Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Luận văn " quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.63 KB, 26 trang )

""

Luận văn
Đề tài " quan hệ phân phối ở việt nam hiện

nay"


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào thì cũng cần có sự phối
hợp giữa các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối ln thể
hiện một vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt
hay không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân
dân.
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền
kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền
sản xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch
vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra
thông suốt.
Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc
lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao
động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng
như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế - xã hội ở nước tađang địi
hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc cơng phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ
phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .
Kết cấu đề tài này gồm hai chương
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở
NỨOC TA HIỆN NAY
CHƯƠNG2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NỨOC TA VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NỨOC TA
HIỆN NAY


Em xin chân thành cảm ơn thâỳ Trần Việt Tiến đã tận tình hướng dẫn,tạo điều
kiện, giúp đỡ cho em hoàn thành đề tài này .


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1/TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VAI TRÒ PHÂN PHỐỈ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Trong nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ vi trí hết sức quan trọng .Trong
q trình tái sản xuất thi phân phối làm khâu trung gian nối liền giũa sản xuất với sản
xuất, sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng.
Nhưng sản xuất lại đóng vai trị quyết định đối với phân phối ,sản xất tao ra đối
tượng và vật liệu cho phân phối ,quyết định quy mô và cơ cấu của cải để phân phối .
Phân phối không thể vượt qúa khả năng cho phép của sản xuất,thu nhập thực
tế chỉ có thể tăng lên theo đà phát triển của sản xuất nhưng tốc độ tăng của thu nhập
thực tế phải chậm hơn tốc độ tăng lên của sản xuất ,có như thế mới đảm bảo tái sản
xuất mở rộng . Hiện nay nứoc ta đang thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế
độ làm chủc tập thể của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực trong đó làm chủ
tập thể về kinh tế là cơ sở. Trong chế độ làm chủ tập thể về kinh tế thì làm chủ về tư
liệu sản xuất là cơ sở ,điều kiên để đảm bảo làm chủtập thể về phân phối. Một khi tư
liệu sản xuất la thuộc sở hữu chung của nhân dân lao động thì của cải làm ra cũng
thuộc sở hữu chung của họ và việc phân phối của cải làm ra chỉ có thể nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động .Trong điều kiện của nước ta hiện nay
nền kinh tế vẫn cịn ở tình trạng lạc hậu , nghèo nàn chưa đủ sản phẩm để phân phối
theo nhu cầu .Vì thế việc thực hiện phân phối theo thu nhập trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là mộ vấn đề vô cùng quan trọng đẻ tạo ra đọng lực mạnh mẽ góp
phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế -xã hội nâng cao

đời sống nhân dân thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng ,dân chủ
,văn minh .
1.2.BẢN CHẤT VÀ VỊ TRÍ CỦA PHÂN PHỐI.

Q trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu:sản xuất, phân phối ,trao đổi, tiêu
dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó sản xuất là khâu cơ bản


đóng vai trị quyết định;các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất,nhưng chúng có quan
hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau chính vi có quá trinh phân
phối này mới có sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùngvà từ đó thúc đẩy sản
xuất phát triển ,tăng quy mơ tiêu dùng .
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết
định. Khi ta xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất
quyết định. Quan hệ trong sản xuất như thế nào thì quan hệ trong phân phối như thế
ấy. Xã hội luôn tồn tại mối quan hệ sản xuất và sản phẩm. Bản thân phân phối là sản
phẩm của sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức. Phân phối khơng phải
là một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Bản chất của quan hệ phân phối
hoàn toàn do quan hệ sản xuất quyết định.
Mặt khác ta thấy rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực
của sản xuất và trao đổi mà nó cịn tác động mạnh mẽ ngược trở lại trao đổi và sản
xuất. Phân phối có tính độc lập tương đối của nó,nó có chức năng cụ thể ,có những
quy luật đặc thù tác động tích cực đến cáckhâu của q trình tái sản xuất. Trước khi
phân phối sản phẩm thì nó là: phân phối những cơng cụ sản xuất và điều này là một
tính qui định nữa cũng của một mối quan hệ ấy - phân phối các thành viên xã hội theo
những loại sản xuất khác nhau. Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự
phân phối đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và
quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất một cách độc lập với sự phân
phối đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất, thì rõ ràng là một sự trừu tượng trống
rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã bao hàm trong sự phân phối này là sự

phân phối ngay từ đầu đã là một yếu tố của sản xuất.
Cơ sở kinh tế của sự phân phối bao gồm cả sự phân phối cho sản xuất và phân
phối cho tiêu dùng do đó tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cho
sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội .
Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả sự phân phối cho sản xuất xem là yếu tố
của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của q trình sản xuất,cho
nên khơng phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá
nhân mà cần trích ra để bù đắp những tư liệu sản xuất hao phí, mở rộng sản xuất lập
quỹ dự phịng, chi phí về quản lý hành chính tổ chức... Phần cịn lại phù hợp với số


lượng và chất lượng lao động. Như vậy,phân phối là tổng sản phẩm xã hội và phân
phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân.


1.3/ CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định và Đại hội
Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là
nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước ,tương ứng với nó là nhiều
hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
là chủ yếu , đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn lực khác vào kết quả
sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Trong nền kinh tế này xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế khác nhau với các hình
thức sở hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức phân phối
khác nhau.Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất –kinh doanh khác nhau
nên kết quả kinh doanh khác nhau do đó cần các hình thức phân phối khác nhau
Vì vậy ở nước ta hiện nay khơng thể tồn tại một hình thức phân phối duy
nhất


1.3.1/ Phân phối theo lao động
Trong thời kỳ quá độ hiện nay ,hình thức phân phối theo lao động là hình thức
phân phối căn bản , là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất với các thành
phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước)hoặc các
hợp tác xã cổ phần mà góp vốn của các thànhviên bằng nhau (kinh tế hơp tác )
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối
chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu
về tư liệu sản xuất. Do đó dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà
chế độ người bóc lột người bị xố bỏ.Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất
nên tất yếu cũng làm chủ phân phối theo thu nhập . Lao động đang trở thành cơ sở
quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì vậy mà phân phối theo
lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở
nước ta.
Trước đây nước ta đã thực hiện sự phân phối bình quân là phân phối cho mỗi
người một lượng sản phẩm như nhau, khơng phân biệt mức đóng góp của từng
người vào sản xuất xã hội. Phân phối bình quân đã gây ra sự bất hợp lý và tiêu
cực trong xã hội.

1.3.2/Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác


Bên cạnh việc thực hiện phân phối theo lao động thì nước ta cịn sử dụng
hình thức phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước
ta trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội . Với cơ cấu nhiều thành phần
,nên tất yếu co nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều
hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau.
Một đặc điểm rõ nét của nước ta trong quá độ định hướng lên CNXH từ một
nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn phân tán vốn. Q trình sản xuất, tích tụ và
tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn vốn sản xuất hiện nay còn nằm
rải rác ,phân tán trong tay người tư hữu nhỏ ,tư sản nhỏ ,trong đó có cả dưới dang jtư

liệu sản xuất , vàng bạc ngoại hối và tiền mặt vv…. Để sử dụng nguồn vốn đó cho
sản xuất thì khơng thể sử dụng cá chính sách ắp đặt như trưng thu, trưng mua hoặc
đóng góp cổ phần một cách bình qn. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban
chấp hành trung ương (khố VI) thì ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động
vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không hạn chế,
với mức lãi suất hợp lý. Cách làm như vậy có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào
chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một
nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Như vậy mặc dù sở hữu vốn là tư nhân,
nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội. Xét tình hình đất nước ta thì cần phải
tạo điều kiện pháp lý cho các thành phần kinh tế tư nhân cá thể và tất cả mọi thành
viên trong xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh
đó thực hiện phân phối kết quả sản xuất kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi
cá nhân đóng góp vào q trình sản xuất xã hội dươí hình thức “lợi tức”và “lợi
nhuận” và được coi là hình thức phân phối hợp pháp và được sự bảo hộ của pháp
luật. Do sự liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất
kinh doanh nên đã xuất hiện các công ty liên doanh, các xí nghiệp cổ phần. Ở các loại
xí nghiệp này, việc phân phối dựa trên cơ sở vốn cổ phần, dưới hình thức lợi tức cổ
phần. Phân phối thu nhập dưới hình thức lợi tức tiền gửi của các cá nhân hoặc tập thể
vào ngân hàng.

1.3.3/ Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách
quan trong quá độ hiện nay ở nước ta , vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục


đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành
viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay , nhưng ngồi
những người khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao động, được trả cơng theo
lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa trình sản xuất để được nhận lợi
tức và lợi nhuận, thì trong xã hội cịn có những người vì lẽ này hay lẽ khác, khơng thể

tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đơng người này được
gia đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà
nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa
vào tiền công cá nhân. Bởi mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo
được mức sống. Họ phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước,
của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Vì vậy mà ngồi việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì
trong xã hội cịn tồn tại hình thức phân phối ngồi thù lao lao động, thơng qua quĩ
phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là phân
phối là phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ q độ mà
thơi. Đây là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với ngun tắc
phân phối theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng
của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao động tính theo đầu
người tương đối thấp. Nó khơng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên trong xã
hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà cịn có tác dụng kích thích lao động
sản xuất, kích thích sự phát triển tồn diện của mọi thành viên trong xã hội. Đây là
hình thức phân phối của thời kỳ quá độ, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một
đất nước.
Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở
nước ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trị chủ đạo.Phân phối
ngồi thù lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong
quá trình phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp
khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật.
1.4 / KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI

1.4.1/Thái lan


Thái lan vẫn được coi là ít có sự can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh
tếhơn cả . Thái lan đã thành công trong việc phát triển kinh tế .Tốc độ tăng trưởng

nhanh , tỷ lệ sinh đẻ hạ từ 3,3 trong ba thập kỷ đầu xuống còn 2,2 hiện nay đã làm thu
nhập đầu người tăng một cách ổn định . Tuy nhiên sự nghèo khổ ở đây vẫn thể hiện
rõ nét , có sự bất cơng bằng lớn giữa nông thôn và thành thị , giữa các khu vực ,
chênh lệch về thu nhập ngày càng gia tăng .
Tuy nhiên Thái lan cung đạt được nhièu thành tựu trong việc cung cấp các
dịch vụ cơ bản dưới nhiều hình thức phong phú như phúc lợi bằng tiền mặt , bằng
hiện vật , phúc lợi trẻ em và thanh niên ,trợ giúp việc làm phúc lợi cho người có tuổi
……
Tóm lại các chiến lược cơng nghiệp hố thay thế nhập khẩu ở các nước ASEAN
đã thất bại chủ yếu do phân phối thu nhập khơng đều.Chính vì việc phân phói
khơng đều đã bó hẹp thị trường nội địa không chỉ do đông đảo quần chúng nghèo
khổ mà cịn do những ngưịi có thu nhập cao thường mua hàng ngoại , hoặc tiêu
dùng những sản phẩm đơn lẻ.Qua đó đã chứng minh rằng ,giữa tăng trưởng kinh tế
và phân phối thu nhập có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
.Tăng trưởng kinh tế khơng chỉ dẫn đến sự giàu có chung của đất nước , mà còn tạo
điều kiện thuận lơi để giúpcácnhóm có thu nhập thực hiễn xố đói giảm ngheo mặt
khác khơng thể có tăng trưởng kinh tế kéo dài nếu không áp dụng các chinh sách
phân phối thu nhập công bằng hơn
Thành công của các nước này thường đi kèm với sự gia tăng vững chắc của
tiền lương thực tế năng xuất và sự tham gia vào các hoạt kinh tế của đại đa số dân
chúng.Một bài học chung rút ra từ thực tế các nước ASEAN là thành công trong phát
triển phụ thuộc vào sự can thiệp một cách có hiệu quả của nhà nước vào đời sống
thực tế và lợi ích của đại bộ phận nhân dân.
+Phát triển ,hoàn thiện lực lượng sản xuất ngày một tốt hơn trong thời gian tới
về mọi mặt .
+Hồn thiện chính sách tiền lương,bình quân chống chủ nghĩa bình quân và
thu nhập bất chính.Trong vấn đề này,vai trị của chính phủ là phải gắn vhặt tiền
công,tiền lương với người lao động nhằm tường bước thực hiện hpân phối công bằng



hợp lí.Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính,chúng ta phải từng bước tiền tệ hoá
tiền lương,xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối
+Điều tiết thu nhập dân cư giữa các khu vực khác nhau.Trong hoàn cảnh kinh
tế như hiện nay chúng ta phải thừa nhận sự chênh lệch thu nhập giữa các tổ chức với
nhau.Tuy vậy vai trò của nhà nước là phải làm giảm đi phần nào sự chênh lệch
đó.Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan ở bất kì chế độ nào nhằm duy trì và
ổn định xã hội.Điều tiết thu nhập thơng qua các hình thức như:thuế thu nhập,tự
nguyện đóng góp vào các quỹ phú lợi xã hội

1.4.2/ Inđônêxia
Ở Inđônêxia các vấn đề được quan tâmchủ yếu là giáo dục và tạo việc làm.Từ
những năm 60 chính phủ ở đây đã tiến hành các chính sách nhằm tăng cường việc
làm ở khu vực nơng thơn với một phần kinh phí do nhà nước cấp,phần cịn lại do các
chương trình viện trợ.Nhờ chương trình này mà giai đoạn từ1976 đến 1987 số dân
sống dưới mức nghèo khổ đã giảm từ 54.000.000 xuống cịn 30.000.000.tỉ lệ nghèo
khổ ở nơng thơn giảm nhanh hơn so với ở thành thị.Tại quốc gia này các tổ chức phi
chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp cận,giúp đỡ tầng lớp nghèo khổ dưới các
hình thức như:tư vấn,giúp đỡ sản xuất, huấn luyện nghiên cứu …Hoạt động của các
tổ chức này đã ghóp phần giảm bớt gành nặng cho chình phủ Indonexia do có một số
nơi mà hệ thồng quản lí của chính phủ cũng khơng thể với tới được.Với tư cách là
người trung gian họ chuyển những nguyện của người nghèo đến với chính phủ sở tại.

1.4.3/ Malayxia
Ở Malayxia trong những thập niên 60 – 70 sự phát triển kinh tế kèm theo sự gia
tăng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập những nhà tư sản người hoa và các quan
chức hành chính, chính trị người Malay là những người được hưởng thụ phần lớn kết
quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của những năm 60 . Hậu quả là các quan hệ xã
hội trở nên hét sức căng thẳngcác vụ bạo động lật đổ đã nổ ra vào cuối những năm
đó. Khi những người được gọi là TURKS trẻ nên nắm chính quyền đã đưa ra chính
sách kinh tế mới, tạo điều kiện về mặt kinh tế xã hội nhằm đạt được sự đồn kết dân

tộc trên cơ sở chính sách tái phân phối thu nhập cơng bằng hơnnhờ đó mà tỷ lệ người
nghèo ở Malayxia đã giảm từ 49,3 % xuống còn 17,3 %. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ


nghèo ở Malayxia chủ yếu là kết quả của mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong
nhiều năm chứ không phải do thu nhập nhiều hơn. Ở Malayxia chi phí từ ngân sách
cho các hoạt động xã hội tăng liên tục từ 18 % trong suốt thời kỳ 1970 đến 37 %
trong thời kỳ 1988. Trong các dịch vụ xã hội thì giáo dục được dành vị trí ưu tiên
hàng đầu, tiếp theo là nhà ở, y tế và các dịch vụ chung. Nhờ nỗ nực của chính phủ và
sự phát triển kinh tế chủa xã hội nói chung tỷ lệ học sinh sơ cấp tăng từ 88 % lên 96,4
%. Các chỉ số về y tế như tỷ lệ sinh tỷ lệ chết tuổi thọ trung bình đều có những tiến bộ
đáng kể. Tuy nhiên , việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của những người nghèo
vẫn còn là vấn đề cần quan tâm.

1.4.4/ Philippin
Khi nghiên cứu tình trạng nghèo khổ ở Philippin các nhà kinh tế đã chỉ ra một số
nguyên nhân sau:
+.Nguồn cung cấp lao động tăng nhanh dẫn tới thất nghiệp và lương thấp.
+.Mơ hình đầu tư cơng nghiệp với cường độ vốn tăng nhanh đã làm giảm khả năng
thu hút lao động
+.Sự thiếu hụt về việc làm đã dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực nông thôn không
chuyển được sang các nghành thứ yếu khác.
+.Sự phân phối đất đai khá chênh lệch.
+.Những sai lầm trong chiến lược cơng nghiệp hố như:bảo hộ quá mức,tập trung quá
nhiều nguồn lực vào trong thành phố...
Trên đây là một số vấn đề mà Philippin gặp trong việc phân phối .Thậm chí trong
chiến lược cơng nghiệp hoá hiện đại hoá Philippin cũng tập trung quá nhiều vào
thành thị,chính sách phân phối có lợi cho người có thu nhập cao.Hệ thống thuế chủ
yếu dựa vào thuế gián thu.Các gia đình có thu nhập cao chỉ phải đóng 12%,trong đó
các gia đình có thu nhập thấp lại phải đóng tới 20%.Chương trình giảm nghèo khổ có

mục đích chính là thực hiện một sự phân phối công bằng hơn trên cơ sở phân phối
một cách hợp lí hơn.

1.4.5/ Singapore
Là một đất nước giầu có và có thu nhập cao sự tăng trưởng kinh tế cao và liên
tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn tỷ lệ
nghèo tuyệt dối giảm từ19 % xuống còn chỉ 13 %. Trong những năm gần đây, chính


phủ Singapore đã có những cố gắng đáng khể để tăng kỹ năng và chất lượng của
toàn bộ lực lượng lao động. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh từ đầu năm 80 trở đi,
chủ yếu là tập chung vào các lĩnh vực đào tạo chuyên ngành.
Ở Singapơre có sự can thiệp của nhà nước về thị trường lao động và giáo dục
có tác dụng tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các biện
pháp trên tuy không trực tiếp loại bỏ mức thu nhập thấp và những bất bình đẳng về
của cải. Nhưng nó đã giúp cho mọi cá nhân có cơ hội công suất phản kháng được
việc làm tốt với mức thu nhập xứng đáng.
1.5. Vai trị của chính phủ
Đứng trước xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, bằng những gì đã
thu nhập được qua kinh nghiệm của một số nước. Đảng và Nhà nước ta đã có những
chủ trương cụ thể nhằm hồn thiện mơ hình phân phối, tiến tới kiện tồn nền kinh tế,
hồn thiện cơng bằng dân chủ văn minh. Trước mục tiêu đó chúng ta cần giải quyết
những vấn đề sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất bởi như một số nhà kinh tế
nói: Phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối. Một
lực lượng sản xuất được đào tạo một cách bài bản có chun mơn sẽ là tiền đề phát
triển nền kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục hồn thiện chính sách tiền cơng, tiền lương, chống chủ nghĩa
bình quân thu nhập gây ra tình trạng bất hợp lý. Nhằm hồn thành mục tiêu này
chúng ta phải gắn tiền công, tiền lương với năng suất chất lượng và hiệu quả lao

động. Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, xố bỏ những đặc quyền đặc lợi
trong phân phối.
Thứ ba, điều tiết thu nhập dân cư hạn chế sự chênh lệch về mức thu nhập.
Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói
chung và của nước ta nói riêng nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để
khơng dẫn tới sự phân hố xã hội, hình thành hai cực đối lập. Cơng cụ điều tiết thu
nhập có thể là hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ
phúc lợi xã hội từ thiện…
Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập
thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi


ro, bổ sung thu nhập mang tính bình qn trong các tổ chức doanh nghiệp vào các dịp
lễ tết…
Thứ tư, khuyến khích làm giàu đi đơi với xố đói giảm nghèo, mục tiêu đầu
tiên của chúng ta là khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu
tư mở mang ngành nghề phát triển sản xuất, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Phân bố lại dân cư trên địa bàn cả nước mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất
khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người tự tạo tự kiếm việc làm.


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUANHỆ PHÂN
PHỐI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1 THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung , quan liêu ,bao cấp
sang nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đa hình thức sở hữu
đang nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Để đánh giá được thực

trạng phân phối ở nước ta hiện nay thì ta xem xét 3 nguyên tắc phân phối cơ bản
:phân phoi theo lao động , phân phối theo tài sản vốn hay những đóng góp khác ,phân
phối ngồi thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội .Tương ứng với
nguyên tắc phân phối theo lao động co hình thức tiềnlương và tiền thưởng . Trong đó,
chính sách tiền lương và tiền công lao động là đặc biệt quan trọng vì nó thể hiện quan
điểm của Đảng và Nhà nước trong sự hình thành và phân phối thu nhập trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta.

2.1.1 /Thực trạng về chính sách tiền lương
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là quá
trình chúng ta dần thừa nhận sức lao động là hàng hoá. Một khi sức lao động trở
thành hàng hố, thì người có sức lao động hồn tồn có quyền tự do bán sức lao động
của mình theo những hợp đồng lao động nhất định và khi đó các chủ doanh nghiệp sử
dụng sức lao động phải trả công cho họ theo đúng những cam kết trong hợp đồng đã
ký. Sau quá trình làm cho các chủ doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế quốc doanh,
người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về
nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động
mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói
cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động.
Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ
bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh để
đi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất lượng
lao động mà họ đã hao phí trong q trình sản xuất kinh doanh.


Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiền
lương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thang
lương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt động
của đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từng
ngành và theo từng khu vực có tính đến trình độ chun mơn và điều kiện lao động

có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những người lao động quan tâm hơn
nữa tới việc hoàn thành các cơng việc được giao. Khi đó họ hồn tồn phấn khởi vì
đã hiểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và tiếp đến là làm việc cho xã
hội.
Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định
235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh tiền
lương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định mức lao
động ,định mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương cụ thể chocác
đơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế mới ,trong đó
tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ cịn là thơng số để tính tốn
,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa .
Trong q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của nhà
nứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các
đơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiết
tiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh
,vv…
Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn
,sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế diễn ra
tình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá .
Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư nói
chung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội.Cụ thể
là :
* Ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che
chắn kiểm sốt liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối thiểu
vidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung .


* Ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và những
sơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng thu nhập
cho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao

* Ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định
235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời
sống đủ loại để tăng thu nhập .Toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch
về thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng lao động
của họtạo ra .
* Ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là
22.500đ/tháng ,thì ngồi xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binh
thường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng 3,5
lần lương tối thiểu ,thì ngồi xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở khu vực
này tiền cơng đã được tiền tệ hố hồn tồn và đã tính đén quan hệ cung cầu về lao
động . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách tiền lương,
ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân viên chức
khu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Từ đó đến nay mặc
dù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi, nhưng mức lương tối thiểu
cũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ; 1/10/1997 là 144.000 đ;
1/1/2000 là 180.000đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến 1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thời
gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã cơng bằng
hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả công tác.
Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở nước
ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang
hoạt động trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo
giá trị –lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không
ngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao động làm công ăn
lương


Tiền lương vừa mang tính chấ bình qn ,vừa mang tính chất bao cấp .Mặc dù
từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chinh sách tiền lương mới
nhưng trong đó vẫn cịn chứa đựng nhiều ván đề bất hợp lí.

Thứ nhất, Tính đến tháng 12/1999, tổng các đối tượng là 6.2 triệu người chiếm
8% dân số, trong đó 66.9% thuộc 2 nhóm cuối- hưu trí và các chính sách xã hội. Trên
thế giới khơng một quốc gia nào có tỷ lệ như vậy. Số cán bộ công chức đang làm việc
thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: khối quản lý hành chính Nhà nước chiếm 3.4% tổng
số, khối sự nghiệp chiếm 18.4% tổng số, cán bộ cấp phường xã chiếm 6.2% tổng số.
Hai là mức tiền lương tối thiểu là quá thấp cho đến trước 1/1/2003. Đối với đội
ngũ cán bộ công chức Nhà nước (mức lương được xây dựng trên mức lương tối
thiểu) thì tiền lương chỉ chiếm từ 20-30% thu nhập dẫn đến hiện tượng tiền lương chỉ
còn là danh nghĩa và chủ yếu dùng làm căn cứ đóng bảo hiểm. Người lao động khơng
quan tâm đến cơng việc chính của mình, dành nhiều thời gian, sức lực và trí tuệ làm
các cơng việc khác để tăng thu nhập. Trong khi đối với lao động tại các doanh
nghiệp, khi thu nhập chủ yếu là từ tiền lương, thì mức lương tối thiểu đã là
210.000(VND) đến 360.000(VND) đối với doanh nghiệp Nhà nước, 410.000(VND)
đến 620.000(VND) đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy là mức
lương tối thiểu (thực chất là mức lương cơ bản) cho đội ngũ công chức là khơng cịn
phù hợp nữa.
Ba là mặc dù lương tối thiểu và tối đa đã chênh lệch hơn 10 lần, tưởng chừng
khắc phục được tình trạng bình quân trong phân phối, nhưng do sự chi tiết đến thái
quá làm cho tiền lương rơi vào tình trạng bình quân chủ nghĩa. Khoảng cách giữa các
bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0.09 và cao nhất là 0.43. bên cạnh đó lại có quá
nhiều ngạch lương gây nên sự phức tạp không cần thiết. Đơn cử khu vực hành chính
sự nghiệp hiện có 21 bảng lương và 196 thang lương tương ứng với 196 ngạch công
chức. Hiện tượng không bao giờ đạt đến hệ số lương cao nhất là phổ biến. Cơ chế
quản lý tiền lương hiện nay còn bộc lộ hàng loạt những yếu điểm quan trọng. Trước
hết tiền lương chưa gắn với trách nhiệm và kết quả lao động. Chúng ta vẫn chủ yếu
trả lương theo thâm niên, theo bậc chứ chưa trả lương theo chức vụ và gắn liền với nó
là trách nhiệm, kết quả lao động hầu như khơng có tác động gì đến mức lương của
người lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp.



Mơ hình quản lý hành chính yếu kém dẫn đến việc các khoản chi là rất lãng
phí, các nguồn thu thì khơng được cơng khai. Phần lớn các khoản thu chi bất hợp
pháp này được hợp pháp hoá và chuyển thành các khoản thu nhập ngoài lương. đây là
một trong những khâu yếu nhất của chính sách tiền lương Việt Nam.
Bốn là sự bất cập lương đối với nhu cầu của cuộc sống đang đẻ ra nhiều
nghịch lý. Mọi người đều biết rằng mức lương hiện nay là không đảm bảo được cuộc
sống bình thường. Chênh lệch về thu nhập giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị là rất
lớn. Hiện nay có khoảng 40% số các đơn vị hành chính sự nghiệp cả nước là hoạt
động sự nghiệp. Đó là chưa kể sự chênh lệch đến quá lớn giữa lao động trong biên
chế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác. những chênh lệch và những nghịch lý
ấy đang là lý do cả về vật chất lẫn ý thức làm cho người lao động coi tiền lương là
một khoản thu nhập phụ, không ai sống bằng lương, Nhà nước không quản lý được
thu nhập... và chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực như: hạch toán sai, báo cáo
không đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng thu nhập mập mờ, tuỳ
tiện, cản trở kiểm tra kiểm sốt... Điều tệ hại là khơng đo đếm và tạo ra tâm lý lạm
dụng của công, nạn tham nhũng tập thể, dùng tiền công để “của người phúc ta”, kéo
bè kéo cánh. cùng cánh thì được “ăn chia”, nếu khơng cùng cánh thì lương "ba cọc
một đồng” ,tìm cách hạ bệ nhau,bơi nhọ danh dự của nhau gây mất dân chủ và mất
đồn kết trong khơng ít các cơ quan tổ chức. .Trong nhiều năm chính sách tiền
lương và các chính sách kinh tế xã hội khác như nhà ở phân phối điện ,nước sinh
hoạt …có liên quan mật thiết với nhau .Song trong qúa trình giải quyết vấn đề tiền
lương chưa tính tốn cân đối với từng chính sách một cụ thể ,do đó nó phát sinh nhiều
hiện tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình đẳng lớn trong xã hội
Nhà nước chưa thực sự hồn tồn làm chủ trong việc kiểm sốt và quản lý
tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động .

2.1.2/ Thực trạng về vấn đề lợi nhuận
Từ năm 1989 đến nay thì nên kinh tế việt nam có bước chuyểnbiến quan trọng
trong q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước .Xét
tình hình lợi nhuận ở nước ta,thì do chính sách cơ chế hình thành và phân phối thu

nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất hợp lý nên đang tạo nên sự phân hoá


và bất bình đẳng lớn trong xã hội. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất tạo ra tình
trạng “lãi giả lỗ thật”. Cũng từ đây nảy sinh ra một hiện tượng phổ biến khác là có
nhiều doanh nghiệp thường tìm cách tăng chi phí để giảm lợi nhuận và giảm phần lợi
nhuận trích nộp vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước chưa quản lý được thu nhập của
các doanh nghiệp ngồi quốc doanh, vì vậy mà chưa có một căn cứ chính xác để tính
thuế. Hơn nữa trong cơng tác quản lý cịn tồn tại tình trạng trốn lậu thuế, buôn bán
lậu qua biên giới và trong nước, làm hàng giả, núp bóng dưới doanh nghiệp quốc
doanh để trốn thuế... khá phổ biến đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư
nhân. Điều này đã nảy sinh sự bất bình đẳng lớn trong xã hội. Và nếu Nhà nước
khơng có chính sách quản lý phù hợp thì khó có thể thực hiện tốt các mục tiêu xã hội
đã đặt ra. Như vậy, ở nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng
sức mạnh vốn có của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận khơng hợp
lý đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước nói chung.
Về vấn đề lợi tức và lợi tức cổ phần thì chưa thu hút được phần lớn nguồn vốn
nhàn rỗi trong nhân dân, cho nên một khối lượng vốn lớn còn chưa đi vào chu chuyển
tạo ra sự lãng phí. Tuy số lượng các cơng ty cổ phần là khá lớn nhưng hoạt động thực
sự hiệu quả thì chưa nhiều, hoạt động mua bán cổ phiếu cơng ty vẫn còn rất mới mẻ.
Một vấn đề nữa còn tồn tại hiện nay ở nước ta đó là thu nhập từ các quĩ phúc
lợi xã hội còn thấp. Các khoản tiền trợ cấp, tiền bảo hiểm xã hội và các khoản chi trả
khác như học hành, chữa bệnh, thưởng thức văn hố, nghệ thuật...cịn rất hạn chế.
Ngun nhân gây ra tình trạng này là do thu nhập chính của người dân về cơ bản còn
thấp, đa số chỉ đảm bảo được cuộc sống vừa đủ.
Trước những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề phân phối ở nước ta hiện
nay, để đảm bảo cho phân phối được công bằng thì cần có những giải pháp để
khắc phục những hạn chế đó.


2.1.3/Những nhận xét khi rút ra khi nghiên cứu thực trạng của
quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay
2.1.3.1/ Ưu điểm:


Ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề
phân phối thu nhập . Đặc biệt rõ nét nhất là từ khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường đến nay ,hàng loạt các chính sách kinh tế được áp
dụng để giải quyết vấn đề tiền lương , lợi nhuận , lợi tức địa tô ,bảo hiểm ,trợ cấp
xã hội ….nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thơng để "cởi trói
" cho lĩnh vực sản xuất . Qua thời gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc

sống thì việc phân phối đã cơng bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác
2.1.3.2/Nhược điểm:
Tuy nhà nước ta đã cố gắng giải quyết những vấn đề phân phối thu nhập
nhưng tuy nhiên vấn đề phân phối theo thu nhập vẫn còn nhiều khuyết tật đã kìm
hãm sự phát triển của nước ta ví dụ như bộ máy quản lý cồng kềnh , chưa thực
sự kiểm soát và làm chủ trong quản lý tiền lương,chế độ tiền lương , phụ cấp
vẫn cịn mang bất hợp lí mang nặng tính bao cấp, cơ chế hình thành và phân phối

thu nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất hợp lý nên đang tạo nên sự
phân hố và bất bình đẳng lớn trong xã hội.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang từ thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội,có sự đan xen của nhiều hình thức sỏ hữu kinh tế cũng như các hình thức phân
phối khác nhau.Đảng và nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trị của phân phối,nhấn mạnh

vai trị của việc hồn thiện các hình thức phân phối nhàm nâng cao địi sóng của
nhân dân về mọi mặt:vật chất,văn hố…Phải thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội nói chung và của đảng nhà nước ta nói riêng, phải thể hiện được vai trò dẫn
đường của đảng .Để đạt được kết quả như vậy chúng ta phải thưc hiện một số giải
pháp sau:
Thứ nhất cần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, thực hiện nguyên tắc
phân phối theo cống hiến.Về thực chất chính là nguyên tắc phân phối vừa theo lao
động vừa theo mức đóng góp vốn vì xét cho cùng thì cống hiến của các cá nhân cho
xã hội chỉ có hai loại là cống hiến bằng sức lao động và cống hiến bằng sự góp vốn.


Việc thực hiện phân phối theo lao động và theo mức đóng góp vốn phù hợp với yêu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Để thực hiện được nguyên tắc phân phối này
thì phải xác định đúng giá trị cống hiến bằng sức lao động của từng người và tỷ lệ
giữa giá trị cống hiến bằng sức lao động và gía trị cống hiến bằng sự góp vốn. Trong
đó phải đảm bảo phân phối theo lao động là chủ yếu như vậy sự phân phối mới đảm
bảo tính cơng bằng, Xã hội dân chủ văn minh.
Thứ hai là thực hiện phân phối công bằng trong thu nhập,điều tiết thu nhập
dân cư, hạn chế sư chênh lệch về mức thu nhập.Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch
thu nhập quá đáng để khơng khiến xã hội bị phân hố thành hai cực cấp. mà trước hết
đối với người làm công ăn lương thì tiền lương phải thực sự trở thành nguồn thu nhập
chính để ni sống họ, từ đó họ có thể hồn tồn n tâm và say mê với nghề nghiệp.
Để cho tiền lương thực sự trở thành một đòn bẩy thúc đẩy người lao động làm việc
với sức sáng tạo, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hồn thành chính sách tiền
lương.
Trong việc xác định tiền lương cần quán triệt những nguyên tắc sau: Trước
tiên là cần cải cách chính sách tiền lương. Cải cách tiền lương phải mang tính triệt để
và căn bản, tạo ra một luồng sinh khí mới đối với các tầng lớp hưởng lương từ nguồn
ngân sách . Chính sách tiền lương mới phải phải thật sự là động lực để xây dựng một
nền hành chính quốc gia trong sạch với một bộ máy công quyền mạnh mẽ, công

minh. Cải cách tiền lương phải được tiến hành đồng bộ với hàng loạt các biện pháp
khác, đặc biệt là cải cách hành chính và cải tiến cơ chế quản lý kinh tế đòng bộ, có
hiệu quả..Cần xác định đúng đối tượng trả lương và cơ chế trả lương thích hợp. Giảm
một cách đáng kể đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước với những bước đi
thích hợp. Phải sử dụng mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn thuế thu nhập cá nhân như
một phương tiện chủ yếu để điều tiết lợi ích giữa các tầng lớp trong xã hội.
Tiến tới nâng tỷ trọng nâng thuế thu nhập cá nhân trong ngân sách Nhà
nước.Tiền lương phải đủ để đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, nó phải thực
sự là bộ phận thu nhập chủ yếu của người lao động . Tiền tệ hoá tiền lương một cách
triệt để, xoá bỏ tận gốc các khoản bao cấp trong phân phối. Mức lương phải gắn với
trình độ phát triển kinh tế xã hội, hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu lao
động, mức cống hiến của từng cá nhân, sự biến động của giá cả và lạm phát.Xây


dựng cơ chế quản lý tiền lương mới phải đảm bảo vừa tăng cường vai trò quản lý,
điều tiết vĩ mô của Nhà nước, vừa mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở. Phải
tiến hội nhập hành công cuộc tổ chức và phân công lại lao động xã hội trên phạm vi
toàn xã hội, tinh giảm biên chế trong khu vực Nhà nước. Chỉ có như vậy thì bộ máy
Nhà nước hoạt động mới có hiệu quả.Thay đổi cơ cấu thu chi ngân sách tạo nguồn
cho cải cách tiền lương. Cần giảm bớt chi đầu tư phát triển dưới dạng đầu tư vào cơ
các cơng trình sản xuất kinh doanh, nguồn ngân sách sẽ có đủ nguồn đảm bảo cải
cách căn bản tiền lương.
Thứ ba là phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đảm bảo sự hài hồ về
lợi ích giữa các thành phần trong đó lấy thành phần kinh tế Nhà nước làm chủ đạo.
bên cạnh đó nâng cao vai trị của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể để làm cơ
sở cho định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư là tăng cường đầu tư cho các quĩ phúc lợi xã hội để góp phần bổ
sung một phần đáng kể vào tổng thu nhập của người dân nhằm nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân và tạo ra sự phân phối công bằng
trong xã hội.

Thứ năm xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống luật trong
lĩnh vực phân phối thu nhập phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt nam .
Tiếp tục nghiên cứu , xây dựng hoàn thiện các nguyên tắc , nội dung phân
phối thu nhập cho phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt nam.
Thứ sáu cần phải hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của hoạt động tài
chính ngân hàng để có thể nắm được vàđiều tiết mọi vận động của của cải và tiền
tệ ra vào các doanh nghiệp cũng như hộ dân cư.ngoài ra nhà nước phải đóng vai
trị tích cực trong việc phân bổ tài nguyên , đất đai , có chương trình đào tạo
giáo dục …..
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phân phối công bằng
trong xã hội, tạo cơ sở cho sự phát triển và ổn định xã hội trong thời gian tới, tiến tới
kiện toàn nền kinh tế, phát triển nền kinh tế thụ trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ,đảm bảo xã hội công bằng dân chủ văn minh



KẾT LUẬN
Trong bất kỳ một xã hội nào thì phân phối ln chiếm một vị trí quan
trọng, nó phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thức phân phối thể
hiện bản chất của chế độ xã hội. Phân phối tác động trực tiếp đến mọi ngành, mọi đơn
vị kinh doanh, mọi mặt đời sống và mọi người trong xã hội. Do đó trong thời kỳ quá
độ, nhà nước phải biết sử dụng quan hệ phân phối như một công cụ đắc lực để tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng chính
sách huy động, phân phối vốn đúng đắn, chính sách về tiền lương, tiền thưởng năng
suất chất lượng... Nhà nước có thể hướng dẫn, kích thích các đơn vị kinh doanh tích
cực áp dụng thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật, từ đó tác động có hiệu quả vào
cơ cấu kinh tế mới.
Mặc dù trình độ sản xuất còn thấp, mức sống chưa cao, nhưng nếu nhà nước biết

khéo léo sử dụng công cụ phân phối vẫn có thể thể hiện tính ưu việt của chế độ mới.
Một khác , nhà nước có thể tận dụng được khả năng của xã hội để phân phối hợp lý,
khơng để lãng phí, khơng để rơi vào tay kẻ bất lương. Nhà nước cịn có thể thơng qua
các biện pháp phân phối và phân phối lại thu nhập để đảm bảo công bằng hơn trong
xã hội, đảm bảo cho sự phát huy, phát triển bình đẳng năng lực của mọi thành viên
trong xã hội.
Trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay, do sự tồn
tại của nhiều giai cấp, tầng lớp với lợi ích cịn chưa thống nhất nên lao động chưa thể
là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ, là "phương kế sinh nhai" của mọi người. Do đó,
trong xã hội cịn có sự khác biệt về mức sống, vị trí giữa các thành viên dựa trên cơ
sở mức đóng góp của mỗi người vào xã hội. Mặc dù vậy, ta chấp nhận hình thức phân
phối này vì nó phù hợp với quan hệ sản xuất của nước ta. Thực hiện nó có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hội đến một giai đoạn cao hơn, văn minh hơn đó
là Tiến lên chủ nghĩa cộng sản, trong đó quyền bình đẳng thực sự trong xã hội, tức là
nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", mọi người đều có cơm ăn áo
mặc.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị, (Nxb Chính trị quốc gia)
2. Đổi mới cơ chế và chính sách quản lí lao động trong nền kinh tề thị
trường ở Việt Nam (PGS. TS. Tống Văn Đường)
3. Tạp chí kinh tế & phát triển.
4. Tìm hiểu chế độ tiền lương mới.
5. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường - (PTS. Mai Ngọc
Cường - PTS. Đỗ Đức Bình)


×