Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thực trạng của quá trình phân phối và các giải pháp để nâng cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.25 KB, 21 trang )

Lời mở đầu
Quá trình tái sản xuất là sự kết hợp hai hoà giữa các khâu: Sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó phân phối là một khâu quan trọng
và không thể thiếu đợc của quá trình này. Nó nối liền sản xuất với trao đổi,
tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Không những thế,
quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó
phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã
hội.
Trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nớc ta hiện nay, do
nền kinh tế còn nhiều thành phần kinh tế nên cũng còn có nhiều hình thức lợi
ích kinh tế khác nhau và tất yếu là còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các
hình thức lợi ích kinh tế đó. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là kịp
thời phát hiện ra mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu
thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế đợc thể hiện thông qua
quan hệ phân phối.
Từ vai trò quan trọng của phân phối trong quá trình phát triển kinh tế thì
việc nghiên cứu quan hệ phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với nền
kinh tế nớc ta hiện naycòn đang trong quá trình phát triển. Muốn phát triển
nền kinh tế thị trờng nớc ta theo định hớng XHCN thì việc giải quyết các quan
hệ phân phối là hết sức cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế, phát
triển xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội.
Nghiên cứu phân phối là một phần trong quá trình ngiên cứu kinh tế ở tầm
vĩ mô, đó là một vấn đề lớn lao. Do trình độ, khả năng và thời gian còn hạn
chế nên trong bài viết này em không thể nghiên cứu đợc hết. Phạm vi nghiên
cứu của bài viết này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản nhất về
phân phối, các hình thức phân phối. Cụ thể là nghiên cứu các hình thức phân
1
phối ở nớc ta, đặc biệt là phân phối theo lao động và các hình thức thu nhập
hay phân phối thu nhập.
Trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt
Nam từ những năm 1985 cho đến nay. Đó là thời kỳ nền kinh tế đất nớc ta bắt


đầu chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nền kinh tế thị trờng
là môi trờng tốt cho quan hệ phân phối đợc thể hiện rõ nét, đặc biệt là khi nền
kinh tế nớc ta còn đang trong quá trình quá độ và gặp nhiều khó khăn.
Đề tài này đợc bố cục gồm 2 chơng chính :
Ch ơng I : Lý luận chung về phân phối trong nền kinh tế thị trờng
Trong phần này sẽ trình bày những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về
phân phối: bản chất, vai trò của quan hệ phân phối và nội dung chủ yếu của
quan hệ phân phối, đặc biệt phần này còn có kinh nghiệm của một số nớc về
phân phối
Ch ơng II : Thực trạng của quá trình phân phối và các giải pháp để nâng
cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới
Từ những vấn đề cơ bản về phân phối, ở chơng này sẽ nghiên cứu cụ thể
quá trình phân phối ở Việt Nam, các hình thức phân phối đặc biệt là phân phối
thu nhập. Thông qua đó nêu ra các giải pháp nhằm thực hiện quan hệ phân
phối để đạt mục tiêu công bằng xã hội.
Em xin trân thành cảm ơn sự hớng dẫn và quan tâm của thầy đã giúp em
hoàn thành đề án này. Trong bài viết còn nhiều sai sót mong thầy chỉ bảo để
em rút kinh nghiệm lần sau sửa chữa. Em cám ơn thầy.
2
Chơng 1
Bản chất mối quan hệ phân phối và các hình thức
phân phối ở nớc ta hiện nay
1.1. Bản chất của quan hệ phân phối.
Phân phối là một khâu không thể thiếu đợc của quá trình tái sản xuất.
Nó nối liền sản xuất và tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu
dùng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan
hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi
ích của toàn xã hội.
1.1.1. Mối quan hệ chung giữa sản xuất và phân phối, trao đổi, tiêu
dùng.

Trong qúa trình sản xuất, phân phối xác định tỷ lệ theo đó mỗi cá nhân
tham dự vào sản phẩm đã sản xuất ra ; trao đổi đem lại cho cá nhân những sản
phẩm nhất định mà anh ta muốn dung phần nhận đợc do phân phối để trao đổi
lấy ; cuối cùng, trong tiêu dùng, các sản phẩm trở thành những vật phẩm tiêu
dùng và đối tợng của việc chiếm hữu cá nhân. sản xuất tạo ra những vật phẩm
thích hợp với các nhu cầu ; phân phối, phân chia các vật đó theo những quy
luật xã hội ; trao đổi lại, phân phối lại cái đã đợc phân phối, theo những nhu
cầu cá biệt ; cuối cùng, trong tiêu dùng, sản phẩm thoát ra khỏi sự vận động
xã hội đó trực tiếp trở thành đối tợng và kẻ phục vụ cho một nhu cầu cá biệt,
và thoả mãn nhu cầu đó trong qúa trình tiêu dùng. Nh vậy, sản xuất thể hiện ra
là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân phối và trao đổi là điểm
trung gian, điểm trung gian này lại có hai yếu tố, vì phân phối đợc quy định là
yếu tố xuất phát từ xã hội, còn trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân. Nhng
phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập, đứng bên cạnh sản xuất và bên
ngoài sản xuất. Phân phối thuộc phạm trù quan hệ sản xuất là kết quả của sự
phân phối những công cụ sản xuất.
3
Phân phối xác định tỷ lệ (số lợng) sản phẩm dành cho cá nhân ; trao đổi
xác định những sản phẩm trong đó cá nhân đòi hỏi cái phần do phân phối
dành cho mình.
Nh vậy sản xuất, phân phối, tiêu dùng hình thành một tam đoạn luận
đúng cách: Sản xuất là cái chung, phân phối và trao đổi là cái đặc thù, tiêu
dùng là cái đơn nhất khép kín tổng thể. Đơng nhiên, cái đó đúng là một mối
liên hệ, nhng là mối liên hệ hời hợt bề ngoài. Sản xuất hình nh là do các quy
luật phổ biến của tự nhiên quy định ; phân phối do sự ngẫu nhiên của xã hội
quyết định, vì vậy nó có thể ảnh hởng ít nhiều thuận lợi đến sản xuất ; trao đổi
nằm giữa hai khâu đó, nh là một sự vận động xã hội có tính chất hình thức,
còn hành vi cuối cùng tiêu dùng không đợc coi là điểm kết thúc, mà còn
là mục đích cuối cùng, nói thực ra là nằm bên ngoài kinh tế, trừ trờng hợp nó
tác động trở lại điểm xuất phát và làm cho toàn bộ qúa trình bắt đầu lại.

1.1.2 Cơ sở kinh tế của sự phân phối
Cơ sở kinh tế của sự phân phối, ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến việc
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhng
vì phân phối bao giờ cũng gồm cả phân phối cho sản xuất xem là yếu tố của
sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của qúa trình sản xuất,
cho nên không phải là toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều đợc phân phối cho
tiêu dùng cá nhân. Trớc hết, xã hội cần phải trích ra một phần để:
Bù đắp những t liệu sản xuất đã hao phí ;
mở rộng sản xuất; lập quỹ dự trữ để phòng khi tai hoạ bất ngờ.
Phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục
và mở rộng sản xuất thì không thể đáp ứng đợc nhu cấu ngày càng tăng của xã
hội.
Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội thì để tiêu dùng. Nhng trớc khi
tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân, còn phải trích một phần
để:
Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ tổ quốc.
Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội .
4
Sau đó, phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới đợc trực tiếp phân phối
cho tiêu dùng cá nhân của những ngời làm việc trong nền sản xuất xã hội phù
hợp với số lợng và chất lợng của lao động cũng nh số lợng vốn và tài sản mà
họ đóng góp vào qúa trình sản xuất.
Nh vậy, tổng sản phẩm xã hội vừa đợc phân phối để tiêu dùng cho sản
xuất, vừa đợc phân phối để tiêu dùng cá nhân.
1.1.3. Vai trò của quan hệ phân phối trong nền sản xuất xã hội.
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ănghen cho
rằng sự phân phối chừng nào mà còn bị những nhân tố lý do thuần tuý kinh tế
chi phối, thì nó sẽ đợc điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ đợc
thuận lợi trên hết trong mọi phơng thức phân phối mà mọi thành viên trong xã
hội có thể phát triển, duy trì và thực hành những năng khiếu của họ một cách

hoàn thiện nhất . Phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của
sản xuất và trao đổi ; nó cũng tác động lại mạnh nh thế đến cả sản xuất lẫn
trao đổi. Bất cứ phơng thức sản xuất mới nào và bất cứ hình thức trao đổi mới
nào, lúc đầu không những đều bị những hình thức cũ và những thiết chế chính
trị tơng ứng ngăn trở, mà còn bị cả phơng thức phân phối cũ ngăn trở. Những
phơng thức sản xuất mới và những hình thức trao đổi mới ấy, trớc hết đều phải
trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài mới dành đợc sự phân phối thích ứng với
chúng. Nhng một phơng thức trao đổi và sản xuất nhất định càng linh hoạt bao
nhiêu, càng dễ phát triển và tiến triển bao nhiêu thì sự phân phối càng chóng
đạt tới trình độ thoát khỏi chính ngay những điều kiện đã đẻ ra nó và càng
chóng trở nên xung đột với phơng thức sản xuất và trao đổi cũ bay nhiêu.
1.2.Các hình thức phân phối chủ yếu ở nớc ta hiện nay
1.2.1 .Phân phối theo lao động: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu
dùng cho các cá nhân trong xã hội căn cứ vào số lợng, chất lợng lao động hay
hiệu quả lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội không phân biệt màu da, tôn
giáo, đảng phái, nam nữ.
5
1.2.2 .Phân phối theo vốn và tài sản : Là nguyên tắc phân phối vật phẩm
tiêu dùng cho cá nhân căn cứ vào vốn và tài sản mà họ có để phân phối.
1.2.3.Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi
khác: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm đảm
bảo những nhu cầu chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số ngời
không có khả năng lao động.
Trong các hình thức cơ bản đó, phân phối theo lao động là cách chủ
yếu, nhng phân phối ngoài thù lao lao động qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày
càng trở nên quan trọng trong qúa trình phát triển của xã hội. Đây là cách
phân phối vật phẩm tiêu dùng luôn luôn kết hợp với nhau và tác động cùng
một lúc trong thực tiễn. Hai cách phân phối này dựa vào nhau và bổ sung cho
nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời, phân
phối theo tài sản , vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một

tất yếu, hợp quy luật.
1.3. Kinh nghiệm của một số nớc về phân phối
1.3.1.Sự vận dụng nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội tại
Liên Xô
Trong thời gian đầu sau chiến tranh, nền kinh tế Liên Xô gặp nhiều khó
khăn do hậu quả của chiến tranh. Hơn nữa, trong xã hội Liên Xô lúc đó tồn tại
nhiều giai cấp: những địa chủ còn sót của xã hội phong kiến, những nhà t bản
non trẻ mới xuất hiện ở Liên Xô và giai cấp công nhân tầng lớp chính và
chiếm vai trò chủ đạo trong việc điều hành đất nớc sau chiến tranh.
Một yêu cầu đặt ra là phải điều tiết việc tiêu dùng trong xã hội. Đầu tiên
là việc dùng phiếu bánh mì - kiểu điều tiết tiêu dùng cổ điển của những t bản
lúc bấy giờ, nhằm thực hiện một nhiệm vụ: phân phôi bánh mì hiện có, làm
sao cho ai nấy đều có bánh ăn. Nhng việc thực hiện đó gặp nhiều khó khăn do
sự phá hoại của thế lực thù địch vì vậy chính phủ đã dề ra một chính sách mới:
trớc hết chính sách đó phải thêm vào chế độ phiếu bánh mì việc cỡng bức tập
hợp toàn thể nhân dân thành những hội tiêu dùng vì đó là phơng phấp duy nhất
6
để thực hiện dợc việc kiểm soát tiêu dùng ; hai là bắt bọn nnhà giáu phải làm
nghĩa vụ lao động, chúng phải đảm nhiệm những chức vụ không công trong
các hội tiêu dùng ; ba là phân đều cho nhân dân tổng số thực tế của sản phẩm
trong xã hội để đảm bảo công bằng.
Chính quyền Xô viết lúc đó kiên quyết tiếp tục thay thế việc buôn bán
bằng chế độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên quy
mô toàn quốc. Mục đích là tổ chức toàn thể nhân dân vào các công xã sản
xuất và tiêu dùng có khả năng phân phối tất cả những sản phẩm cần thiết một
cách nhanh chóng nhất, có kế hoạch nhất và tiết kiệm nhất, tốn ít nhân công
nhất, bằng cách tập trung chặt chẽ bộ máy phân phối. Và hợp tác xã là một
phơng tiện quá độ để thực hiện mục đích đó. Việc sử dụng hợp tác xã là một
vấn đề giống nh việc sử dụng chuyên gia t sản vì đứng đầu bộ máy hợp tác xã
do CNTB để lại là những ngời có thói quen suy nghĩ và quản lý kinh tế của t

sản. Đảng Cộng sản Nga buộc tất cả các đảng viên phải làm việc trong hợp tác
xã, lãnh đạo các hợp tác xã đó phải theo tinh thần cộng sản, làm cho tổng thể
nhân dân đều vào hợp tác xã và biến các hợp tác xã đó từ trên xuống dới thành
một hợp tác xã thống nhất cả nớc. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ chế đọ trng
thu lơng thực trong chính sách cộng sản thời chiến sang thuế lơng thực cho
phù hợp với nhân dân và thực hiện mục tiêu công bằng. Mặt khác, Đảng cộng
sản Nga còn sử dụng biện pháp quản lý sự phân phối thông qua sự kiêm kê và
kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm.
1.3.2. Vấn đề phân phối trong quá trình phát triển kinh tế Trung
Quốc thời kỳ cải cách
Chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của phân phối đặc biệt là phân phối thu
nhập trong quá trình phất triển kinh tế của Trung Quốc.Trung Quốc là một đất
nớc có dân số đông, kinh tế - văn hoá lạc hậu, nhng 20 năm qua nhờ thực hiện
cải cách mở cửa mà bộ mặt kinh tế - xã hội của nớc này đã thay đổi rõ rệt. Từ
thực tiễn đó, các nhà khoa học Trung Quốc đã rút ra nhận xét cho răng: Phân
phối thu nhập không chỉ biểu hiện một kết quả của tăng trởng kinh tế, đồng
7
thời nó lại ảnh hởng, thậm chí là một đại lợng biến đổi quan trọng quyết định
kinh tế tăng trởng
Trong thời gian đầu khoảng 20 năm trớc cải cách (1956-1976), trung Quốc
là một xã hội có trình độ bình quân hoá rất cao nhng cung lại là một xã hội
vẫn tồn tại một số nhân tố bất bình đẳng. Xã hội Trung Quốc nh vậy là do:
Chế độ XHCN ở Trung Quốc là chế độ lấy công hữu về t liệu sản xuất nên sau
khi từng bớc thực hiện công hữu hoá về t liệu sản xuất, ngời dân trừ một số ít
thu nhập từ lãi suất tiêt kiệm ra còn hầu nh không có thu nhập tài sản khác; và
ình hình đất nớc trong thời kỳ đấu cần tăng tích luỹ, giảm tiêu dùng, nên thu
nhập lao động cũng đợc bình quân ở mức thấp. Nhng s ự chênh lệch thu nhập
giữa các tầng lớp nhân dân và các khu vực là khá lớn. Về phơng thức phân
phối hàng tiêu dùng, Trung Quốc đã nhấn mạnh phơng thức phân phối hiện
vật, tức là thực hiện chế độ cung cấp, bài xích phơng thức phân phối theo thị

trờng (thông qua tiền tệ mua bán).
Sau khi cải cách mở cửa đến nay quá trình phân phối thu nhập ở Trung
Quốc có nhiều đột phá về lý luận: Đã đột phá vào quan niệm bình quân chủ
nghĩa, xây dựng lý luạn cho phếp một số vùng một số ngời giàu lên trớc,
khuyến khích ngời giàu trớc giúp đỡ ngời giàu sau, cuối cùng thực hiện cùng
giàu có; Thực hiện chính sá u tiên hiệu quả, chiếu cố công bằng tức là tiến
hành phân phối theo số lợng, chất lợng, hiệu suất lao động và bảo hộ thu nhập
hợp pháp, thôn tính thu nhập phi pháp...; Đã đột phá vào quan điểm truyền
thống cho rằng:phân phối theo lao động là đặc diểm của CNXH, phân phối
theo vốn là đặc điểm của CNTB, xây dựng lý luận kiên trì phân phối theo lao
động là chính, cho phép yếu tố sản xuất tham gia vào phân phối; Xây dựng và
kiện toàn hệ thống bảo hiểm xã hội thích ứng với nền kinh tế thị trờng XHCN.
Nhờ những chính sách và đổi mới đó nền kinh tế Trung Quốc đã đạt đợc
một số thành tựu đáng kể: Nền kinh tế tăng trởng với tốc độ cao, tăng trởng
GDP bình quân hàng năm 1979-1997 đạt 9,8%, trở thành cờng quốc đứng thứ
7 thế giới về kinh tế; Hàng hoá từ chỗ trớc đây thiếu đã trở nên phong phú đáp
ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu; Mức thu nhập và tiêu dùng của ngời dân đ-
8
ợc cải thiện và nâng cao, tăng trởng GDP bình quân đầu ngời đã từ 379
NDT(1978) tăng lên 6079 NDT(1997); Mức tiêu dùng của dân c cả nớc từ 184
NDT (1979) lên đến 2036 NDT(1997).

9

×