Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN DỰ ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.78 KB, 27 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN DỰ ÁN
1.1. Khái quát về dự án
1.1.1. Khái niệm dự án
Dự án là một mảng kinh tế tương đối mới mẻ với Việt Nam, hiện nay chúng ta có
nhiều cách định nghĩa dự án, tùy theo mục đích mà nhấn mạnh vào một khía cạnh nào
đó. Trên phương diện phát triển, có hai cách hiểu về dự án là cách hiểu “tĩnh” và cách
hiểu “động”. Theo cách hiểu “tĩnh”, dự án là hình tượng về một tình huống (một trạng
thái) mà ta muốn đạt tới. Theo cách hiểu “động” có thể định nghĩa dự án như sau:
Một cách chung nhất, dự án là một lĩnh vực hoạt động đặc thù, một nhiệm vụ
cần phải được thực hiện với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch
tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới.
Như vậy, theo định nghĩa này thì: Dự án không chỉ là một ý định phác thỏa mà
có tính cụ thể và mục tiêu xác định; Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng mà
tạo nên một thực thể mới.
Trên phương diện quản lý, có thể định nghĩa dự án như sau: “Dự án là những nỗ
lực có thời hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất”.
Định nghĩa này nhấn mạnh hai đặc tính: Nỗ lực tạm thời (hay có thời hạn), nghĩa
là, mọi dự án đầu tư đều có điểm bắt đầu và điểm kết thúc xác định, đó là khi mục tiêu
của dự án đã đạt được hoặc dự án bị loại bỏ; Sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất là sản
phẩm hoặc dịch vụ khác biệt so bới những sản phẩm tương tự đã có hoặc dự án khác đã
thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm dự án
Từ những định nghĩa khác nhau về dự án, chúng ta có thể thấy một số đặc trưng
cơ bản của dự án:
Dự án có mục đích, kết quả xác định.
Tất cả các dự án đều phải có mục đích xác định rõ. Kết quả này có thể là một tòa
nhà, một dây chuyền sản xuất, một nỗ lực trong cải thiện đời sống sinh hoạt của nhóm
dân cư,… Mỗi dự án lại bao gồm tập hợp nhiều nhiệm vụ cần được thực hiện. Và từng
nhiệm vụ cụ thể lại có một kết quả riêng, độc lập. Tập hợp những kết quả riêng cụ thể
ấy hình thành nên kết quả chung của tổng thể dự án. Hiểu một cách khác, dự án là một
hệ thống phức tạp, được phân chia thành nhiều bộ phận, phân hệ khác nhau để thực


hiện và quản lý nhưng đều phải thống nhất đảm bảo các mục tiêu chung về thời gian,
chi phí và chất lượng công việc hoàn thành.
Dự án có chu kỳ phát triển riêng và có thời gian tồn tại hữu hạn.
Dự án cũng trải qua các giai đoạn như: hình thành, phát triển, có thời điểm bắt đầu
và thời điểm kết thúc như các thực thể sống khác. Tuy nhiên, dự án là một sự sáng tạo
và dự án không kéo dài mãi mãi. Khi dự án kết thúc, kết quả dự án được chuyển giao
cho bộ phận quản lý vận hành, nhóm quản trị dự án được giải tán.
Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo.
Không giống như quá trình sản xuất liên tục và gián đoạn, kết quả của dự án
không mang tính chất hàng loạt mà có tính chất khác biệt cao. Sản phẩm và dịch vụ do
dự án đem lại là duy nhất , hầu như không lặp lại như dự án Lọc dầu Dung Quất, dự án
Khu đô thị Phú Mỹ Hưng. Tuy nhiên, ở nhiều dự án khác tính duy nhất ít rõ ràng hơn
mà bị che đậy bởi tính tương tự giữa chúng. Nhưng chúng vẫn có những đặc điểm khác
biệt đặc thù về thiết kế, vị trí, khách hàng,… Chính những nhân tố đó tạo nên nét duy
nhất, đặc thù, độc đáo và đơn chiếc của các dự án.
Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp giữa các bộ phận
quản lý chức năng với quản lý dự án.
Mỗi dự án đều có sự tham gia của nhiều bên hữu quan như chủ đầu tư, người
hưởng thụ dự án, các nhà tư vấn, nhà thầu, các cơ quan quản lý của nhà nước. Tùy theo
tính chất của dự án và yêu cầu của chủ đầu tư mà sự tham gia của các thành phần trên
cũng khác nhau. Các bộ phận quản lý chức năng và bộ phận quản lý dự án thường
xuyên có mối quan hệ với nhau và cùng phối hợp thực hiện dự án, tuy nhiên mức độ
tham gia của các bộ phận là không giống nhau.
Môi trường hoạt động “va chạm”.
Với các dự án cùng một nhà đầu tư, quan hệ giữa các dự án là quan hệ phân chia
nhau cùng một nguồn lực khan hiếm của tổ chức. Dự án “cạnh tranh” lẫn nhau và với
các hoạt động tổ chức sản xuất khác về tiền vốn, nhân lực, thiết bị,… Trong quản lý,
nhiều trường hộp, các thành viên ban quản lý dự án lại có chủ trương “hai giám đốc” để
tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau, tuy nhiên điều này sẽ gây ra những hiểu lầm và trì trệ
trong công việc nếu như mệnh lệnh của hai giám đốc là trái ngược. Do đó, môi trường

quản lý của dự án có nhiều quan hệ phức tạp nhưng năng động.
Tính bất định và rủi ro cao.
Hầu hết các dự án đòi hỏi quy mô tiền vốn, vật tư và lao động rất lớn để thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng bên cạnh đó, thời gian đầu tư và vận hành kéo
dài nên các dự án đầu tư phát triển thường có độ rủi ro cao.
1.1.3. Phân loại dự án
Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều loại dự án khác nhau về mục đích, tính chất, quy
mô, đặc điểm và mức độ phức tạp. Vì vậy cũng có rất nhiều cách phân loại dự án như
theo mức độ sử dụng, theo mục đích, theo quy mô...
Theo nguồn vốn đầu tư, dự án có thể được phân chia thành các loại như sau:
• Dự án sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước.
• Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh hoặc vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước.
• Dự án sử dụng nguồn vốn do vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn viện trợ quốc
tế cho đầu tư phát triển (bao gồm cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA) được quy
định trong Điều 21 Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn như Nghị định
17/CP/2001 về Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.
• Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
• Dự án sử dụng vốn khác bao gồm vốn tư nhân hoặc hỗn hợp nhiều nguồn vốn.
Theo quy mô của dự án, ngoài các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông
qua chủ trương và cho phép đầu tư, những dự án còn lại phân thành ba nhóm A, B, C
(Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005 do chính phủ ban hành)
• Dự án nhóm A: các dự án thuộc thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư của Thủ tướng
Chính phủ, bao gồm các dự án như: xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, các
dự án có vốn đầu tư từ 40 triệu USD trở lên thuộc các nghành điện, dầu khí, luyện kim,
xi măng, hóa chất, cảng biển, sân bay, khu văn hóa, du lịch,…, các dự án vận tải biển,
hàng không, bảo hiểm, tài chính,…, dự án khai thác tài nguyên quý hiếm, các dự án
thuộc lĩnh vực quốc phòng an ninh…
• Dự án nhóm B: các dự án thuộc thẩm quyền quyết định cấp giấy phép của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư bao gồm các dự án không thuộc quy định trên, trừ những dự án quy định

thuộc nhóm C và những dự án ủy quyền cho Ban quản lý Khu công nghiệp cấp giấy
phép đầu tư.
• Dự án nhóm C: các dự án thuộc thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
Theo tính chất của dự án, các dự án có thể phân chia thành:
• Dự án đầu tư mới: Hoạt động đầu tư mới trong một lĩnh vực, địa bàn nhất định
• Dự án mở rộng: Đầu tư mở rộng sản xuất hay dịch vụ nào đó đã có từ trước (mở rộng
về quy mô, địa bàn).
• Dự án thay thế: Đầu tư thay thế một hoạt động sản xuất hay dịch vụ nào đó đã có từ
trước song lợi suất không cao (do quá cũ hoặc hết khấu hao). Đầu tư này nhằm lợi suất
cao hơn và hiệu quả hơn về kinh tế.
Ngoài ra, các dự án có thể được phân loại trên cơ sở lĩnh vực (như Y tế, Giáo dục,
Nông nghiệp, phát triển cộng đồng) và mang tính sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Dự
án cũng có thể được phân định theo hạn định thời gian (ngắn hạn, trung hạn hay dài
hạn).
1.1.4. Các nhân tố cơ bản của dự án
1.1.4.1. Nguồn vốn của dự án:
Các dự án tại Việt Nam được đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng quan chiếm
tỉ trọng lớn nhất là từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn hỗ trợ phát triển
không chính thức (ODA), nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức
kinh tế, doanh nghiệp, nguồn viện trợ của chính phủ các nước,… Nguồn vốn đầu tư
được lập dựa trên căn cứ về mục tiêu của dự án, do đó việc lập dự toán ngân sách là rất
cần thiết để thực hiện các kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh,… hoàn thành mục tiêu
của dự án. Nhà đầu tư và ban quản lý dự án phải xây dựng một phương án, kế hoạch để
phân phối nguồn quỹ cho các hoạt động của dự án một cách hợp lý nhằm bảo đảm thực
hiện tốt các mục tiêu về chi phí, tiến độ, mục đích của dự án. Dự toán ngân sách của dự
án có thể được thực hiện theo cấp quản lý từ trên xuống hoặc từ dưới lên hoặc kết hợp
của cả hai cấp quản lý.
Nguồn vốn của dự án có thể chia thành nguồn vốn lưu động và vốn cố định. Vốn
cố định bao gồm các khoản chi phí chuẩn bị trước khi thực hiện dự án như chi phí thành

lập, nghiên cứu dự án, lập hồ sơ, trình duyệt dự án, chi phí quản lý ban đầu đối với dự
án, chi phí về cơ sở hạ tầng ban đầu,… Vốn lưu động bao gồm các chi phí phát sinh
trong suốt đời dự án như: chi phí lương chuyên gia, chi phí lương cho cán bộ nhân viên,
chi phí đi lại, chi phí văn phòng phẩm,…
Vốn được giải ngân trong suốt quá trình thực hiện dự án theo tiến độ phù hợp
với nhu cầu của dự án, cho các mục đích cụ thể đã được lập kế hoạch. Quy trình giải
ngân có thể được thực hiện theo hai phương pháp:
• Ban quản lý dự án định kỳ lập kế hoạch về chương trình hoạt động của dự án, những
bản kế hoạch này cũng chính là dự toán về chi phí mà dự án cần thực hiện. Thông qua
bản dự toán ngân sách do ban quản lý dự án lập, chủ đầu tư sẽ phê duyệt và quyết định
sự hợp lý của từng chi phí sau đó tiến hành giải ngân cho dự án theo thời gian và tiến
độ phù hợp.
• Việc giải ngân cho dự án đã được quy định rõ ràng trong hợp đồng giữa ban quản lý dự
án và chủ đầu tư, do đó định kỳ, chủ đầu tư tiến hành giải ngân theo tỉ lệ % nhu cầu đã
thỏa thuận trong hợp đồng của dự án.
Hầu hết các dự án đều được giải ngân qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng của chủ
đầu tư dự án và ban quản lý dự án, có thể thông qua ngân hàng trung gian.
1.1.4.2. Chủ đầu tư dự án.
Chủ đầu tư dự án có thể là người sở hữu vốn hoặc người được giao quản lý và sử
dụng vốn để thực hiện dự án. Các dự án sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, chủ đầu tư
do người phê chuẩn quyết định đầu tư tiến cử và quyết định trước khi lập dự án đầu tư
theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Đối với các dự án sử dụng vốn tín dụng,
chủ đầu tư là người vay vốn đầu tư. Đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư hỗn hợp, chủ
đầu tư là người có tỷ lệ vốn góp lớn nhất hoặc do các thành viên góp vốn thỏa thuận cử
ra. Đối với các dự án đầu tư khác, chủ đầu tư là chủ sở hữu vốn hoặc người đại diện
theo quy định của pháp luật.
1.1.4.3. Trình tự tiến hành dự án
Cho đến nay, vẫn chưa có một sự thống nhất về các quy trình của một dự án cụ
thể gồm những bước gì và được phân chia như thế nào. Tuy nhiên đối với đa số các dự
án phát triển, quy trình dự án thường bao gồm các bước khảo sát (xác định), thẩm định,

đàm phán thông qua, thực hiện và đánh giá. Việc phân chia các bước này nhiều khi chỉ
mang tính tương đối và các bước không tách rời nhau hoàn toàn mà tác động, có khi bổ
sung cho nhau.
►Khảo sát dự án
Khảo sát dự án là bước đầu tiên trong quy trình dự án, khi những người có liên
quan hình thành những ý tưởng chung về dự án. Yêu cầu của bước này là từ những khó
khăn của địa phương, xác định những nguyên nhân và tìm ra những giải pháp sơ bộ.
Trên cơ sở đó, ý tưởng về nguồn tài chính cho dự án cũng sẽ được hình thành (từ Chính
phủ, các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức khác).
Sau ý tưởng đầu tiên về dự án được hình thành, dự án cần phải được xem xét tổng
thể lần đầu tiên, nhằm ước lượng quy mô dự án và sự cần thiết của dự án. Công việc
này thường được thể hiện trên cơ sở nghiên cứu những khía cạnh liên quan đến dự án,
bao gồm thị trường, kỹ thuật, nhân lực và thể chế, quản lý, tài chính, kinh tế, môi
trường và xã hội.
Khi dự án có triển vọng khả thi, nhiều tổ chức thực hiện thêm một bước là phân
tích chính xác hơn dự án về các mặt nêu trên nhằm nêu bật tính khả thi của dự án
(nghiên cứu khả thi). Thông thường sẽ có những quyết định quan trọng đối với dự án ở
bước này.
Khi dự án mang tính khả thi cao và nguồn tài chính cho dự án được xác định,
bước tiếp theo là lập dự án tổng thể. Lưu ý là bước khảo sát cũng đã đòi hỏi phải có văn
bản dự án, song văn bản đó thường mang tính đơn giản, sơ bộ. Văn bản dự án chi tiết
cần nêu rõ xuất sứ, mục đích, mục tiêu và các hoạt động của dự án. Ngoài ra, các dự án
chi tiết cũng cần nêu rõ các nội dung: Đối tượng hưởng lợi; tham gia của địa phương và
cộng đồng; chi tiết dự toán ngân sách; cơ chế và kế hoạch thực hiện; Hiệu quả và tính
bền vững của dự án. Đối với một số dự án nhất định, cần phải có các tài liệu kỹ thuật,
khảo sát thị trường.
► Thẩm định dự án
Bước tiếp theo của quy trình là thẩm định dự án. Trên cơ sở dự án chi tiết, dự án
sẽ được tổ chức tài trợ hoặc một cơ quan chuyên môn thẩm định tổng thể về các mặt kỹ
thuật, tài chính, kinh tế, xã hội và môi trường cụ thể, phần thẩm định dự án sẽ trả lời

các câu hỏi: Dự án có khả thi về mặt kỹ thuật, có hợp lý và bền vững về mặt tài chính,
mang lại lợi ích cao cho cộng đồng thuộc khu vực dự án và đối với quốc gia nói chung,
có đảm bảo các mục tiêu xã hội của dự án, hay có bền vững về mặt môi trường hay
không.
• Thẩm định về thị trường (nếu là dự án mang tính dịch vụ, sản xuất hàng hoá);
• Thẩm định về mặt kỹ thuật (chủng loại trang thiết bị cần thiết, giá cả, nguồn cung cấp,
công nhân kỹ thuật);
• Thẩm định về nhân lực và thể chế (nhu cầu về nhân lực trong việc thực hiện dự án,
nguồn nhân lực tại chỗ; hệ thống hành chính liên quan đến dự án; tổ chức thực hiện dự
án đã phù hợp chưa);
• Thẩm định về quản lý (trả lời câu hỏi những người có trách nhiệm có đủ khả năng thực
hiện và vận hành dự án hay không);
• Thẩm định về tài chính (dự kiến chi phí, thu nhập);
• Thẩm định về kinh tế (vai trò của dự án trong phát triển kinh tế ở vùng dự án, khả năng
ảnh hưởng tới các vung xung quanh và nền kinh tế quốc dân);
• Thẩm định về xã hội (vai trò của dự án trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội của
Nhà nước, người hưởng lợi hoặch thiệt hại khi có dự án, phân tích các nhóm người có
liên quan).
►Đàm phán thông qua:
Sau khi dự án đã được thẩm định bước tiếp theo là thông qua dự án. Thực chất,
việc đàm phán về dự án có thể diễn ra ngay từ ban đầu và thường xuyên. Dự án có được
thông qua hay không cũng phụ thuộc một phần vào công tác thuyết minh và giải trình
của cơ quan chủ dự án.
►Thực hiện dự án
Dự án sẽ đi vào thực hiện sau khi được thông qua. Thực hiện dự án là khi các hoạt
động của dự án được tiến hành, ngân sách của dự án được chuyển, và hệ thống vận
hành của dự án đi vào hoạt động. Ưu tiên cao nhất của bước này là thực hiện các hoạt
động của dự án theo kế hoạch và trong phạm vi ngân sách đã quy định. Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai thực hiện dự án thường xảy ra những khó khăn vướng mắc,
những vấn đề phát sinh thường đòi hỏi thường xuyên có những thông tin phản hồi về

tiến triển dự án nhằm đưa ra những điều chỉnh phù hợp và kịp thời. Công tác này đòi
hỏi phải có một quá trình giám sát thường xuyên, tại chỗ.
Song song với việc thực hiện là công tác giám sát dự án. Giám sát việc thực hiện
dự án là công việc thường xuyên đối với những người trực tiếp tham gia quản lý thực
hiện dự án và các cấp, tổ chức có liên quan (chính quyền địa phương, các cơ quan chức
năng, tổ chức tài trợ). Giám sát là công tác không thể thiếu để đảm bảo dự án thành
công và chủ yếu diễn ra trên các mặt tiến độ, nhân lực, vật lực và tài lực. Mục đich của
giám sát là đảm bảo các hoạt động của dự án được thực hiện theo kế hoạch, phát hiện
các vấn đề phát sinh để kịp thời ra quyết định xử lý hoặc điều chỉnh cần thiết.
►Đánh giá dự án:
Đánh giá dự án là hoạt động kiểm định dự án một cách tổng thể, trên cơ sở so
sánh những nội dung đã nêu trong dự án ban đầu với thực tế. Mục đích chung của đánh
giá là tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu hay những tồn tại, phân tích nguyên nhân để
điều chỉnh dự án hoặc làm kinh nghiệm cho các giai đoạn tiếp theo hoặc các dự án
khác. Đánh giá dự án cũng được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi: Các mục tiêu của dự án
được thực hiện thành công đến đâu, vì sao.
Các hình thức đánh giá chủ yếu:
• Đánh giá thường xuyên: Việc đánh giá thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án
(gần nghĩa với kiểm tra, song với mục đích tổng kết rút kinh nghiệm);
• Đánh giá theo giai đoạn: Việc đánh giá sau khi mỗi giai đoạn dự án kết thúc nhằm tổng
kết rút kinh nghiệm cho các giai đoạn tiếp theo;
• Đánh giá kết thúc dự án: Việc đánh giá sau khi dự án kết thúc nhằm xác định mức độ
thành công của dự án và đưa ra kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
• Đánh giá ảnh hưởng: Đánh giá sau khi dự án kết thúc được nhiều năm nhằm xem xét
những tác động và ảnh hưởng về lâu dài của dự án trên các mặt kinh tế, xã hội, môi
trường ở vùng dự án cũng như các vùng lân cận.
Kết quả của công tác đánh giá thường được sử dụng làm cơ sở cho các dự án khác
hoặc các dự án tiếp theo. Nói cách khác, kết quả này được sử dụng cho các quá trình
khảo sát của những dự án đó
1.2. Khái quát về kiểm toán dự án

1.2.1. Vai trò của kiểm toán dự án
Kiểm toán dự án giữ vị trí quan trọng, cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ công
tác quản tài chính của nhà đầu tư dự án, cụ thể:
• Kết quả kiểm toán dự án đưa ra ý kiến đánh giá công tác quản lý, điều hành thu, chi
ngân sách; công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, …gắn với trách
nhiệm của từng cá nhân, đơn vị trong quản lý kinh tế, tài chính, là nguồn thông tin quan
trọng phục vụ cho chủ đầu tư giám sát hoạt động dự án.
• Kết quả kiểm toán dự án còn xác định rõ trách nhiệm cá nhân trong việc quản lý kinh
tế, tài chính không đúng quy định của pháp luật gây lãng phí, thất thoát, tiêu cực... kiến
nghị với các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý theo quy định của Nhà nước.
• Kết quả kiểm toán dự án cung cấp thông tin giúp chủ đầu tư giám sát việc quản lý và sử
dụng các nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ...
• Kết quả kiểm toán dự án xác định số thu, chi cả về tổng số và chi tiết đến từng khoản
mục, đây là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán ngân sách
ngân sách năm trước làm cơ sở cho chủ đầu tư dự án phân bổ dự toán ngân sách dự án
năm kế hoạch.
• Kết quả kiểm toán dự án đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận xét về việc tuân thủ luật, các
cơ chế chính sách trong quản lý kinh tế, tài chính; thu, chi ngân sách, kiến nghị với nhà
đầu tư sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế, quy định, chính sách.
• Kết quả kiểm toán dự án xác nhận tính trung thực, hợp pháp của báo cáo quyết toán dự
giúp chủ đầu tư phê chuẩn báo cáo quyết toán ngân sách dự án hàng năm.
1.2.2. Mục tiêu của kiểm toán dự án
Theo chuẩn mực số 1000 “Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn
thành”, mục tiêu kiểm toán là xác định tính đúng đắn, trung thực của các Báo cáo
quyết toán vốn đầu tư, bao gồm: Đánh giá việc tuân thủ luật pháp, các chính sách,
chế độ của Nhà nước, tình hình quản lý và sử dụng vốn tại các đơn vị được kiểm
toán; Đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, tính hiệu quả, sự tác động, ảnh hưởng
của Dự án đối với địa phương, xã hội.
Mục tiêu của kiểm toán dự án cũng bao hàm trong mục tiêu kiểm toán nói chung
là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận tính trung thực,

hợp lý, hợp pháp của các báo cáo dự án.
“Trung thực” là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật nội
dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
“Hợp lý” là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và
phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
“Hợp pháp” là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp luật,
đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận.
1.2.3. Đặc điểm của kiểm toán dự án
Kiểm toán dự án là một thành phần của kiểm toán tài chính bao gồm kiểm toán
bảng khai tài chính, kiểm toán tính tuân thủ, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán hiệu
quả, hiệu năng. Kiểm toán dự án có những đặc điểm chung như sau:
►Đối tượng kiểm toán
Đối tượng của kiểm toán dự án là các Bảng khai tài chính của dự án chứa đựng
những thông tin tổng hợp phản ánh các mối quan hệ kinh tế, pháp lý cụ thể và các báo
cáo khác liên quan đến sự tuân thủ của ban quản lý dự án với các quy định, thủ tục và
chính sách của nhà nước. Theo quy định hiện hành, Báo cáo quyết toán vốn đầu tư là hệ
thống các báo cáo được lập theo chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy chế
quản lý đầu tư hiện hành cũng như các quy định của pháp luật có liên quan phản ánh
thông tin kinh tế, tài chính và những thông tin quan trọng khác trong quá trình đầu tư và
thực hiện dự án. Hệ thống Báo cáo quyết toán vốn đầu tư được quy định và hướng dẫn
một cách cụ thể, rõ ràng tại Thông tư 45/2003/TT-BTC ngày 15 tháng 05 năm 2003 của
Bộ tài chính, hệ thống Báo cáo quyết toán vốn đầu tư bao gồm các bảng khai chính như
sau:
• Báo cáo tổng hợp quyết toán vốn đầu tư hoàn thành.
• Các văn bản pháp lý có liên quan.
• Tình hình thực hiện đầu tư qua các năm.
• Quyết toán chi phí đầu tư để đề nghị quyết toán theo công trình, hạng mục
hoàn thành.
• Tài sản cố định mới tăng.
• Tài sản lưu động bàn giao.

• Tình hình thanh toán và công nợ của dự án.
• Bảng đối chiếu số liệu cấp vốn, cho vay, thanh toán vốn đầu tư.

×