã khiến lực lượng quân đội triều đình suy yếu
dần, khả năng chiến đấu giảm sút. Lịng dân ốn thán, chia lìa, khối đồn kết dân tộc
bị rạn nứt. Tình hình trên đã gián tiếp tạo điều kiện cho thực dân Pháp thơn tính nước
ta.
Phong trào khởi nghĩa nơng dân trên đã khẳng định rằng, vào lúc thực dân
Pháp nổ súng xâm lược nước ta là lúc mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến đã
trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, nông dân bao giờ cũng là một lực lượng yêu nước quan
trọng. Chính quần chúng nhân dân, trong đó chủ yếu là nơng dân đã trở thành chỗ
dựa của các sĩ phu yêu nước, thoát ly khỏi triều đình lãnh đạo cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp ở giai đoạn sau.
1.1.1.4. Về quân sự
Nhà Nguyễn coi trọng việc binh bị. Dưới thời Nguyễn, quân đội được củng
cố, gồm đủ các binh chủng như bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh, pháo binh.
Quân đội tuy đông, nhưng kém về luyện tập, vũ khí lạc hậu. (Lạc hậu so với phương

Tây, ở Đông Nam Á, quân đội nhà Nguyễn là một trong những quân đội mạnh nhất
lúc bấy giờ).
Khi Gia Long đánh bại Tây Sơn, bộ binh của nhà Nguyễn có 113.000 quân,
200 thớt voi, 30 vệ pháo binh. Thủy quân có 17.000 quân với 500 chiến thuyền nhỏ,
200 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền được trang bị từ 10 đến 22 khẩu đại bác. Cả
nước có 80 cơ hay vệ bộ binh, mỗi cơ hay vệ có khoảng 5.000 quân do Quản cơ hay
Vệ úy chỉ huy. Mỗi viên Thống chế cai quản khoảng 10 cơ hay vệ, mỗi cơ hoặc vệ có
10 đội, mỗi đội có 50 quân (chia thành 5 thập hay 10 ngũ). Lính ở kinh đơ gọi là vệ,
lính các nơi gọi là cơ. Lính chiêu mộ ở Nam Kỳ, Bình Định, Nghệ An thường đưa về
kinh làm lính vệ. Các tỉnh khác cung cấp lính cơ. Lính cơ hay lính vệ đều phải phục
vụ trong quân ngũ 10 năm, riêng lính ở Trung Kỳ thì phục vụ 15 năm. Quân số chia
thành hai hoặc ba ban, lớp tại ngũ, lớp ở nhà luân phiên nhau. (Nguyễn Ngọc Cơ,
2007, tr. 21)

8


Bộ binh gồm có Kinh binh và Cơ binh. Kinh binh chia thành các doanh, vệ,
đội có nhiệm vụ trấn giữ kinh thành hoặc chia đi đóng ở một số nơi hiểm yếu. Doanh,
vệ, đội có các quan Thống chế, Chánh, Phó Quản vệ và Suất đội chỉ huy. Mỗi doanh
có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 quân. So với các nước phương Tây lúc bấy
giờ thì trang bị của quân đội nhà nguyễn rất lạc hậu: trong một đội 50 qn thì chỉ có
5 quân cầm súng điểu thương (súng châm ngòi), mỗi năm tập bắn 1 lần, mỗi lần bắn
6 phát đạn, số còn lại trang bị gươm giáo. (Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.21).
Sự kém cỏi của binh lực thời Nguyễn có nhiều nguyên nhân. Ngoài những
nguyên nhân liên quan đến bản chất chế độ, còn phải kể đến sự suy sụp về tài chính,
dẫn đến thiếu khả năng cải tổ lực lượng quân đội. Kỹ thuật thời Gia Long thế nào thì
thời Tự Đức vẫn vậy, vẫn tiếp tục học trận đồ bát quái, ngũ hành, long thao, hổ lược,
tướng ra trận vẫn phải coi ngày giờ tốt xấu, bổn mạng may rủi, …
Đời sống của binh lính tồi tệ. Lương ăn, áo mặc của họ đều thiếu thốn. Quân

pháp thiếu nghiêm minh. Đánh trận dù có dũng cảm, nhưng bị thua hay tạm thua đều
bị giáng chức, cách chức. Tinh thần chiến đấu của binh sĩ vì thế bị sa sút.
Phạm Phú Thứ, một đại thần của triều đình nhận xét:
Quân sĩ hèn nhát là do chưởng quan bất tài và vơ quyền. Qn sĩ nhiều người
khơng lương bổng, rất đói khổ, phải tìm cách giúp đỡ nhau, chớ khơng trơng
mong gì đến gạo trong kho. Quan võ thì thường than thở rằng, mình hết sức
chống giữ biên cương, rủi ro chết đi thì chỉ thiệt mình, chứ cơng trạng thì nào
có ai nghĩ đến cho.
(Nguyễn Ngọc Cơ, 2007, tr.22)
Một điều đáng lưu ý là trong khi quân lực suy tàn, tài chính khơ kiệt, lịng dân
ốn thán thì triều đình, vua quan, sĩ phu đều khư khư ôm lấy tư tưởng bảo thủ, cố
chấp, không chịu duy tân. Trong khi kỹ thuật tư bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh
mẽ, lan tràn ở nhiều nước xung quanh, thế mà vua tôi nhà Nguyễn vùi đầu vào Tứ
Thư, Ngũ Kinh, ai bàn đến canh tân thì cho là tà thuyết, xảo đoạt tạo hóa.
Do tầm nhìn hạn hẹp, đến đời Tự Đức, các vua Nguyễn còn bỏ nhiều tiền
sang châu Âu mua súng mà không hề biết rằng những thứ vũ khí mua được đều sản
xuất trước năm 1848, thời điểm trước khi châu Âu làm cuộc cách mạng về vũ khí.
Đại bác ở các thành có nhiều nhưng tầm bắn gần, ít chính xác vì đạn đặc, khả năng
sát thương kém.
Sức lực vương triều tuy còn đủ để ra oai với các nước láng giềng hay đàn áp
các cuộc nổi dậy của nhân dân, song một triều đình như thế, khó có thể đương đầu
nổi với quân đội xâm lược nhà nghề, được trang bị bằng vũ khí của nền cơng nghiệp
tư bản chủ nghĩa phương Tây.
1.1.1.5. Về tình hình văn hóa tư tưởng

9


Do nhiều lý do chủ quan và khách quan, trong sinh hoạt văn hóa, thời Nguyễn
cũng có nhiều thành tựu độc đáo, phát huy truyền thống văn hiến Việt Nam. Trong

lĩnh vực tư tưởng, chủ yếu là Tống Nho vẫn được đề cao và coi là hệ tư tưởng chính
thống, vua quan nhà Nguyễn nói chung đều coi nó là hệ quy chiếu duy nhất, “xưa
hơn nay”, “nội Hạ ngoại Di”, …
Do sự xâm nhập ngày càng mạnh của đạo Thiên Chúa từ thế kỷ XVI, truyền
thống “Tam giáo đồng quy” bị đe dọa nghiêm trọng. Trong thời Nguyễn, đặc biệt khi
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã nổ ra, có 3 vấn đề tư tưởng chi phối
từ cung đình xuống dân chúng. Đó là các vấn đề: Chính đạo hay Tà giáo? (Nho giáo
hay Thiên Chúa giáo?), Chiến hay Hòa? (đánh Pháp hay đầu hàng?), Duy Tân hay
Thủ cựu? (bảo thủ thay cải cách?). Tiếc rằng, nhiều sĩ phu yêu nước lại quay lưng với
xu hướng cải cách và ủng hộ việc “cấm đạo” của triều đình, được thi hành ngày càng
gay gắt từ thời Minh Mạng, một chính sách tuy có hạt nhân hợp lý và có ý nghĩa bảo
vệ an ninh quốc gia, nhưng lợi bất cập hại trong thực tiễn.
Tóm lại, qua xem xét các lĩnh vực cụ thể của Việt Nam dưới thời Nguyễn,
trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược cho thấy chế độ phong kiến triều Nguyễn
không thể giải quyết được xu thế khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam từ
thế kỷ XVIII. Chế độ phong kiến triều Nguyễn đã khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, ngoại giao. Nhà nước phong kiến Nguyễn đang
đứng trước thách thức to lớn: một là nó phải được cải tổ để đáp ứng yêu cầu lịch sử,
tốt nhất là thay thế bằng một triều đại khác tiến bộ hơn, có khả năng duy tân đất nước
và bảo vệ nền độc lập dân tộc; hai là nước Việt Nam bị xâm lược và bị biến thành
một nước thuộc địa của tư bản phương Tây. Thực tế lịch sử cho thấy, khả năng thứ
nhất đã không xảy ra, khả năng thứ hai đã liền kề. Việc mất nước Việt Nam lúc đầu
không tất yếu, nhưng do phong kiến triều Nguyễn tiếp tục lối mòn cũ, cự tuyệt mọi
đề nghị cải cách, duy tân, dẫm chân tại chỗ và tụt hậu, cuối cùng mất nước – khả
năng thứ hai đã trở thành tất yếu.
1.1.2. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp
Thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam là vì vấn đề Cơng giáo, thực ra đó chỉ
là cái cớ trực tiếp. Chính C. Gosselin (Gốt-xơ-lanh), một võ quan Pháp trong một
cuốn sách về lịch sử Việt Nam đã viết:
Đồng bào Pháp do ít hiểu lịch sử cho rằng, nước Pháp phải can thiệp vào An

Nam chỉ là để bảo vệ nhà truyền giáo, để trả thù những hành động đối
nghịch, ngược đãi với đạo Gia Tơ. Sự thật thì các nhà truyền giáo chỉ là lý do
của những hành động của chúng ta chống lại An Nam mà thôi, … Nước An
Nam đã cho chúng ta cơ hội ấy và chúng ta đã nắm ngay cơ hội ấy và giờ đây
việc đánh chiếm đã hoàn thành…
(Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.209)

10


Quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp là lâu
dài liên tục, bắt đầu từ những thập niên đầu thế kỷ XVII, với mục đích nhất qn là
bành trướng, xâm chiếm thị trường, hồn tồn khơng phải vì mục đích tơn giáo hoặc
“sứ mệnh khai hóa văn minh” nào cả.
Năm 1624, linh mục A. de Rhodes (Đắc Lộ) đã có mặt tại Việt Nam. Trải qua
21 năm hoạt động không biết mệt mỏi, A. de Rhodes không chỉ là cha đẻ của chữ
Quốc ngữ mà cịn lập ra Hội truyền giáo nước ngồi của Paris (1658) và góp phần
quan trọng trong việc lập ra Công ty Đông Ấn của Pháp (1664). Hai cơ quan, một
thương mại, một truyền giáo này thực sự đã hướng sự chú ý của thực dân Pháp vào
Đông Dương, đồng thời cũng gạt dần ảnh hưởng của các thế lực phương Tây khác ra
khỏi nước ta.
Liên minh Nguyễn Ánh – Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) từ năm 1777 đã
thúc đẩy thêm q trình đó. Hiệp ước Versailles ngày 28/11/1787 ký giữa Bá Đa Lộc,
người đại diện cho Nguyễn Ánh và Montmorin (Mông-mô-ranh) đại diện cho vua
Pháp Luis XVI, tuy không thực hiện được, nhưng đã cột chặt Gia Long vào ảnh
hưởng của nước Pháp và Hội truyền giáo nước ngồi của Paris.
Gia Long lên ngơi, vì những “ân tình” với nước Pháp nên đã sử dụng tới 40
cố vấn, chủ yếu là các giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo nước ngồi của Paris, trong đó
có Chaigneau (Se-nhơ) được cải họ Việt là Nguyễn Văn Thắng và P.Vanier (Va-ni-ê)
tức Nguyễn Văn Chấn, ở kinh thành Huế hàng chục năm, dạy học cho các hồng tử,

cơng chúa, dịch sách và tài liệu cho triều đình, nắm mọi bí mật quốc gia.
Năm 1822, bị Anh gạt khỏi Ấn Độ, thực dân Pháp càng tỏ ra quan tâm hơn
đến Việt Nam. Tiêu biểu là ý kiến của Thượng thư Guizot (Gi-dô) năm 1843 rằng,
nước Pháp phải có hai cái đảm bảo ở Viễn Đông là vùng biển Trung Hoa và Việt
Nam. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.210)
Năm 1852, Napoleon III lên ngôi, là người sùng đạo và kiên quyết đi theo
chính sách thuộc địa của Luis Philippe, đặc biệt khi nổ ra chiến tranh giữa Anh với
nhà Thanh thì quyết tâm đánh chiếm Việt Nam càng tăng thêm. Ngày 16/9/1856,
Pháp phái tàu chiến Catinat đến Đà Nẵng, có phái viên cầm quốc thư sang Việt Nam,
nhưng triều đình Huế lo ngại khơng tiếp. Ngày 26/9/1856, thực dân Pháp bắn phá các
đồn lũy rồi kéo lên khóa tất cả các đại bác trên bờ, sau đó nhổ neo bỏ đi. Ngày
23/1/1857, phái viên của Napoleon III là Montigny cập bến Đà Nẵng yêu cầu được tự
do truyền đạo và buôn bán, nhưng vẫn bị triều đình Huế cự tuyệt.
Ngày 22/4/1857, Napoleong III quyết định cử ra Hội đồng Nam Kỳ để xét lại
Hiệp ước Versailles đã ký kết năm 1787 giữa Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh
và Montmorin đại diện cho Luis XVI nhưng không thành. Tháng 7/1857, Napoleon
III quyết định vũ trang can thiệp vào Việt Nam với cớ trả thù việc triều đình Huế
khơng tiếp nhận quốc thư của Pháp do tàu chiến Catinat đem đến tháng 9/1856, cho
là triều Nguyễn “làm nhục quốc kỳ Pháp”. Mặt khác, chúng còn lấy cớ “bênh vực

11


đạo”, “truyền bá văn minh Công giáo” để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận
Cơng giáo Pháp và Việt Nam. (Đinh Xuân Lâm, 1999, tr.10)
1.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1884)
1.2.1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Đà Nẵng
Rạng sáng ngày 1/9/1858, liên quân Pháp, Tây Ban Nha nổ súng xâm lược
nước ta tại Đà Nẵng. Thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm địa điểm tấn công đầu tiên vì
Đà Nẵng có một vị trí qn sự quan trọng, hải cảng sâu rộng, thuận tiện cho tàu chiến

triển khai.
Hơn nữa theo cách nhìn của giới quân sự Pháp, Đà Nẵng là cổ họng của Huế,
chỉ cách Huế 100km về phía Nam, nếu chiếm được Đà Nẵng, Pháp có khả năng
chiếm ngay kinh thành Huế, sớm kết thúc chiến tranh.
Giới quân sự Pháp cũng được lời hứa hẹn rằng, Giám mục Pellerin (Pe-lơranh) đã hoạch định kế hoạch lôi kéo giáo dân vùng ven biển Đà Nẵng nổi dậy phối
hợp với hải quân Pháp khi vào trận. Nhưng thực tế, điều này không xảy ra.
Kế hoạch xâm lược Việt Nam đã được thông qua từ tháng 7/1857 và đến khi
cuộc can thiệp của Pháp ở vùng biển Trung Hoa tạm ngưng bởi Hiệp ước Thiên Tân
lần thứ nhất ngày 27/6/1858, hạm đội Pháp lập tức quay mũi về phía Đà Nẵng.
Người chỉ huy hạm đội Pháp là Phó Đơ đốc R. de. Genouilly (Giơ-nui-y), đã
từng chinh chiến nhiều năm trên chiến trường Nga và Trung Quốc. R. de. Genouilly
có trong tay 14 tàu chiến và 3.000 quân. Ngoài ra trên mặt trận Đà Nẵng cịn có 500
qn Tây Ban Nha do đại tá Lanzarotte (Lan-da-rốt) chỉ huy. Quân Tây Ban Nha có
mặt trong cuộc chiến tranh xâm lược vì họ cũng bị kích động “trả thù” cho các giáo
sĩ dịng Đa Minh của họ bị Tự Đức sát hại. Tuy vậy, người Pháp cũng đã nhanh
chóng gạt ngay bạn “đồng minh” này khi họ chiếm được Gia Định ít lâu sau.
Việc Đà Nẵng bị tấn công không hề bất ngờ với triều đình. Sách Dương sự
thủy mạt đã ghi rằng, từ năm 1857, nhiều bản điều trần đã dâng lên Tự Đức đề nghị
triều đình cho tăng cường phịng thủ cho hải cảng này. Theo kế hoạch đó, trên sơng
Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà được đắp thêm 2 đồn lũy kiên cố. Đèo Hải Vân cũng
được xây thêm các đồn phịng thủ, có sẵn đá hộc chặn giặc. Qn số trên các đồn
chính ở Đà Nẵng có lúc lên đến gần 5.000, trang bị thêm đại bác mới, … (Nguyễn
Quang Ngọc, 2012, tr.211)
Rạng sáng ngày 1/9/1858, không chờ quân triều đình trả lời tối hậu thư, quân
Pháp đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình bắn trả, nhưng do vũ khí lạc
hậu và khơng được tập luyện thường xuyên nên kém hiệu quả, không thể ngăn được
quân Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
Vũ khí hiện đại đã tạo cho liên quân Pháp, Tây Ban Nha lợi thế ngay từ đầu,
các đồn An Hải và Điện Hải (Trà Sơn) bị vỡ, quân triều đình phải lui về Hòa Vang.


12


Được tin mất bán đảo Sơn Trà, Tự Đức xuống chiếu cách chức Tổng đốc
Trần Hoàng và Hồ Đức Tú, cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm Tổng đốc Quảng
Nam cùng Chu Phúc Minh ra Đà Nẵng chặn giặc. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012,
tr.211)
Nguyễn Tri Phương chủ trương bao vây quân giặc bằng cách xây dựng một
tuyến phòng thủ từ Hải Châu (chân đèo Hải Vân) tới Thạch Giản dài hơn 4km, nhằm
vây chặt qn Pháp ngồi mé biển, khơng cho chúng đi sâu vào nội địa. Đối với nhân
dân trong vùng, ông ra lệnh thực hiện vườn không nhà trống tản cư vào bên trong để
khỏi bị giặc bắt đi lính, nộp lương thực hay cung cấp tin tức.
Chiến thuật đó tuy khơng độc đáo nhưng cũng làm cho qn Pháp bị giam
chân trong 5 tháng liền, bị tiêu hao, bị dịch bệnh hồnh hành (200 tên chết trong
vịng một tháng), khả năng được tiếp ứng từ đất liền hoàn tồn khơng có. Trong tình
trạng khó xử ấy, R. de. Genouilly quyết định chuyển hướng, chỉ để lại một lực lượng
nhỏ ở bán đảo Sơn Trà, còn đại quân chuyển vào Nam Kỳ, trước tiên là hướng Gia
Định. Pháp chuyển đại quân vào đánh Gia Định với những lý do sau:
Thứ nhất, Nam Kỳ là vùng kinh tế giàu có, nhiều lúa gạo, có khả năng xuất
khẩu.
Thứ hai, lực lượng qn chính quy của triều đình ở đây mỏng hơn.
Thứ ba, từ Nam Kỳ có thể chiếm Cao Miên, ngược sông Mekong lên Vân
Nam Trung Quốc.
Thứ tư, đánh Nam Kỳ sẽ ít gặp sự phản ứng của nhà Thanh, lại vừa có thể đề
phịng qn Anh khi họ đã chiếm được Hương Cảng, Singapore.
Thứ năm, Nam Kỳ thuộc địa bàn sông nước, kênh rạch chằng chịt, thuận lợi
cho tàu chiến của giặc cơ động khi tác chiến.
1.2.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân triều
Nguyễn ở Đà Nẵng và Nam Kỳ (2/1859 – 1885)
1.2.2.1. Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, đại đồn Chí Hịa

và bốn tỉnh Nam Bộ (2/1859 – 3/1862). Sự phân hóa trong nội bộ triều
Nguyễn.
Ngày 9/2/1859, quân giặc đã tới Vũng Tàu. Từ ngày 10 tháng 2 chúng bắt đầu
tấn công dọc sông Cần Giờ vào Gia Định. Tàu Pháp tiến rất chậm, từ cửa Cần Giờ
vào đến gần thành Gia Định mất hết 6 ngày, vì vấp phải sức kháng cự quyết liệt của
quan qn triều đình đóng hai bên bờ sơng và vật cản giữa dịng sơng.
Sáng ngày 16/2/1859, Pháp đổ bộ chiếm được hai pháo đài bảo vệ trực tiếp
thành Gia Định và cho tàu ngược sông Bến Nghé vào đậu ngay trước mặt thành.
Sáng ngày 17/2, tàu chiến địch tập trung hỏa lực bắn vào thành, đến trưa thì cho quân
đổ bộ đánh thành và chiếm được thành Gia Định.
13


Như vậy, chỉ trong 2 ngày, ngày 16 và 17/2, quân Pháp đã chiếm được thành
Gia Định, một thành lớn được Nguyễn Ánh cho xây dựng từ lâu theo kiểu Vauban
(Vơ-băng), mỗi chiều dài ngót 500m, sức chứa đến 1 vạn quân, nhưng lúc đó chỉ có
1.000 quân canh giữ. Quân Pháp chiếm thành, thu tới 200 khẩu pháo, 2 vạn vũ khí
các loại và rất nhiều lương thực của quân triều đình bỏ lại. Thành mất, Trấn thủ Vũ
Duy Ninh, Án sát Lê Từ đều tự tử, một số tướng bỏ chạy về Vĩnh Long (Nguyễn
Quang Ngọc, 2012, tr.212).
Mặc dù chiếm được thành Gia Định, nhưng với lực lượng có hạn, R. de.
Genouilly khơng thể đánh rộng ra ngay được. Tự Đức một mặt hô hào lập các đội
nghĩa dũng tại chỗ, mặt khác lại cử tướng Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp vào
Gia Định làm Thống chế mặt trận Gia Định.
Những đội nghĩa dũng của Trần Thiện Chính (một tri huyện bị cách chức), Lê
Huy (một võ quan bị thải hồi) với gần 6.000 nghĩa binh, chiến đấu rất hiệu quả, tiêu
hao, quấy rối quân Pháp trong thành Gia Định.
Bị vây hãm, R. de. Genouilly quyết định dùng thuốc nổ phá thành Gia Định,
đốt trụi mọi kho tàng, đưa qn xuống đóng dưới tàu chiến đậu trên sơng để tránh bị
qn ta đột kích. Sau đó, R. de. Genouilly chỉ để lại một số ít quân ở Gia Định, còn

lại cấp tốc kéo tiếp viện cho số quân Pháp đóng ở mặt trận Đà Nẵng đang có nguy cơ
bị quân ta tiêu diệt.
Ra đến Đà Nẵng, ngày 8/5/1859, R. de. Genouilly quyết định mở cuộc tấn
công lớn tiến sâu vào nội địa, buộc quân triều đình phải lui về cố thủ phía sau. Nhưng
quân Pháp cũng bị tổn thất nặng, sau đó phải rút về vị trí cũ, không dám tiến sâu vào
nội địa nữa. Lúc bấy giờ nước Pháp đang dồn lực lượng vào chiến trường châu Âu,
nên không thể tiếp viện cho đội quân xâm lược Việt Nam, khiến cho quân Pháp đang
sa lầy ở Đà Nẵng.
Cuối năm 1859, Đô đốc Page (Pa-giơ) được cử thay R. de. Genouilly. Sang
tới nơi, Page lại dốc lực lượng đánh mạnh vào phía Bắc vịnh Đà Nẵng để làm chủ
con đường đèo Hải Vân, rồi đánh thẳng vào Huế. Nhưng một lần nữa, Pháp lại thất
bại, số quân lính chết và bị thương đến 300 người.
Từ ngày 1/9/1858 đến ngày 23/3/1860, cuộc kháng chiến của nhân dân Đà
Nẵng đặt dưới sự lãnh đạo của triều đình nhà Nguyễn. Trên mặt trận Đà Nẵng cũng
như Gia Định, vua Tự Đức cịn có những quyết định tích cực cho cục diện chiến
trường như luôn phái những tướng giỏi tới Đà Nẵng (Nguyễn Tri Phương, Lê Đình
Lý), bắt giam, giáng chức những tướng vơ dụng như Chu Đức Minh, Trần Hồng, …
Tự Đức cũng quyết định, sau trận đánh ngày 8/5/1859, tăng cường hệ thống đồn lũy
từ chân đèo Hải Vân đến Đà Nẵng, tăng viện thêm 31 khẩu đại bác, cung cấp thêm
súng phun lửa và đại bác mới mới mua được. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.215)
Trong những ngày đầu kháng chiến, nổi bật là sự đóng góp của các đội dân
binh. Những lũy cát trồng tre kéo dài từ Sơn Trà đến An Hải, ra Mỹ Thịnh, Hóa Khê,
14


một tuyến khác dài từ Hải Vân đến Điện Hải, Vũng Thùng qua các đồn lũy kiên cố
như Nại Hiên, Liên Trì, Phương Trì, … đã chặn đứng từng bước tiến của quân giặc.
Thất bại trong âm mưu đánh vào Huế, Page quyết định rút dần quân vào Gia
Định và đến ngày 23/3/1860, toàn bộ quân Pháp sau hơn 19 tháng chiếm đóng Đà
Nẵng đã rút hết về Gia Định.

Tại Gia Định, từ tháng 5/1859 đến cuối năm 1860, phần lớn đại quân của
Pháp ở Gia Định bị điều ra Đà Nẵng và sau đó lại điều sang mặt trận Hoa Bắc (Trung
Quốc). Chúng chỉ để lại 1.000 tên, rải trên một chiến tuyến 10km, đối diện với đại
quân của Nguyễn Tri Phương, Tơn Thất Cáp. Trong khi đó, nước Pháp đang vướng
vào cuộc chiến ở châu Âu và Syria, không thể tăng viện cho quân Pháp ở Việt Nam.
Đây là cơ hội rất tốt để quân triều đình hất quân Pháp ra khỏi Gia Định. Tuy nhiên,
quân ta vẫn nằm im trong phịng tuyến Chí Hịa mới xây dựng, trong tư thế “thủ
hiểm”.
Sang năm 1861, sau khi đã liên minh cùng với các nước tư bản Âu – Mỹ dùng
vũ lực buộc phong kiến triều đình Mãn Thanh phải ký điều ước Bắc Kinh
(25/10/1860), thực dân Pháp đem toàn bộ hải quân ở Viễn Đông về Gia Định để xâm
chiếm Nam Kỳ. Tháng 2/1861, Đô đốc Charner (Sác-ne) được Chính phủ Pháp giao
tồn quyền tun chiến và ký hịa ước với Việt Nam đã đến Nam Kỳ với 4.000 quân
và 70 tàu chiến tăng viện. Như vậy, sang đầu năm 1861, quân Pháp có những điều
kiện thuận lợi hơn trước rất nhiều.
Bốn giờ sáng ngày 24/2/1861, Charner cho quân đánh thẳng vào Đại Đồn
(phịng tuyến Chí Hịa). Cuộc chiến diễn ra ác liệt. Sau 2 ngày chiến đấu, quân địch
bị diệt 300 tên (có 1 đại tá), nhưng quân đội triều đình cũng chịu tổn thất lớn: Đại
đồn bị san phẳng, trên 1.000 binh sĩ tử trận trong đó có Nguyễn Tri Phương cũng bị
mảnh pháo vào bụng, ngồi ra quân ta bị mất 150 đại bác, 2.000 súng tay. Mất Đại
đồn, Nguyễn Tri Phương cho quân chạy về đồn Thuận Kiều để cố thủ. Thừa thắng,
ngày 28/2, Pháp tấn công chiếm luôn đồn Thuận Kiều, quan quân phải lui về Biên
Hòa. Quân Pháp lấn tới, mở cuộc hành binh đẫm máu dọc sông Bảo Định, lần lượt
chiếm được Định Tường (12/4/1861), Biên Hòa (16/12/1861) và đến ngày 23/3/1862,
chiếm được Vĩnh Long. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr. 213)
Trước sức tấn công ồ ạt của thực dân Pháp, nội bộ triều đình nhà Nguyễn
phân hóa thành hai phái: phái chủ chiến và phái chủ hòa. Phái chủ chiến muốn dựa
vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi bọn cướp nước mà họ gọi là bạch quỷ hay
dương quỷ (quỷ biển). Tiêu biểu cho phái này có phái “cơng thủ” gồm Tô Linh, Phan
Hữu Nghi, Trần Văn Vi, Lê Hiến Hữu, Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn chủ trương

“phải giữ và đánh, thủ để công và công để thủ, rồi quét sạch địch. Phái chủ hòa với
các lập luận khác thường như “chiến khơng bằng hịa”, “thủ để hịa”, “chống giặc
duy thủ là hơn”. Trong lúc giặc Pháp đang tấn công ồ ạt thì trong triều đình Nguyễn
cịn đang bàn cãi, nghị luận kẻ hịa, người đánh, trên dưới khơng nhất trí, đánh hịa
khơng dứt khốt. Tập trung lại, ý kiến được nhiều người tán thành là chủ hòa.

15


1.2.2.2. Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862)
Giữa năm 1862, Đô đốc Bonard (Bơ-na) mới sang thay Charner, thay mặt
chính phủ Pháp, tuyên bố lập ra chế độ Soái phủ ở Nam Kỳ, đánh dấu bước mở đầu
chế độ thuộc địa ở đây.
Chiếm được 3 tỉnh quan trọng của miền Đông Nam Kỳ, tướng Bonard có ý
tạm dừng lại để củng cố vị trí. Bởi lẽ, sức kháng cự của dân chúng ngày một dữ dội.
Về mặt chính trị, nước Pháp cũng đang sa lầy thêm ở Mexico, chính giới cũng chưa
thực sự thống nhất về thái độ với Nam Kỳ. Trong điều kiện cụ thể như vậy, Bonard
mong sớm ký kết được với triều Nguyễn để vừa giữ được các vùng đất đã chiếm
đóng, vừa có thời gian chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng khi có điều kiện.
Về phía triều Nguyễn, ngun nhân chính khiến triều đình Tự Đức phải ký
kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng
kể nhất là của Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nơng Hùng Thạc),... trong Nam
Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là Gia Định, Định Tường, Biên
Hòa và Vĩnh Long.
Sau khi so sánh hai mối nguy (thực dân Pháp xâm lược và các cuộc nổi dậy ở
Bắc Kỳ), triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài
Gòn giảng hịa với thực dân, để có thể đưa đại qn ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở
đất Bắc đang uy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn.
Lợi dụng triều Nguyễn đang muốn “nghị hịa”, Bonard khơn ngoan chớp lấy
cơ hội “nghị hòa”. Các bên ký kết gồm: đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và

đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos Palanca Guttiere cùng với các đại diện
của triều đình là Phan Thanh Giản (Chánh sứ) và Lâm Duy Hiệp (Phó sứ) ký Hiệp
ước Nhâm Tuất ngày 5/6/1862. Hiệp ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản
có tính cách ngoại giao, thì 9 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:
Khoản 1: Từ nay về sau, hịa bình sẽ mãi mãi được thiết lập giữa một bên là
Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha và một bên là Hồng đế Đại Nam. Tình
hữu nghị tồn diện và lâu bền cũng sẽ được thiết lập giữa thần dân ba nước dù họ ở
bất cứ nơi đâu.
Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở
nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn theo đạo Gia Tô, đều sẽ
được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tơ thì khơng được ép
họ theo.
Khoản 3: Chủ quyền trọn ba tỉnh là Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định
Tường, cũng như đảo Côn Lôn, do Hiệp ước này, được hoàn toàn nhượng cho Hoàng
đế nước Pháp. Ngoài ra, các thương gia Pháp được tự do buôn bán và đi lại bằng bất
cứ tàu bè nào trên sông lớn của xứ Cambodia và trên tất cả các chi lưu của con sông
này (sông Mekong); các tàu binh Pháp được phép đi xem xét trên con sông này hay
trên các chi lưu của nó cũng được tự do như vậy.
16


Khoản 4: Sau khi đã nghị hịa, nếu có nước ngoài nào muốn, bằng cách gây
sự hoặc bằng một hiệp ước giành lấy một phần lãnh thổ của nước Đại Nam, thì
Hồng đế nước Đại Nam sẽ báo cho Hồng đế nước Pháp biết bằng một sứ thần,.. để
Hoàng đế nước Pháp được hoàn toàn tự do đến tiếp cứu nước Đại Nam hay không.
Nhưng, nếu trong hiệp ước với nước ngồi nói trên, có vấn đề nhượng địa, thì sự
nhượng địa này có thể được thừa nhận nếu có sự ưng thuận của Hoàng đế nước Pháp.
Khoản 5: Người các nước Pháp và Tây Ban Nha được tự do buôn bán tại ba
hải cảng là Tourane (Đà Nẵng), Ba La (Ba Lạt) và Quảng Yên. Người nước Đại Nam
cũng được tự do buôn bán tại các hải cảng của nước Pháp và Tây Ban Nha như vậy,

nhưng phải theo thể thức luật định...
Khoản 8: Hoàng đế nước Đại Nam sẽ phải bồi thường một số tiền là bốn
triệu piastre (đơn vị tiền tệ Ai Cập), trả trong 10 năm. Vì nước Đại Nam khơng có
tiền piastre sẽ được tính bằng 72% lạng bạc.
Khoản 9: Nếu có cướp bóc, giặc biển hoặc kẻ gây rối người nước Nam nào,
phạm tội cướp bóc hoặc gây rối trên các đất thuộc Pháp, hoặc nếu có người Âu châu
phạm tội nào đó, lẩn trốn trên đất thuộc nước Nam thì ngay khi nhà nước Pháp thông
tri cho nhà chức trách Đại Nam, giới chức này phải cố gắng bắt giữ thủ phạm để giao
nộp cho nhà chức trách Pháp. Vấn đề cướp bóc, giặc biển hay quân phiến động nước
Nam sau khi phạm tội, lẩn trốn trên đất thuộc Pháp, cũng sẽ được xử như vậy.
Khoản 10: Dân chúng ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên sẽ được tự
do buôn bán trong ba tỉnh thuộc Pháp miễn tuân theo luật lệ hiện hành, nhưng những
đồn tàu chở binh lính, vũ khí, đạn dược hay lương thực giữa ba tỉnh nói trên và Nam
Kỳ chỉ được thực hiện bằng đường biển. Tuy nhiên, Hoàng đế nước Pháp thuận cho
các đoàn tàu chở các thứ trên vào Cambodia được có cửa khẩu là lạch Mỹ Tho (Định
Tường), gọi là Cửa Tiền, song với điều kiện là các giới chức Đại Nam phải báo trước
cho đại diện của Hoàng đế nước Pháp, vị đại diện này sẽ trao cho họ một giấy thông
hành. Nếu thể thức này không được tuân theo, và một đồn vận tải như vậy nhập nội
mà khơng có giấy phép thì đồn đó và những gì hợp thành đồn đó sẽ bị bắt giữ và
các đồ vật sẽ bị phá hủy.
Khoản 11: Thành Vĩnh Long sẽ được binh lính (Pháp) canh gác cho đến khi
có lệnh mới mà khơng ngăn cản bằng bất cứ cách nào hoạt động của các quan Đại
Nam. Thành này sẽ được trao trả cho Hồng đế nước Đại Nam ngay khi Ngài đình
chỉ cuộc chiến loạn do lệnh Ngài tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, và khi những
người cầm đầu cuộc phiến loạn này ra đi và xứ sở được yên tĩnh và quy phục như
trong một xứ bình yên.
(Nguyễn Duy Oanh, 1995, tr.281-285)
Trong 9 khoản trên của Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), có những điểm cần
lưu ý như sau:


17


Vua Việt Nam phải bỏ lệnh cấm đạo trên toàn lãnh thổ. Ai muốn theo đạo
cũng cho, ai không muốn theo cũng không bắt buộc (khoản 2). Ba tỉnh Biên Hịa, Gia
Định, Định Tường và đảo Cơn Lơn giao nước Pháp quản hạt. Thuyền buôn của Pháp
chạy trên biển, trên sông, lên Cao Miên buôn bán đều được tự do (khoản 3). Triều
đình Huế phải mở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt (giữa Thái Bình và Nam Định),
Quảng Yên (Quảng Ninh) cho tàu Pháp và Tây Ban Nha sang bn bán (khoản 5).
Triều đình phải bồi thường chiến phí cho Pháp và Tây Ban Nha 4 triệu piastre
(đơn vị tiền tệ Ai Cập) trả trong 10 năm, mỗi năm 40 vạn, nộp cho Pháp tại Sài Gịn.
Vì Việt Nam không dùng piastre nên quy định 1 piastre là bằng 0,72 lạng bạc (khoản
8). Nước Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, một khi triều đình Huế
chấm dứt được các cuộc khởi nghĩa và gọi các quan chức chống Pháp đang hoạt động
trong hai tỉnh Định Tường và Gia Định về (khoản 11). (Nguyễn Đình Tư, 2016, tr.
70-71)
Việc ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất của triều Nguyễn với thực dân Pháp thể
hiện sự đớn hèn và sợ giặc của triều Nguyễn. Thực sự đây là sự đầu hàng bước đầu
của triều đình Nguyễn trước thực dân Pháp xâm lược.
1.2.2.3. Chính sách của triều Nguyễn sau Hiệp ước Nhâm Tuất
(5/6/1862) đến năm 1867
Sau khi ký Hiệp ước Nhâm Tuất, tháng 12/1862, triều đình đã y hẹn trả năm
đầu chiến phí. Đồng thời, lại gửi thư vào Sài Gòn đề nghị Pháp cho chuộc lại ba tỉnh
mới mất, nhưng thực dân Pháp ở Sài Gòn cự tuyệt.
Tháng 6/1863, triều Nguyễn cử phái bộ do Phan Thanh Giản dẫn đầu sang
Pháp với nhiệm vụ xin sửa lại Hòa ước 1862 và chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ. Cuộc điều đình thất bại, Hịa ước Nhâm Tuất vẫn phải thi hành và việc xin chuộc
lại ba tỉnh không thành.
Thất bại thảm hại trong đường lối ngoại giao, triều Nguyễn vẫn chưa tỉnh
thức. Triều Nguyễn tuyệt nhiên không thấy biện pháp tích cực nhất và duy nhất lúc

bấy giờ để thu hồi đất đai đã mất là phải lo chỉnh đốn nội trị, bồi dưỡng sức dân, phát
động chiến tranh yêu nước. Trái lại, triều Nguyễn chỉ lo dồn mọi lực lượng vào việc
đàn áp phong trào nông dân khởi nghĩa ở miền Bắc, miền Trung và tìm cách ngăn trở
phong trào chống Pháp của nhân dân miền Nam và loay hoay chuộc lại ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ đã mất. Trong khi đó thực dân Pháp đang ráo riết chuẩn bị thơn tính
ln ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
1.2.2.4. Thực dân Pháp thơn tính 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867)
Để dọn đường cho việc đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, năm 1863, thực
dân Pháp chiếm đóng kinh thành Nam Vang (Cambodia), sau đó buộc vua Norodom
nhận quyền bảo hộ của chúng. Như vậy, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và nước Cao
Miên đã lọt vào tay thực dân Pháp, số phận ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ có thể xem là
đã được định đoạt.
18


Năm 1866, trong khi Đoàn Trưng, Đoàn Trực nổi dậy ở kinh thành Huế và vụ
Tạ Văn Phụng ở Bắc Kỳ, thì Bộ trưởng Hải qn Pháp Chasseloup Laubat (Lơ-ba) đã
nhận thêm sự ủng hộ của chính giới Pháp với vấn đề Nam Kỳ.
Sau khi chuẩn bị xong về mọi mặt, sáng ngày 20/6/1867, quân Pháp kéo tới
thành Vĩnh Long. Kinh lược sứ miền Tây, Phan Thanh Giản và Trấn thủ Vĩnh Long,
Trương Văn Uyển xuống tàu địch để thương lượng. Nhưng Pháp buộc hai ông phải
nộp thành không điều kiện. Theo ý Pháp, Phan Thanh Giản còn viết thư cho quan
quân hai tỉnh An Giang, Hà Tiên phải nộp thành cho Pháp. Do đó, sau khi lấy xong
thành Vĩnh Long, Pháp chia quân chiếm tỉnh lị An Giang là Châu Đốc (21/6), rồi
chiếm luôn Hà Tiên (24/6/ 1867) không tốn một viên đạn.
Sau khi ba tỉnh miền Tây mất vào tay Pháp, Phan Thanh Giản, năm đó 74
tuổi, đã trải qua 3 triều vua, ngay sau sự biến, gom hết tiền, thóc của 3 tỉnh Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên (khoảng 100 vạn đồng) trao lại cho người Pháp, rồi bắt đầu
tuyệt thực và sau đó uống thuốc độc tự tử.
Tự Đức cũng thẳng tay cách chức Phan Thanh Giản, đục tên ông trong bia

tiến sĩ, ghi tội “trảm giam hậu” vĩnh viễn.
Ngày 15/10/1867, triều Nguyễn cử Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường
vào Nam Kỳ để ký với Pháp một bản dự thảo gồm 14 điều khoản. Hiệp ước này chứa
đựng thêm những điều khoản nặng nề tai hại cho vận mệnh đất nước: triều đình phải
chấp nhận việc nhượng 6 tỉnh cho Pháp cùng với chủ quyền các đảo Côn Lôn và Phú
Quốc. Người Pháp sống ở 6 tỉnh đó được quyền tự do đi lại bn bán ở các hải cảng
Việt Nam. Người Pháp được tự do truyền đạo, … Pháp và Việt Nam sẽ trao đổi đoàn
ngoại giao, … Tuy vậy, bản hiệp ước này chưa chính thức vì thiếu sự ủy quyền của
Chính phủ Pháp. (Nguyễn Quang Ngọc, 2012, tr.213, 215)
1.2.2.5. Phong trào chống Pháp của văn thân, sĩ phu yêu nước và
nhân dân Nam Kỳ từ năm 1859 đến năm 1885
*Phong trào chống Pháp từ năm 1859 đến năm 1867
Trên mặt trận Gia Định đầu năm 1859, các đội nghĩa binh của Trần Thiện
Chính, Lê Huy cùng với đội quân 2.000 người của Dương Bình Tâm đã thắng lớn
trong trận đánh ngày 4/7/1860 ở Chợ Rẫy, giết chết tên quan ba Bác-bê, đốt cháy tàu
chiến địch trên sông Đồng Nai vào đầu năm 1861, …
Sau khi chiếm được Gia Định (2/1861), thực dân Pháp càng đi sâu vào nội
địa, chúng càng phải trả giá đắt. Dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước
và nhân dân Nam Kỳ. Tiêu biểu có những cuộc nổi dậy sau đây:
Các cuộc nổi dậy của Trương Định, Đỗ Trình Thoại, Nguyễn Thơng, Phan
Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Trà Quý Bình, Trịnh Quang Nghị, Lưu Tấn Thiện, Lê
Cao Dõng, Nguyễn Thành Ý ở Gị Cơng, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An từ năm 1859
đến năm 1864.
19


×