MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN KHOẢN
PHẢI THU KHÁCH HÀNG TRONG QUY TRÌNH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY TNHH KIỂM
TOÁN VÀ TƯ VẤN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (IFC) THỰC HIỆN
3.1. Một số nhận xét về công tác kiểm toán khoản phải thu khách hàng
trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do IFC thực hiện
3.1.1. Ưu điểm
Phương pháp kiểm toán được thống nhất cho tất cả các phần hành, nhưng
sự thống nhất này được đặt trong một tổng thể linh hoạt. Trong kiểm toán khoản
phải thu khách hàng, KTV đã nắm bắt được đặc điểm của khách thể kiểm toán,
từ đó quyết định việc mở rộng thử nghiệm kiểm soát hay áp dụng ngay các thử
nghiệm cơ bản. Ngoài ra, không chỉ trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng
mà đối với tất cả các phần hành khác, KTV cũng thể hiện sự linh hoạt trong
cách thức làm việc. Điều đó cho thấy đội ngũ KTV rất năng động và nắm vững
các quy trình kiểm toán của các phần hành.
Trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng, KTV đã sử dụng kết hợp
các thủ tục phân tích (bao gồm cả phân tích tỷ suất và phân tích xu hướng), thử
nghiệm kiểm soát và thủ tục kiểm tra chi tiết số dư.
Các chỉ tiêu trên BCTC có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi kiểm toán
khoản phải thu cần có sự đối chiếu với các phần hành khác. Chẳng hạn, khi
kiểm toán khoản dự phòng phải thu khó đòi, cần đối chiếu với chi phí quản lý
doanh nghiệp để kiểm tra về sự trình bày hợp lý của chi phí quản lý doanh
nghiệp liên quan đến trích lập dự phòng.
Trong quá trình kiểm toán, KTV sử dụng giấy tờ làm việc theo mẫu của
công ty. KTV lưu đầy đủ giấy tờ làm việc và các giấy tờ liên quan trong file
kiểm toán.
3.1.2. Nhược điểm
Hiện nay, hầu hết các công ty kiểm toán tại Việt Nam, trong đó có IFC,
thực hiện kiểm toán theo khoản mục. Do vậy, KTV chưa kiểm tra được mối liên
hệ giữa các khoản mục. Trong khi đó, sai phạm trong khoản mục này sẽ kéo
theo sai phạm trong khoản mục có liên quan, KTV phải thấy được mối liên hệ
này để có điều chỉnh kịp thời.
Chương trình kiểm toán các khoản phải thu khách hàng áp dụng cho tất
cả các khách hàng ít xét đến tính đặc thù về loại hình doanh nghiệp, ngành nghề
kinh doanh, tình hình tài chính, đặc thù về kiểm soát…
KTV ít sử dụng thủ tục phân tích trong các cuộc kiểm toán, chưa đánh giá
chính xác định được tình hình sản xuất – kinh doanh hiện tại và sự biến động so
với kỳ hạch toán trước của công ty khách hàng. KTV chưa quan tâm đúng mức
đến mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính.
Mẫu được chọn để kiểm tra chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ có số dư
cuối kỳ lớn, nội dung nghiệp vụ bất thường. Do đó, rủi ro kiểm toán cao. Các
gian lận, sai sót có khả năng xảy ra ở những nghiệp vụ có số dư nhỏ hoặc bằng
không.
Công ty chưa thực hiện gửi thư xác nhận đối với các khoản công nợ có số
dư bằng không. Đây là do giới hạn về thời gian kiểm toán và chi phí kiểm soát.
Bên cạnh đó, việc không nhận được thư xác nhận thường xuyên xảy ra. Do đó,
KTV thường phải thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung để kịp thời phát hành
Báo cáo kiểm toán. Các khách hàng được chọn để gửi thư xác nhận và kiểm tra
chi tiết thường được chọn theo cảm nhận của KTV nên dễ xảy ra sai phạm.
3.2. Tính tất yếu khách quan phải thực hiện công tác kiểm toán khoản phải
thu khách hàng trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
Các khoản phải thu nói chung và các khoản phải thu khách hàng nói riêng
là tài sản mà doanh nghiệp có thể thu lại được trong tương lai. Việc phản ánh
chính xác giá trị thuần các khoản phải thu khách hàng là rất quan trọng, ảnh
hưởng đến các chỉ tiêu tài chính như tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế…
Các khoản phải thu khách hàng có quan hệ chặt chẽ với khoản mục doanh
thu trên BCKQKD. Do vậy, hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải
thu khách hàng là cần thiết để từ đó có thể phát hiện ra những sai phạm liên
quan đến doanh thu. Cuối kỳ kế toán phải có biên bản đối chiếu công nợ để xác
định các khoản phải thu khách hàng là có thực và phản ánh đúng.
Đặc biệt, trong tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hiện
nay, việc trích lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi chưa được chú trọng
thực hiện, không thực hiện phân tích tuổi nợ. Điều này gây khó khăn cho KTV
khi đánh giá tính trung thực và hợp lý của các khoản phải thu được phản ánh
trên Bảng cân đối kế toán. Vì vậy, chương trình kiểm toán cần chú ý đến việc
ước tính các khoản dự phòng một cách hợp lý.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán khoản phải thu khách
hàng trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty TNHH Kiểm
toán và tư vấn tài chính Quốc tế (IFC) thực hiện
Trong thời gian thực tập tại Công ty Kiểm toán và tư vấn tài chính Quốc
tế, em đã nghiên cứu, tìm hiểu về chương trình kiểm toán các khoản phải thu
khách hàng tại công ty. Qua đó, em thấy rằng quy trình này đã được công ty
thực hiện rất hiệu quả. Tuy nhiên, với mục đích hoàn thiện kiểm toán phải thu
khách hàng, em xin đưa ra một số kiến nghị sau đây với hi vọng có thể để công
ty tham khảo và nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán.
3.3.1. Nâng cao chất lượng của từng giai đoạn của quy trình kiểm toán
3.3.1.1. Lập kế hoạch kiểm toán
* Xây dựng kế hoạch kiểm toán
KTV nên có kế hoạch khảo sát khách hàng một cách chi tiết để có thể
đánh giá đúng về khách hàng, từ đó có thể thu thập bằng chứng kiểm toán đầy
đủ, hiệu lực. Công việc khảo sát cần được giao cho những KTV có trình độ
chuyên môn cao mới có thể đánh giá tổng quan nhất về công ty khách hàng.
Mỗi khoản mục đều có chương trình kiểm toán cụ thể nhưng tùy thuộc vào đặc
điểm của từng khách hàng để có thể áp dụng chương trình kiểm toán phù hợp và
hiệu quả nhất.
* Đánh giá hiệu quả của hệ thống KSNB
Hiểu biết về HTKSNB của khách hàng là một việc hết sức quan trọng và
giúp cho KTV có được những quyết định thích hợp trong việc lên chưng trình
kiểm toán cũng như thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Thực tế, hiệu
quả của hệ thống KSNB chủ yếu được đánh giá thông qua phỏng vấn nhân viên
của công ty khách hàng, dựa vào xét đoán nghề nghiệp và kinh nghiệm của
KTV nên khó có thể có những đánh giá thật chính xác.
Khi kiểm toán Khoản mục phải thu khách hàng, công ty IFC đã có những
phương pháp hiệu quả để đánh giá được tương đối đầy đủ về HTKSNB của
khách hàng. Tuy nhiên, có thể sử dụng “Bảng câu hỏi” để thực hiện công việc
này nhanh chóng và chính xác hơn. “Bảng câu hỏi” về HTKSNB là bảng liệt kê
gồm nhiều câu hỏi đã được chuẩn bị từ trước về quá trình kiểm soát trong từng
lĩnh vực, kể cả môi trường kiểm soát. Trong hầu hết các trường hợp, bảng câu
hỏi được thiết kế dưới dạng trả lời “Có”, ”Không” hoặc “Không áp dụng”. Câu
trả lời “Có” thường được quy ước là biểu thị một tình trạng kiểm soát tốt; ngược
lại, câu trả lời “Không” sẽ cho thấy sự yếu kém của kiểm soát nội bộ và những
sai sót tiềm tàng có khả năng phát sinh. Để nhấn mạnh mức độ yếu kém, trong
bảng câu hỏi có thể đánh giá sự yếu kém của thủ tục kiểm soát đó là quan trọng
hay thứ yếu, cho biết nguồn gốc của thông tin sử dụng để trả lời các câu hỏi
này, và những giải thích, nhận xét về sự yếu kém. Bảng câu hỏi này có thể được
thiết kế sau.
Bảng 3.1. Bảng câu hỏi
Câu hỏi
Trả lời
Ghi
chú
Khôn
g
áp
dụng
C
ó
Khôn
g Yếu kém
Quan
trọng
Thứ
yếu
1. Các khoản bán chịu có được xét duyệt
trước khi gửi hàng hay không
2. Các hóa đơn bán hàng có được đánh
số
liên tục trước khi gửi hàng hay không
3. Có quy định bắt buộc kiểm tra để bảo
đảm rằng mọi hàng hóa gửi đi đều đã
được
lập hóa đơn hay không
4. Có bảng giá được duyệt để làm cơ sở
tính
tiền trên hóa đơn hay không
5. Hóa đơn có được kiểm tra độc lập
trước
khi gửi đi hay không
6. Hàng tháng có gửi bản sao kê công nợ
cho
khách hàng hay không
7. Việc nhận hàng bị trả lại có sự phê
chuẩn
của người có thẩm quyền hay không
8. Đơn vị có thực hiện phân cách trách
nhiệm
và đối chiếu giữa kế toán theo dõi công
nợ
và kế toán tổng hợp hay không và việc
đối
chiếu được thực hiện khi nào
9. Khách hàng có lập dự phòng phải thu
khó
đòi hay không
10.Việc xóa sổ các khoản nợ không thu
hồi
được có sự phê chuẩn bởi cấp có thẩm
quyền
hay không
…
Có thể thấy rằng “Bảng câu hỏi” có nhiều ưu điểm cần được khai thác.
Do đã được chuẩn bị từ trước nên KTV có thể tiến hành nhanh chóng, và không
bỏ sót những vấn đề quan trọng. Hơn nữa, nó có thể được chuẩn bị riêng cho
từng phần của mỗi chu trình nghiệp vụ, nên tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phân công cho nhiều KTV cùng thực hiện.