Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.66 KB, 25 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Khái quát về rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Theo nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự kiện
không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám chỉ
về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống không thể
lường trước được, nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể không như chúng ta mong
đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến
và thực tế. Trong lịch sử đã có nhiều quan niệm tranh luận về rủi ro. Theo quan
niệm về rủi ro của Pháp, người ta đơn thuần coi rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt
hại - rủi ro không đối xứng. Quan điểm của Mỹ thì cho rằng rủi ro liên quan đến
cả thiệt hại và may mắn - rủi ro đối xứng. Còn sau đây là một số quan điểm
được chọn lọc từ cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế, nguyên tắc và thực hành” do
Học viện Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993:
- Rủi ro là khả năng xảy ra một số sự cố không may;
- Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ;
- Rủi ro là sự không thể đoán trước một tình huống, một khuynh hướng
dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự toán;
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất;
- Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất.
Những định nghĩa trên đây là các quan điểm khác nhau, tuy nhiên nghiên
cứu các quan điểm này cho thấy giữa chúng có mối quan hệ logic với nhau. Các
định nghĩa đều đề cập đến một sự không chắc chắn mà chúng ta coi là bất ngờ
trong tương lai. Bên cạnh đó, các định nghĩa này cũng ám chỉ những cấp độ hay
mức độ rủi ro khác nhau. Ngoài ra các định nghĩa đều nói đến hậu quả do một
hay nhiều nguyên nhân gây ra. Điều này dường như có mối quan hệ chặt chẽ với
định nghĩa mà chúng ta đã sử dụng trước đó, theo định nghĩa này rủi ro là không
chắc chắn về hậu quả trong một tình huống cụ thể.
Tại Việt Nam, từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Sài Gòn xuất bản năm
2005 giải thích: “Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Và theo


Từ điển Bách Khoa Việt Nam xuất bản năm 2003 thì: “Rủi ro là hậu quả gây
thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của một hành vi mà việc thực hiện không
chỉ phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự. Người thực hiện hành vi phải
chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người kia”. Từ điển Thuật ngữ Kiểm
toán - Kế toán Nhà xuất bản Thống kê xuất bản năm 2002 cho rằng: “Rủi ro là
khả năng bị thua lỗ hay bị tổn hại có thể đo lường được. Rủi ro khác với bất trắc
ở chỗ sự bất trắc không thể đo lường được.”
Trên thực tế, các hoạt động kinh tế thường gặp những rủi ro đặc trưng.
Mỗi ngành nghề có một rủi ro riêng, chẳng hạn: rủi ro hối đoái, rủi ro đầu tư, rủi
ro kinh doanh,… và kiểm toán cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Rủi ro hối đoái là rủi ro do biến động về tỷ giá gây ra. Rủi ro này thường
có đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Doanh
nghiệp có thể gặp rủi ro khi không chắc chắn về một khoản thu nhập hoặc chi
trả do sự biến động về tỷ giá gây ra.
Rủi ro đầu tư là rủi ro khi tiến hành hoạt động đầu tư (như đầu tư vào thị
trường chứng khoán, đầu tư vào thị trường bất động sản,…). Rủi ro đầu tư là
cao khi các nhà đầu tư không lường trước được các khả năng có thể xảy ra và
các nhân tố tác động.
Rủi ro kinh doanh là các khả năng có thể xảy ra khi tiến hành hoạt động
kinh doanh. Bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào cũng có thể xảy ra rủi ro.
Trong lĩnh vực kiểm toán, có khá nhiều loại rủi ro được đề cập đến như:
rủi ro kinh doanh, rủi ro kiểm toán, rủi ro chọn mẫu…
Rủi ro kiểm toán là rủi ro mà KTV sẽ kết luận là các BCTC được trình
bày trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, và do đó một ý kiến chấp
nhận toàn phần sẽ được công bố, trong khi, trên thực tế chúng bị sai sót trọng
yếu.
Rủi ro chọn mẫu và rủi ro không chọn mẫu là hai loại rủi ro có thể ảnh
hưởng đến các bộ phận của rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kinh doanh (engagement risk) là rủi ro mà KTV và công ty kiểm
toán sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng cho dù báo cáo kiểm

toán cung cấp cho khách hàng là đúng, là rủi ro liên quan đến trách nhiệm của
KTV bao gồm ba nhân tố:
- Những vấn đề liên quan đến khách hàng, ví dụ: tình hình tài
chính, khả năng thu lợi nhuận và danh tiếng của khách hàng trong tương lai, đặc
điểm và tính chính trực của ban quản lý và của người chủ doanh nghiệp khách
hàng trong tương lai.
- Những vấn đề liên quan đến kinh doanh, ví dụ: rủi ro chi phí (liệu có bất kỳ lí
do nào cho thất bại trong kiểm toán hay không) như việc thực hiện chi trả các
phí và liệu việc hợp tác của ta với một khách hàng nào đó trong tương lai có gây
tác hại cho hình ảnh của công ty chúng ta xét về mặt chuyên môn hay không.
- Những vấn đề liên quan đến kiểm toán, ví dụ: những khó khăn dự kiến trong
việc thu lượm bằng chứng kiểm toán
Qua đó ta thấy sự khác nhau cơ bản giữa rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh
doanh. Sự kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán là yếu tố chủ yếu của quá trình
kiểm soát rủi ro kinh doanh của công ty kiểm toán. Do đó, trong các loại rủi ro
trên thì rủi ro kiểm toán là rủi ro được đề cập đến nhiều nhất và quan trọng nhất.
Theo Nguyên tắc Kiểm toán Quốc tế Số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán”, trong Mục 9 Liên đoàn Kiểm toán Quốc tế soạn thảo định nghĩa rủi ro
kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải
khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là
các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về
một BCTC mà không biết rằng các báo cáo này có những sai phạm nghiêm
trọng”.
Ở Việt Nam, kiểm toán ra đời tương đối muộn. Tuy nhiên, những chuẩn
mực về kiểm toán được ban hành kịp thời phục vụ cho quá trình phát triển của
kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA – 400) “Đánh giá rủi
ro và kiểm toán nội bộ” đã giải thích rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm
toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét
không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán vẫn còn chứa đựng
những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng,

rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”
Trong thực tế, bất kì cuộc kiểm toán nào cũng chứa đựng và tồn tại rủi ro.
Rủi ro luôn có nguy cơ xảy ra cho dù các kiểm toán viên và công ty kiểm toán
đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc kiểm toán. Trong mọi cuộc kiểm toán, người ta
không đảm bảo chắc chắn 100% các báo cáo tài chính đã kiểm toán không còn
chứa đựng các sai phạm trọng yếu. Vì vậy, trong các cuộc kiểm toán, kiểm toán
viên chỉ có thể kì vọng một mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được và mở
mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được kiểm toán viên sẽ đảm bảo các sai sót
trọng yếu không có cơ hội xảy ra. Do đó khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn
thường được các kiểm toán viên sử dụng.
Ở tất cả các công ty kiểm toán và trong mọi cuộc kiểm toán, vấn đề xác
định rủi ro kiểm toán mong muốn là cần thiết và quan trọng. Có xác định được
rủi ro kiểm toán mong muốn kiểm toán viên mới có những cơ sở để xác định
được mức trọng yếu có thể chấp nhận. Rủi ro kiểm toán luôn được kiểm toán
viên và công ty kiểm toán xác định trước khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm
toán. Xác định rủi ro kiểm toán trước khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán
nhằm mục đích: Tìm hiểu đánh giá sơ bộ về khách hàng, xem xét có thể cung
cấp dịch vụ cho khách hàng và hỗ trợ cho việc lập kế hoạch kiểm toán.
Trong thực tế, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn về mặt quản lý,
về kiểm toán, mà trực tiếp là chi phí kiểm toán (số lượng bằng chứng cần thu
thập). Thậm chí, ngay cả khi bằng chứng kiểm toán đã đủ thì rủi ro kiểm toán
vẫn có khả năng xảy ra. Chi phí kiểm toán (số lượng bằng chứng kiểm toán) và
rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Số lượng bằng chứng
kiểm toán càng lớn thì rủi ro kiểm toán càng thấp và tiến dần về mức rủi ro
kiểm toán mong muốn.
1.1.2 Các loại rủi ro kiểm toán
Thứ nhất, Rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại những sai phạm trong bản thân của
các đối tượng kiểm toán mà chưa tính đến bất kì một sự tác động nào của hoạt
động kiểm toán kể cả hệ thống kiểm soát nội bộ.

Nguyên tắc Kiểm toán Quốc tế Số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”
cho rằng: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của
một loại nghiệp vụ, đối với những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp
với các sai sót ở những số dư, các nghiệp vụ khác (ở đây giả định là không có
các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức
năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh
cũng như trong bản chất của số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” cho rằng: “Rủi ro tiềm tàng là loại rủi ro tiềm ẩn, vốn có do
khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng
những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có
hệ thống kiểm soát nội bộ.”
Như vậy, về bản chất, rủi ro tiềm tàng là mức độ mà KTV ước tính là có
một sai số cao hơn mức có thể chấp nhận trong một bộ phận trước khi xét đến
tính hiệu quả của các quá trình kiểm soát nội bộ về kế toán. Mức độ rủi ro tiềm
tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại
hình kinh doanh và năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Mức rủi ro này
còn tuỳ thuộc vào đặc điểm từng loại tài sản, nghiệp vụ. KTV không tạo ra,
cũng không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ có thể đánh giá chúng.
Rủi ro tiềm tàng có quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng kiểm toán cần
thu thập. Có nghĩa là nếu rủi ro tiềm tàng càng cao thì số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập càng nhiều và ngược lại.
Thứ hai, Rủi ro kiểm soát
Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
không phát hiện, không ngăn chặn và không thể sửa chữa kịp thời các sai phạm
có tính chất trọng yếu. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm có tính
chất trọng yếu. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do
hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hiệu quả do
đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Rủi ro kiểm soát có liên
quan mật thiết đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.

Cũng như rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên không thể tạo ra và kiểm soát được
rủi ro kiểm soát, KTV chỉ có thể thông qua tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ
của khách hàng qua đó đưa ra đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.
Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế Số 25 Mục 14 cho rằng: “Rủi ro
kiểm soát là rủi ro xác định sai, nó có thể xảy ra đối với một số dư tài khoản
hoặc nghiệp vụ và cũng có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra
đơn lẻ hoặc được kết hợp với các sai sót của các số dư, hoặc các nghiệp vụ khác
mà hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp
thời. Rủi ro kiểm soát luôn xuất hiện và khó tránh khỏi những hạn chế có tính
bản chất của bất kì một hệ thống kiểm soát nội bộ nào”
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA – 400) “Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ” cho rằng “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng
yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng
rẽ hoặc gộp lại mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn
chặn hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”
Như vậy rủi ro kiểm soát là mức độ mà KTV ước tính là có sai số cao
hơn mức có thể chấp nhận trong một bộ phận mà cơ cấu kiểm soát nội bộ của
khách hàng không ngăn chặn được. Rủi ro kiểm soát là loại rủi ro có liên quan
đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cơ cấu kiểm soát nội bộ của
khách hàng càng hiệu quả thì rủi ro kiểm soát càng thấp và ngược lại.
Rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập và quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm
toán luôn luôn xuất hiện và khó tránh khỏi do những hạn chế cố hữu của bất kì
hệ thống kiểm soát nội bộ nào.
Thứ 3, Rủi ro phát hiện
Theo cách đơn giản, rủi ro phát hiện là loại rủi ro liên quan đến khả năng
các thủ tục kiểm toán do kiểm toán viên và các công ty kiểm toán đã tiến hành
nhưng không phát hiện được các sai phạm trọng yếu.
Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế Số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán” cho rằng: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát

hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ. Các sai
sót này là có thể là các sai sót nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp
với các sai sót trong số dư các nghiệp vụ khác. Mức rủi ro phát hiện có quan hệ
trực tiếp với những phương pháp của kiểm toán viên.”
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA – 400) “Đánh giá rủi ro
và kiểm soát nội bộ” cho rằng: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng
yếu trong từng nghiệp vụ và từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán
không phát hiện được.”
Những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phát hiện như sau:
Thứ nhất: Các bước kiểm toán không thích hợp. Điều này xảy ra với các
kiểm toán viên thiếu kinh nghiệm hoặc quá trình lập kế hoạch kiểm toán không
được thực hiện một cách đúng đắn, khiến cho việc thực hiện các quy trình kiểm
toán đối với mỗi phần hành trở nên không hợp lí;
Thứ hai: Kiểm toán viên đã tìm được bằng chứng, nhưng do không tìm
được nguyên nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản mục
hoặc nghiệp vụ đó;
Thứ ba: Các báo cáo tài chính bản thân cũng chứa đựng các sai sót,
nhưng sự sai sót đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thông đồng để làm
sai các chính sách làm cho kiểm toán viên càng khó phát hiện hơn các sai phạm.
Rủi ro phát hiện là mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận là bằng chứng
kiểm toán phải thu thập cho một bộ phận sẽ không phát hiện ra các sai số cao
hơn có thể chấp nhận, nếu những sai sót đó tồn tại. Như vậy, rủi ro phát hiện có
nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử
nghiệm do KTV thực hiện. Mức rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu KTV tăng
các thử nghiệm chi tiết trên số dư hoặc nghiệp vụ, mở rộng phạm vi kiểm tra
hoặc tăng cường cỡ mẫu của các thử nghiệm. Do đó, ngược lại với rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu
thập bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý rủi ro phát hiện. Một số rủi ro phát
hiện sẽ thường vẫn xảy ra cho dù có kiểm tra 100% các số dư và các loại nghiệp

vụ vì KTV có thể lựa chọn và áp dụng các phương pháp kiểm toán không phù
hợp, áp dụng sai các phương pháp kiểm toán thích hợp, hoặc giải thích sai hay
nhận định sai các kết quả kiểm toán.
1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro – Mô hình rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện là những bộ phận cấu
thành rủi ro kiểm toán, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là hai loại rủi ro tồn tại độc lập, khách quan, kiểm
toán viên không tạo ra và cũng không thể kiểm soát được chúng. Kiểm toán
viên chỉ có thể thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng
và bằng kinh nghiệm của mình để đánh giá mức độ của chúng. Rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát có mức độ lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào ngành nghề
kinh doanh cũng như môi trường pháp lí mà khách hàng đang hoạt động. Không
những thế, hai loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của các số dư tài
khoản và nghiệp vụ kinh tế đặc thù tương ứng với ngành nghề kinh doanh của
khách hàng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
nên trong các cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thường kết hợp cùng một lúc đánh
giá mức độ của hai loại rủi ro này. Ngược lại, KTV có thể kiểm soát được rủi ro
phát hiện thông qua việc điều chỉnh nội dung, thời gian và phạm vi của các thử
nghiệm. Do vậy, cần phải thiết kế các thủ tục kiểm toán hợp lý để giảm thấp rủi
ro kiểm toán như mức mong muốn với chi phí hợp lý.
Mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện với
rủi ro kiểm toán được thể hiện qua mô hình rủi ro kiểm toán như sau:
DAR = IR x CR x DR (1)
Trong đó:
DAR: Rủi ro kiểm toán
IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát
DR: Rủi ro phát hiện
Các loại rủi ro kiểm toán có thể được đánh giá cụ thể bằng các con số
theo tỷ lệ phần trăm hoặc được đánh giá một cách khái quát theo yếu tố định

tính như: thấp, trung bình, cao.
Hai mô hình trên có cùng bản chất và giá trị song mô hình (2) được ưa
chuộng hơn để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp.
1.1.4 Vai trò của đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được KTV xác định trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA – 400) “Đánh
giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” đã quy định: “Rủi ro kiểm toán được xác định
trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi thực hiện kiểm toán”.
Trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đánh giá tổng thể rủi ro
kiểm toán căn cứ vào hiểu biết của KTV về đặc điểm kinh doanh của khách
hàng cũng như tìm hiểu về ngành nghề, quản lý môi trường kiểm soát và hoạt
động. Sự đánh giá như vậy cung cấp thông tin sơ bộ về chiến lược chung đối
với hợp đồng kiểm toán, nhân sự cần thiết cho nhóm kiểm toán, thời gian kiểm
toán và khuôn khổ đánh giá rủi ro kiểm toán ở từng giai đoạn, từng loại nghiệp
(2)
IRxCR
DAR
Hay DR =
vụ và từng số dư tài khoản và cuối cùng là thiết kế các thủ tục thích hợp cho các
khoản mục trên BCTC
Thực trạng hoạt động tài chính cũng như hiệu quả nghiệp vụ là vấn đề rất
rộng và trên thực tế không thể kiểm toán được tất cả các thông tin đã thu được
và chưa thu được của hoạt động tài chính và nghiệp vụ phải kiểm toán. Mặt
khác, người sử dụng thông tin cũng chỉ quan tâm đến bản chất của thực trạng
hoạt động tài chính và hiệu quả hoạt động. Điều đó dẫn tới tính tất yếu phải lựa
chọn nội dung, phương pháp, thủ tục kiểm toán tối ưu để vừa đánh giá đúng bản
chất đối tượng kiểm toán, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với
giá phí kiểm toán thấp trên cơ sở thực hiện đủ những thủ tục kiểm toán cần
thiết.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 (VSA - 300) “Lập kế hoạch kiểm

toán” cho thấy vai trò của việc đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá trình lập kế
hoạch: “Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo
phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán
được hoàn thành đúng thời hạn” và “khi xây dựng chương trình kiểm toán, KTV
phải xem xét các đánh giá về rủi ro tiềm tang, rủi ro kiểm soát, cũng như mức
độ đảm bảo phải đạt được thông qua thử nghiệm cơ bản”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530 (VSA – 530) “Lấy mẫu kiểm
toán và các thủ tục lựa chọn khác” quy định về cỡ mẫu như sau: “Kiểm toán
phải đảm bảo rủi ro kiểm toán do áp dụng phương pháp lấy mẫu giảm xuống
mức có thể chấp nhận được khi xác định cỡ mẫu. Cỡ mẫu chịu ảnh hưởng bởi
mức rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được càng thấp, thì cỡ
mẫu cần thiết sẽ càng lớn”. Như vậy rủi ro kiểm toán có ảnh hưởng một cách
trực tiếp đến cỡ mẫu đồng thời ảnh hưởng tới quá trình thu thập bằng chứng,
cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả cuộc kiểm toán. Trong quá trình thu
thập bằng chứng kiểm toán, KTV phải sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp
để đánh giá rủi ro tiềm tàng xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được.

×