Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
1. Tên lớp nghiệp vụ/quy trình: ............................................................................................. 41
2. Bộ phận thực hiện lớp nghiệp vụ: .................................................................................... 41
1. Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ làm
trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và lập báo
cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều hành, Giám
đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính, thành viên của bộ
phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ........................................................................... 50
2. Ban quản trị có phong cách sống và làm việc không tốt. ................................................. 50
4. Ngân hàng cố gắng giới hạn phạm vi kiểm toán (trực tiếp hay ép buộc mức phí không
hợp lý) hoặc tìm mọi cách để áp đặt một thời hạn hoàn thành không khả thi. ..................... 50
1. Có những thay đổi đáng kể nào về người ký thư giới thiệu của ngân hàng hay không?
100
2.Chứng khoán của ngân hàng có được mua bán công khai không? Hay nói cách khác,
ngân hàng có giải trình công khai các chứng khoán ngân hàng nắm giữ hay không? (như
chứng khoán của các đơn vị chính quyền, các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm,
các tổ chức công cộng và các tổ chức từ thiện) .............................................................. 100
3.Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ
làm trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và
lập báo cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều
hành, Giám đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính,
thành viên của bộ phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ....................................... 100
4.Có những thay đổi đáng kể nào từ lần gần nhất thực hiện đánh giá tiếp tục chấp nhận
khách hàng về hoạt động kinh doanh (như: khách hàng, sản phẩm, vận chuyển hàng hóa,
đơn đặt hàng…), về môi trường kinh tế và ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, những yêu
cầu luật pháp và các nguyên tắc trong những hoạt động của Ngân hàng? ................... 100
5.Những yếu tố rủi ro sau đây có được đề cập không? .................................................. 101
Mục tiêu và chiến lược............................................................................................128
BẢNG TÌM HIỂU VỀ CÔNG TY ABC ....................................................................... 142
Những miêu tả sơ lược về Công ty ABC ........................................................................ 143
Tìm hiểu sự ảnh hưởng từ những kỳ vọng của những người quản lý tới hoạt động quản
lý của họ ........................................................................................................................... 145
Tìm hiểu cách thức những người quản lý của công ty có thể kiểm soát và đánh giá hoạt
động tài chính của công ty. .............................................................................................. 145
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
1
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VAS Chuẩn mực Kế toán Việt Nam
IFRS Chuẩn mực Kế toán Quốc tế
E Tính có thật
O Tính hiện hữu
C Tính đầy đủ
V Đo lường
R&Q Quyền và nghĩa vụ
M Phương pháp tính giá trị
P&D Phân loại và trình bày
S Trọng yếu
IR Rủi ro tiềm tàng (Rủi ro cố hữu)
CR Rủi ro kiểm soát
AR Rủi ro kiểm toán tổ hợp
DAR Rủi ro kiểm toán mong muốn
IT Công nghệ thông tin
PM Mức độ rủi ro kế hoạch
TE Mức sai sót có thể bỏ qua
SAD Tóm tắt những sai lệch kiểm toán
KTV Kiểm toán viên
BCTC Báo cáo tài chính
Ernst & Young Việt Nam Công ty TNHH Ernst&Young Việt Nam
Y Có
N Không
NS Không trọng yếu
S Trọng yếu
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
2
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty .......................................
Sơ đồ 2: Tổ chức các phòng ban thực hiện kiểm toán ...................................
Sơ đồ 3: Quy trình kiểm toán của Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam . .
1. Tên lớp nghiệp vụ/quy trình: ............................................................................................. 41
2. Bộ phận thực hiện lớp nghiệp vụ: .................................................................................... 41
1. Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ làm
trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và lập báo
cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều hành, Giám
đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính, thành viên của bộ
phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ........................................................................... 50
2. Ban quản trị có phong cách sống và làm việc không tốt. ................................................. 50
4. Ngân hàng cố gắng giới hạn phạm vi kiểm toán (trực tiếp hay ép buộc mức phí không
hợp lý) hoặc tìm mọi cách để áp đặt một thời hạn hoàn thành không khả thi. ..................... 50
1. Có những thay đổi đáng kể nào về người ký thư giới thiệu của ngân hàng hay không?
100
2.Chứng khoán của ngân hàng có được mua bán công khai không? Hay nói cách khác,
ngân hàng có giải trình công khai các chứng khoán ngân hàng nắm giữ hay không? (như
chứng khoán của các đơn vị chính quyền, các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm,
các tổ chức công cộng và các tổ chức từ thiện) .............................................................. 100
3.Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân hàng XYZ
làm trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng về quản lý, kế toán và
lập báo cáo tài chính không? (như: Thành viên ban quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều
hành, Giám đốc tài chính, Kế toán trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính,
thành viên của bộ phận Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)? ....................................... 100
4.Có những thay đổi đáng kể nào từ lần gần nhất thực hiện đánh giá tiếp tục chấp nhận
khách hàng về hoạt động kinh doanh (như: khách hàng, sản phẩm, vận chuyển hàng hóa,
đơn đặt hàng…), về môi trường kinh tế và ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, những yêu
cầu luật pháp và các nguyên tắc trong những hoạt động của Ngân hàng? ................... 100
5.Những yếu tố rủi ro sau đây có được đề cập không? .................................................. 101
i. Quan điểm, thái độ quản lý của ngân hàng............................................101
i. Môi trường nội bộ...................................................................................101
Mục tiêu và chiến lược............................................................................................128
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
3
Luận văn tốt nghiệp
BẢNG TÌM HIỂU VỀ CÔNG TY ABC ....................................................................... 142
Những miêu tả sơ lược về Công ty ABC ........................................................................ 143
Tìm hiểu sự ảnh hưởng từ những kỳ vọng của những người quản lý tới hoạt động quản
lý của họ ........................................................................................................................... 145
Tìm hiểu cách thức những người quản lý của công ty có thể kiểm soát và đánh giá hoạt
động tài chính của công ty. .............................................................................................. 145
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
4
Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hàng năm, tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành nghề
đều tiến hành lập báo cáo tài chính, thông qua đó các nhà quản lý có thể có được cái
nhìn tổng quan về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong 1 năm. Cùng
với thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, những đối tượng cần sử dụng các báo
cáo tài chính của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là các nhà quản lý mà đã mở
rộng ra thành các cơ quan chức năng ,những nhà đầu tư và cả những nhà hoạch định
chiến lược…Mỗi đối tượng sử dụng báo cáo tài chính có những mục tiêu khác nhau
nhưng họ đều có một điểm chung là sử dụng các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
như là một cơ sở đáng tin cậy để đưa ra các quyết định cho mình, do đó các số liệu
được trình bày trên báo cáo tài chính phải đảm bảo được tính chính xác và đầy đủ.
Để đạt được những yêu cầu này thì các báo cáo tài chính cần phải được soát xét về
tính trung thực, hợp lý bởi những người có kinh nghiệm chuyên môn và hoàn toàn
độc lập, đó chính là những kiểm toán viên. Mục đích chung nhất của việc tiến hành
kiểm toán các Báo cáo tài chính là nhằm thỏa mãn một số mục tiêu sau:
• Đảm bảo rằng các số liệu được trình bày trên các Báo cáo tài chính là chính
xác, hợp lý, tuân thủ theo các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam và các Chuẩn
mực Kế toán Quốc tế.
• Phát hiện và sửa chữa, điều chỉnh kịp thời những sai sót, gian lận phát sinh
trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
• Cung cấp cho các nhà đầu tư, các cơ quan chức năng những thông tin xác
đáng về tình hình tài chính cũng như hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị được cổ phần
hóa và được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên do yêu cầu thực tế của việc huy động vốn và một số quyết định của
Nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành nghề đặc biệt như
ngành ngân hàng, chứng khoán…mà một số doanh nghiệp đã phát hành cả báo cáo
tài chính giữa niên độ kế toán bên cạnh các Báo cáo tài chính cuối niên độ thông
thường, bởi vậy nhu cầu kiểm toán các Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngày
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
5
Luận văn tốt nghiệp
càng tăng. Hơn thế nữa hiện nay bên cạnh việc các công ty nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam thì các doanh nghiệp của Việt Nam cũng đang bắt đầu những bước đi đầu
tiên ra thị trường thế giới, do đó các Báo cáo tài chính của những công ty này cần
phải được trình bày chuẩn và chính xác theo những Chuẩn mực Kế toán Quốc tế, tức
là chất lượng của các cuộc kiểm toán đòi hỏi phải được nâng cao hơn cho phù hợp
với những chuẩn quốc tế.
Với mục tiêu hàng đầu là phát hiện và kịp thời chỉnh sửa những sai sót và gian
lận nảy sinh trên các Báo cáo tài chính hay cụ thể hơn là trong những hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng cũng như mức độ tin cậy của các
Báo cáo tài chính, các kiểm toán viên cần phải nắm bắt, đánh giá và quản lý được
những rủi ro kiểm toán tồn tại trong mỗi cuộc kiểm toán bởi bản chất của kiểm toán
là việc quản lý rủi ro. Việc đánh giá và quản lý rủi ro là một phần rất quan trọng
mang tính sống còn cho mỗi cuộc kiểm toán được thể hiện trong mỗi giai đoạn kiểm
toán:
• Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Quá trình đánh giá rủi ro kiểm
toán chủ yếu được thực hiện tập trung ở giai đoạn này nhằm giúp cho các
các kiểm toán viên có thể xác định được phạm vi, quy mô cuộc kiểm toán,
cũng như có thể xác định được các thủ tục kiểm toán cần thực hiện cho mỗi
phần hành.
• Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán: Việc đánh giá được các rủi ro kiểm
toán sẽ giúp cho các kiểm toán viên có thể tiết kiệm thời gian vì đã họ đã
xác định được những khoản mục, phần hành có mức độ rủi ro cao để tập
trung thực hiện các thủ tục kiểm toán được cho là cần thiết, tránh tình trạng
thực hiện các thủ tục kiểm toán không cần thiết đối với những khoản mục có
độ rủi ro thấp gây lãng phí thời gian cũng như chi phí thực hiện.
• Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: Việc đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ một
lần nữa giúp cho các kiểm toán viên có thể đưa ra những kết luận kiểm toán
phù hợp, những ý kiến hỗ trợ tư vấn trong Thư Quản lý cung cấp cho khách
hàng sau mỗi cuộc kiểm toán nhằm mục tiêu vừa cung cấp cho khách hàng
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
6
Luận văn tốt nghiệp
những Báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, vừa đảm bảo mức rủi ro có
thể chấp nhận được cho công ty kiểm toán.
Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam là một thành viên của hãng kiểm toán
nổi tiếng toàn cầu Ernst & Young, do đó toàn bộ quy trình kiểm toán nói chung và
quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán nói riêng áp dụng tại công ty đều lấy từ phương
pháp chuẩn được Ernst & Young toàn cầu thiết kế và thực hiện chung trên toàn cầu.
Trải qua một thời gian dài áp dụng, Ernst & Young đã có những điều chỉnh phù hợp
hơn với những các khách hàng, đồng thời ở từng nước mà cụ thể là ở Việt Nam các
chuyên gia tại đây với những kinh nghiệm làm việc của mình đã luôn thường xuyên
cập nhật những thay đổi, những cải tiến cho phương pháp đánh giá nhằm thích nghi
với môi trường kinh tế và khách hàng tại Việt Nam. Hiện nay, Ernst & Young Việt
Nam đang áp dụng một quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán xuyên suốt, cụ thể trong
từng giai đoạn của cuộc kiểm toán và thường chỉ có các kiểm toán viên cấp cao giàu
kinh nghiệm làm việc cũng như kinh nghiệm chuyên môn đảm nhận, chính vì vậy mà
kết quả đạt được có chất lượng khá cao.
Nhận biết được tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán Báo cáo tài chính, đồng thời có điều kiện được thực tập tại công ty TNHH Ernst
& Young Việt Nam, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm
toán trong Giai đoạn Lập Kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty
TNHH Ernst & Young Việt Nam thực hiện” để làm luận văn tốt nghiệp.
Là một sinh viên chuyên ngành kiểm toán, em muốn thực hiện chuyên đề này
nhằm có được những kiến thức sâu rộng hơn về đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá
trình kiểm toán báo cáo tài chính để củng cố nền tảng kiến thức cơ sở trước khi được
tiến hành thực hiện công việc thực tế. Hơn thế nữa, trong quá trình thu thập tài liệu
để hoàn thành báo cáo, em sẽ có được những hiểu biết thực tế về quy trình đánh giá
rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Ernst & Young
Việt Nam thực hiện, đồng thời từ đó có thể rút ra cho bản thân những bài học quý giá
từ quy trình thực tế của công ty để giúp ích cho công việc sau này.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
7
Luận văn tốt nghiệp
Luận văn tốt nghiệp của em gồm 3 phần chính như sau:
Phần 1: Lý luận chung về rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch
Kiểm toán Báo cáo Tài chính
Trong phần này sẽ giới thiệu những vấn đề thuộc về lý luận của rủi ro Kiểm
toán bao gồm các khái niệm về rủi ro, mối quan hệ giữa chúng, mô hình đánh giá rủi
ro Kiểm toán…
Phần 2: Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong Giai đoạn
Lập Kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty TNHH Ernst &
Young Việt Nam thực hiện
Phần này sẽ giới thiệu những thông tin tổng quan về Công ty TNHH Ernst &
Young Việt Nam đồng thời cũng giới thiệu, so sánh và nhận xét quy trình thực hiện đánh
giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính của Công
ty ABC và Ngân hàng XYZ.
Phần 3: Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong Giai đoạn
Lập Kế hoạch Kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty TNHH Ernst &
Young Việt Nam thực hiện
Phần này sẽ là những nhận xét về quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán của công
ty đối với các khách hàng, bài học kinh nghiệm thu được trong quá trình tìm hiểu.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
8
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG
GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1 Khái niệm về Kiểm toán báo cáo Tài chính
Trong quá trình nhận thức vị trí của Kiểm toán trong hệ thống quản lý, bản
chất của Kiểm toán đã được tìm hiểu thông qua nhiều loại quan niệm. Do đó, Kiểm
toán cũng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng theo Giáo trình Lý
thuyết kiểm toán-Trường Đại học Kinh tế Quốc dân-trang 40 thì: “Kiểm toán là xác
minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống
phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các
kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp
lý có hiệu lực”. Theo đó thì kiểm toán có tác dụng tạo niềm tin cho những người
quan tâm; góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp của các hoạt động tài
chính, đặc biệt là các hoạt động của quản lý, ngoài ra kiểm toán còn góp phần nâng
cao hiệu quả và năng lực quản lý. Tồn tại rất nhiều cách phân loại kiểm toán nhưng
theo đối tượng cụ thể thì kiểm toán bao gồm Kiểm toán Báo cáo Tài chính, Kiểm
toán nghiệp vụ, Kiểm toán liên kết.
1.1.2 Mục tiêu của Kiểm toán báo cáo Tài chính
Với tư cách là một loại hình của Kiểm toán nên mục tiêu của Kiểm toán Tài
chính cũng giống như mục tiêu của Kiểm toán nói chung, đó là thực hiện chức năng
xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 về “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản
chi phối kiểm toán Báo cáo Tài chính” có quy định mục tiêu của kiểm toán Tài chính
như sau: “Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và
công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cở
sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp
luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
9
Luận văn tốt nghiệp
không? Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm
toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin
tài chính của đơn vị.” Trong đó, các khái niệm trung thực, hợp lý cũng được định
nghĩa như sau ở các mục số 8,9 và 10 của Chuẩn mực trên:
“Trung thực: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật nội
dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Hợp lý: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và phù
hợp về không gian, thời gian và sự kiện nhiều người thừa nhận.
Hợp pháp: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp luật, đúng
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).”
Mọi đối tượng, dù là đối tượng của kiểm toán hay kiểm toán tài chính, đều
chứa đựng trong nó những mối quan hệ kinh tế và quan hệ pháp lý phong phú và đa
dạng. Đặc biệt, về bản chất, các ý kiến hay kết luận kiểm toán về báo cáo tài chính
không phải được đưa ra nhằm phục vụ cho bản thân người lập báo cáo hay người xác
minh mà phục vụ trực tiếp cho những người quan tâm đến tính trung thực và hợp lý
của báo cáo tài chính. Vì vậy, kết luận này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ và có
hiệu lực với chi phí kiểm toán ít nhất. Như vậy, việc xác định hệ thống mục tiêu của
kiểm toán báo cáo tài chính một cách khoa học trên cơ sở các mối quan hệ vốn có của
đối tượng và khách thể kiểm toán sẽ giúp cho các kiểm toán viên thực hiện các thủ
tục kiểm toán đúng hướng và hiệu quả.
1.1.3 Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán báo cáo Tài chính
Trong các loại hình kiểm toán thì Kiểm toán tài chính là loại hình đặc trưng
nhất chứa đựng những sắc thái kiểm toán một cách đầy đủ từ khi ra đời cho đến nay.
Theo Giáo trình Kiểm toán tài chính của Nhà Xuất bản Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân năm 2006 thì “Đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính là bảng khai tài chính.
Bộ phận quan trọng của những bảng khai tài chính này là Báo cáo tài chính.”. Chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam số 200, mục 04 đã định nghĩa báo cáo tài chính như sau:
“Báo cáo tài chính: Là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
10
Luận văn tốt nghiệp
của đơn vị. Ngoài ra, các bảng khai tài chính còn gồm có những bảng kê khai có tính
pháp lý khác như Bảng dự toán và quyết toán xây dựng công trình, Bảng kê khai tài
sản, Bảng kê khai thuế…Các bảng khai tài chính này đều chứa đựng những thông tin
được lập tại một thời điểm cụ thể trên cơ sở tổng hợp các tài liệu kế toán và các quy
tắc cụ thể. Do đó, mỗi thông tin về mỗi khoản mục cụ thể trên các bảng khai tài chính
đều mang trong nó những mối quan giữa khoản mục này với khoản mục khác, giữa
số dư của khoản mục này với số phát sinh của các tài khoản, nghiệp vụ tương ứng…
Như vậy khi nói đối tượng của báo cáo tài chính là các bảng khai tài chính là ta đã đề
cập đến mối quan hệ trực tiếp. Tức là để xác minh và bày tỏ ý kiến về bảng khai tài
chính, kiểm toán tài chính không thể tách rời các tài liệu kế toán, các hoạt động kinh
doanh và hoạt động quản lý của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy của từng
khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng trong mỗi số dư, trong các chỉ
tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong các hoạt động tài chính. Trong kiểm toán tài
chính, các kiểm toán viên vừa phải khái quát được những quan hệ trên các bảng khai
tài chính, vừa phải đi sâu phân tích từng mối quan hệ cụ thể để xem xét những hướng
tổng quát và nghiên cứu những nét đặc trưng của việc xác minh và bày tỏ ý kiến về
các bảng khai tài chính, về các mối quan hệ giữa kiểm toán tài chính với kiểm toán
nghiệp vụ, giữa kiểm toán thông tin với kiểm toán tuân thủ. Việc làm này có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc thực hiện chức năng chung của kiểm toán, đồng thời
phân chia công việc kiểm toán thành những phần hành kiểm toán.
1.1.4 Quy trình kiểm toán của Kiểm toán báo cáo Tài chính
Là một loại hình kiểm toán nên trình tự của Kiểm toán tài chính cũng giống
như trình tự kiểm toán nói chung, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: Chuẩn bị kiểm toán,
Thực hành kiểm toán và Kết thúc kiểm toán. Tuy nhiên, do có một số đặc trưng về
đối tượng kiểm toán, về mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán nên trình
tự kiểm toán tài chính cũng có những đặc điểm riêng.
Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán
Bắt đầu từ việc khách hàng gửi thư mời (hoặc lệnh) kiểm toán, các kiểm toán
viên được giao nhiệm vụ sẽ thực hiện việc thu thập thông tin tìm hiểu về khách thể
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
11
Luận văn tốt nghiệp
kiểm toán nhằm phục vụ cho việc soạn thảo hợp đồng kiểm toán và lập kế hoạch
chung cho cuộc kiểm toán. Sau đó, các kiểm toán viên sẽ tìm hiểu sâu hơn về những
thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể thông qua việc thu
thập thông tin, quan sát, phỏng vấn và đánh giá nhằm xây dựng kế hoạch kiểm toán
cụ thể. Để thực hiện những công việc trên, các trắc nghiệm chủ yếu được thực hiện là
trắc nghiệm mức đạt yêu cầu của công việc và trắc nghiệm phân tích (tổng quát).
Không chỉ lập kế hoạch và chuẩn bị những công việc kiểm toán, các kiểm toán viên
được giao nhiệm vụ chuẩn bị kiểm toán phải có những ước lượng về cả phương tiện
và nguồn nhân lực để triển khai kế hoạch kiểm toán trong mối quan hệ với chi phí
kiểm toán, để đảm bảo toàn bộ chương trình kiểm toán được thực hiện đầy đủ và hiệu
quả.
Bước 2: Thực hiện công việc kiểm toán
Trong giai đoạn này, các kiểm toán viên sẽ sử dụng các trắc nghiệm cơ bản là
chủ yếu nhằm xác minh các thông tin được trình bày trên các báo cáo tài chính. Việc
sử dụng những trắc nghiệm này phải tùy thuộc vào kết quả của việc đánh giá tính
hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể mà các kiểm toán viên đã thực
hiện ở bước 1. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng được đánh giá là được
thiết kế và hoạt động không hiệu quả thì những trắc nghiệm cơ bản về tính tin cậy sẽ
được thực hiện ngay với một số lượng mẫu kiểm tra là khá lớn. Nếu ngược lại, những
thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng được đánh giá là
hiệu quả thì những trắc nghiệm mức đạt yêu cầu sẽ được dùng để xác định khả năng
xảy ra sai phạm. Sau đó, những trắc nghiệm về độ tin cậy cũng sẽ được sử dụng
nhưng với số lượng ít nhằm xác định những sai sót có thể có. Nếu những trắc nghiệm
về mức đạt yêu cầu lại cho thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động
không có hiệu quả thì các trắc nghiệm độ tin cậy sẽ được áp dụng với số lượng mẫu
kiểm tra lớn. Quy mô, trình tự và cách thức kết hợp giữa các trắc nghiệm được sử
dụng phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm chuyên môn của các kiểm toán viên.
Bước 3: Hoàn tất công việc kiểm toán
Những kết quả thu được từ việc thực hiện những trắc nghiệm trên sẽ được
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
12
Luận văn tốt nghiệp
tổng hợp và xem xét về tính hợp lý, đồng thời các kiểm toán viên cũng phải xem xét
cẩn thận những ảnh hưởng tới kết luận kiểm toán của những sự việc bất thường,
những nghiệp vụ phát sinh sau ngày lập báo cáo tài chính. Sau khi xem xét những yếu
tố đó, các kiểm toán viên mới được đưa ra kết luận kiểm toán cuối cùng và sau khi
được sự kiểm tra, phê duyệt của các kiểm toán viên cấp trên, công ty kiểm toán mới
được phép phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng.
1.2 TỔNG QUAN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1 Các khái niệm cơ bản về rủi ro Kiểm toán trong Kiểm toán báo cáo Tài
chính
Trước khi đi sâu vào tìm hiểu những khái niệm về rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán Báo cáo Tài chính, ta nên hiểu được thế nào là Rủi ro? Theo Từ điển Bách khoa
toàn thư Việt Nam thì “Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của
một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự.
Người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người khác.
Người nào đã chấp nhận sự rủi ro trong việc thực hiện một hành vi có thể gây thiệt hại
cho mình thì người đó mất quyền khởi tố đòi bồi thường thiệt hại.”
Đi sâu vào lĩnh vực Kiểm toán thì Rủi ro kiểm toán được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau, mang những nét đặc trưng riêng. Theo Giáo trình Lý thuyết
Kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản tháng 1 năm 2005 thì Rủi
ro kiểm toán là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về đối
tượng được kiểm toán. Loại rủi ro được định nghĩa như vậy luôn luôn có thể tồn tại
bởi dù cho cuộc kiểm toán có một kế hoạch được lập chi tiết và chu đáo, được thực
hiện nghiêm chỉnh và thận trọng thì trên thực tế các báo cáo tài chính đã được kiểm
toán của khách hàng hoàn toàn có thể vẫn còn một số sai phạm trọng yếu mà các
kiểm toán viên không phát hiện ra được trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Còn trong sách Kiểm toán-Nhà Xuất bản Tài chính Hà Nội năm 1996 thì lại
định nghĩa về rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro
mà các kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những ý kiến nhận xét không thích
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
13
Luận văn tốt nghiệp
hợp về các báo cáo tài chính của một đơn vị.” Chẳng hạn như việc các kiểm toán viên
đã đưa ra những ý kiến nhận xét khá hoàn hảo cho các báo cáo tài chính của một
công ty khách hàng mà không biết rằng chúng vẫn tồn tại những sai sót trọng yếu.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 thì “Rủi ro kiểm toán là rủi ro
kiểm toán viên và công ty kiểm toán đã ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo
cáo tài chính được kiểm toán còn những sai sót trọng yếu.”
Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều những khái niệm về Rủi ro kiểm toán
nhưng tất cả đều tựu chung lại một ý: Rủi ro kiểm toán là những rủi ro khi các kiểm
toán viên đưa ra những ý kiến không thích hợp về sự trung thực và hợp lý của các
thông tin được trình bày trên các báo cáo tài chính của khách thể kiểm toán.
1.2.2 Vai trò của Rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo
cáo tài chính
Để hiểu rõ hơn về Rủi ro kiểm toán thì ta sẽ tìm hiểu sự khác biệt giữa Rủi ro
kiểm toán và Rủi ro kinh doanh, hai khái niệm rất dễ nhầm khi tìm hiểu những thông
tin về rủi ro của khách thể kiểm toán. Đây là hai loại rủi ro mà các kiểm toán viên sẽ
gặp phải khi thực hiện các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính cho khách hàng. Rủi ro
kiểm toán là rủi ro mà kiểm toán viên xác nhận về tính trung thực của các thông tin
được trình bày trên các báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến kiểm toán là chấp nhận
hoàn toàn trong khi trên thực tế thì trong các báo cáo tài chính đó vẫn còn tồn tại
những sai sót mang tính trọng yếu. Trong khi đó thì Rủi ro kinh doanh là rủi ro mà
kiểm toán viên (hay công ty kiểm toán) phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ kiểm toán
với khách hàng mặc dù các báo cáo kiểm toán mà các kiểm toán viên cung cấp cho
khách hàng là hoàn toàn đúng, ví dụ như trường hợp sau khi thực hiện kiểm toán và
phát hành báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần đối với các thông tin trình bày trên
các báo cáo tài chính của khách hàng thì tình hình hoạt động kinh doanh của khách
hàng gặp vấn đề do thị trường biến đổi hay do các yếu tố khác thì uy tín của công ty
kiểm toán cũng ít nhiều bị ảnh hưởng và thậm chí nếu khách hàng vướng phải những
sự việc nghiêm trọng hơn như phá sản…thì công ty kiểm toán có thể sẽ bị xử phạt
theo luật pháp…Vì vậy, để kiểm soát những Rủi ro kinh doanh cho công ty kiểm toán
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
14
Luận văn tốt nghiệp
cũng như các kiểm toán viên thì cần phải quản lý chặt chẽ rủi ro kiểm toán trong quá
trình thực hiện cuộc kiểm toán cho các khách hàng.
Như vậy là trước hết, rủi ro kiểm toán có vai trò vô cùng quan trọng đối với
việc kiểm soát và giảm thiểu Rủi ro kinh doanh cho các kiểm toán viên và các công
ty kiểm toán. Giảm thiểu được rủi ro kiểm toán thì khả năng tồn tại sai sót trọng yếu
trong các báo cáo tài chính của khách hàng sẽ giảm đi, do đó thì sự hiểu biết của các
kiểm toán về tình hình tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của khách
hàng sẽ sát với thực tế hơn, như vậy thì những kết luận kiểm toán sẽ chính xác hơn
và các kiểm toán viên có thể nắm rõ hơn tình hình trong tương lai của khách hàng sẽ
giúp làm kiểm toán viên có thể xác định và kiểm soát được mức độ Rủi ro kinh
doanh của mình.
Ngoài ra, Rủi ro kiểm toán cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong Kiểm
toán Báo cáo tài chính và trong giai đoạn Lập kế hoạch kiểm toán. Nhờ xác định
được những rủi ro đó mà các kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể dựa vào đó
để ra quyết định xem có nên thực hiện kiểm toán cho khách hàng hay không, nếu
thực hiện thì có ảnh hưởng gì đến uy tín của công ty hay không…Trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán, việc xác định mức độ rủi ro kiểm toán của khách hàng sẽ hỗ trợ
những cơ sở tin cậy để dựa vào đó các kiểm toán viên có thể xác định được mức độ
rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính và
xác định được nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ bản cho các cơ sở dẫn
liệu đó nhằm xác định được phương pháp tiếp cận kiểm toán (Theo mục 14-Chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam số 400).
1.2.3 Các yếu tố cấu thành Rủi ro Kiểm toán
1.2.3.1 Rủi ro tiềm tàng
• Khái niệm
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 thì “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro
tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính
chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có
hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
15
Luận văn tốt nghiệp
Ngoài ra, ở một số sách về kiểm toán, các khái niệm về rủi ro tiềm tàng cũng
được phân tích khá rõ. Điển hình là trong cuốn sách Kiểm toán-Nhà Xuất bản Thống
kê năm 1993, định nghĩa rủi ro tiềm tàng đã được đề cập dưới cái tên Rủi ro cố hữu
như sau: “Là tính nhạy cảm của các báo cáo tài chính đối với sai sót nghiêm trọng,
với giả sử không có các quá trình kiểm soát nội bộ”. Theo đó, nếu các kiểm toán viên
kết luận rằng báo cáo tài chính có khả năng sai số rất cao và không quan tâm đến quá
trình kiểm soát nội bộ thì họ có thể kết luận rằng mức độ rủi ro tiềm tàng trong
trường hợp này là rất cao. Bên cạnh đó, cuốn Kiểm toán của Nhà xuất bản Tài chính
Hà Nội năm 1996 cũng cho rằng “Rủi ro tiềm tàng là các khả năng trong báo cáo tài
chính có những sai sót nghiêm trọng hay những điều không bình thường, trước khi
xem xét tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ đơn vị được kiểm toán”. Việc
phân tích và đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng của khách hàng là một trong những
công việc vô cùng quan trọng mà các kiểm toán viên phải làm trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán bởi mức độ rủi ro này sẽ cho phép các kiểm toán viên đưa ra các
quyết định trong việc lựa chọn các thủ tục kiểm toán tiếp theo, xác định phạm vi,
khối lượng công việc, số lượng nhân viên và chi phí kiểm toán cần thiết.
• Những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng
Khi xem xét đến rủi ro tiềm tàng, theo Chuẩn mực Kiểm toán số 400 thì các
kiểm toán viên cần phải quan tâm đến ảnh hưởng của những yếu tố sau:
• Trên phương diện báo cáo tài chính:
o Sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban giám đốc của khách hàng
o Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của những người lập nên báo cáo tài
chính của khách hàng như kế toán trưởng, các nhân viên kế toán khác và các
kiểm toán viên nội bộ.
o Những áp lực bất thường đối với ban Giám đốc, kế toán trưởng của khách
hàng…
o Đặc điểm và những nhân tố ảnh hưởng tới lĩnh vực, hoạt động kinh doanh của
khách hàng như: Quy trình công nghệ sản xuất, phạm vi thị trường, các nhà
cung cấp chủ yếu, đặc điểm thị trường…
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
16
Luận văn tốt nghiệp
• Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
o Khả năng báo cáo tài chính vẫn còn tồn tại những sai sót trọng yếu
o Xác định số dư, số phát sinh của các tài khoản và các nghiệp vụ kinh tế trên
các bảng khai tài chính của khách hàng…
o Khả năng xảy ra tình trạng tài sản bị biển thủ và mất mát trong quá trình hoạt
động
o Mức độ phức tạp và việc ghi chép các nghiệp vụ trọng yếu, đặc biệt là những
nghiệp vụ bất thường…
1.2.3.2 Rủi ro kiểm soát
• Khái niệm
Loại rủi ro thứ 2 ta cần tìm hiểu là Rủi ro kiểm soát, “đây là loại rủi ro đại
diện cho sự đánh giá về cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả đối với
việc ngăn ngừa hoặc phát hiện sai sót hay không và mục đích của kiểm toán viên là
đánh giá ở một mức thấp hơn mức tối đa (100%) như một phần của kế hoạch kiểm
toán. Cơ cấu kiểm soát nội bộ càng hiệu quả, yếu tố rủi ro có thể được phân bổ rủi ro
kiểm soát càng thấp” (Theo cuốn Kiểm toán-Nhà Xuất bản Thống kê năm 1993).
Hiểu theo nghĩa đơn giản thì “Rủi ro kiểm toán là các khả năng mà hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị không phát hiện và ngăn chặn được các gian lận và các
sai sót”-Kiểm toán-Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội năm 1996. Mỗi doanh nghiệp đều
có sự tồn tại của hoạt động kiểm soát nội bộ nhưng không phải doanh nghiệp nào
cũng có ý thức xây dựng các hoạt động đó một cách có hệ thống và có hiệu quả. Do
đó, rủi ro kiểm soát là vấn đề khó tránh khỏi bởi những hạn chế mang tính cố hữu của
hệ thống kiểm soát nội bộ đã được đề cập ở phần trên.
Nhận thức được sự quan trọng của yếu tố rủi ro kiểm soát trong việc cấu thành
nên Rủi ro kiểm toán, để giúp cho các kiểm toán viên có sự hiểu biết rõ ràng hơn về
loại rủi ro này, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam đã định nghĩa Rủi ro kiểm soát như
sau: “Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống
kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.”
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
17
Luận văn tốt nghiệp
• Những nhân tố ảnh hưởng đến Rủi ro kiểm soát
Đánh giá mức độ của rủi ro kiểm soát về bản chất chính là việc đánh giá tính
hiệu quả trong việc thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh
nghiệp, tức là đánh giá xem hệ thống đó có khả năng phát hiện được những sai sót và
gian lận trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp hay không.Các nhân tố ảnh
hưởng đến việc đánh giá rủi ro kiểm soát bao gồm:
Tính chất phức tạp và mới của các loại giao dịch, các loại nghiệp vụ nảy sinh ở
doanh nghiệp: Các hoạt động kiểm soát đều được thiết kế dựa trên sự ra đời của các
nghiệp vụ, do đó nghiệp vụ càng phức tạp đặc biệt là những nghiệp vụ mới xuất hiện
thì khả năng kiểm soát của hệ thống kiểm soát đối với những nghiệp vụ đó càng thấp
vì nó đòi hỏi có thời gian để hoàn thiện hệ thống cho phù hợp với thực tế.
Nguồn nhân lực của hệ thống kiểm soát nội bộ: Một hệ thống kiểm soát được
thiết kế một cách hiệu quả thì chưa chắc đã được vận hành tốt nếu không có yếu tố
con người. Nếu số lượng nhân viên của hệ thống kiểm soát nội bộ không đủ hoặc có
trình độ không cao thì các hoạt động kiểm soát cũng không mang lại hiệu quả quản lý
như mong muốn, bởi vậy đây là một yếu tố cần được xem xét kỹ lưỡng.
Các trình tự và các thủ tục kiểm soát nội bộ: Việc tìm hiểu và đánh giá các
thủ tục này sẽ giúp cho các kiểm toán viên có thể đánh giá được tính hiệu quả của hệ
thống kiểm soát, xác định được những nguy cơ rủi ro có thể nảy sinh do sự sơ hở của
các thủ tục kiểm soát gây ra...
1.2.3.3 Rủi ro phát hiện
• Khái niệm
Nếu 2 loại rủi ro trên đây đều hoàn toàn độc lập với sự tác động của KTV thì
Rủi ro phát hiện lại liên quan trực tiếp đến những thủ tục kiểm toán do các KTV thực
hiện bởi “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các KTV sẵn sàng chấp nhận vì việc không
tìm thấy các sai sót nghiêm trọng trong các báo cáo tài chính bằng các thể thức kiểm
toán, với giả sử hệ thống kiểm soát nội bộ đã không phát hiện ra chúng và sửa chữa
chúng”-Cuốn Kiểm toán- Nhà xuất bản Thống kê năm 1993. Còn cuốn Kiểm toán do
Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội xuất bản năm 1996 thì “Rủi ro phát hiện là các khả
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
18
Luận văn tốt nghiệp
năng mà các bước kiểm toán không phát hiện được các sai sót nghiêm trọng hiện có
trong các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ”. Và trong Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 400 thì lại định nghĩa Rủi ro phát hiện là “Rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc
tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không
phát hiện được.”
Như vậy thì Rủi ro phát hiện xác định bằng chứng mà các KTV có kế hoạch thu
thập. Khi rủi ro phát hiện được chấp nhận ở mức thấp thì các KTV sẽ phải chú trọng hơn
đến những bằng chứng thu thập về cả số lượng và chất lượng và ngược lại.
• Những nhân tố ảnh hưởng đến Rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện được xác định từ 3 loại rủi ro là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro kiểm toán mong muốn, do đó sự thay đổi về mức độ của từng loại rủi ro
trên cũng sẽ làm thay đổi mức độ của rủi ro phát hiện. Khi các rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát càng cao thì để đảm bảo một mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn, các
KTV phải thực hiện các thử nghiệm cơ bản sao cho có thể giảm thiểu được mức độ
rủi ro phát hiện, như vậy là giữa Rủi ro phát hiện và Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm
soát có tỷ lệ nghịch với nhau.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 đã xác định rằng “Mức độ rủi ro phát
hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên”. Ngoài ra,
mức độ rủi ro phát hiện cũng có mối quan hệ tỷ lệ thuận với phạm vi, các phương
pháp kiểm toán được áp dụng trong quá trình kiểm toán. Nếu một cuộc kiểm toán có
phạm vi rộng, sử dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp một cách chặt chẽ thì
mức độ rủi ro phát hiện được xác định là ở mức độ thấp bởi khả năng các KTV
không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu được xác định là thấp hơn và ngược
lại.
1.2.4 Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành rủi ro kiểm toán
Qua việc tìm hiểu các nhân tố cấu thành nên rủi ro kiểm toán, ta có thể thấy
Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm soát khác với Rủi ro phát hiện về bản chất bởi Rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh và môi
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
19
Luận văn tốt nghiệp
trường quản lý của doanh nghiệp cũng như phụ thuộc vào bản chất, độ phức tạp của
các tài khoản và các loại nghiệp vụ. Hay nói cách khác thì 2 loại rủi ro này tồn tại
khách quan với các hoạt động kiểm toán, dù muốn hay không thì các KTV cũng
không thể nào tác động được vào chúng mà chỉ có thể đánh giá chúng có xác đáng và
phản ánh đúng thực tế hay không? Và nếu những đánh giá đó của các KTV là sát
thực, phản ánh đúng mức độ của các loại rủi ro này thì các KTV sẽ có một cơ sở
vững chắc nhằm thiết kế các thử nghiệm cơ bản để có thể giảm thiểu rủi ro phát hiện
xuống mức chấp nhận được để đảm bảo một mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn đã
xác định trước.
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa trên các kết quả đánh giá rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát của các kiểm toán viên được thể hiện trong ma trận dưới đây:
Bảng 1.1 Ma trận rủi ro kiểm toán
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
(Phụ lục số 01-Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
Thông qua ma trận này, ta có thể thấy mối quan hệ giữa rủi ro phát hiện và
những đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của các kiểm toán viên là mối
quan hệ tỷ lệ nghịch, tức là: Nếu các kiểm toán viên đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát của khách thể kiểm toán là lớn thì mức độ rủi ro phát hiện dự kiến
của họ sẽ thấp để hạn chế và duy trì rủi ro kiểm toán ở mức độ thấp và ngược lại nếu
mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được các kiểm toán viên đánh giá ở mức
độ thấp thì các kiểm toán viên có thể dự kiến rủi ro phát hiện ở mức độ cao mà vẫn
đảm bảo cho rủi ro kiểm toán được duy trì ở mức chấp nhận được.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán sẽ được thể hiện trên mô hình sau
đây:
DAR = IR * CR * DR
Trong đó:
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
20
Luận văn tốt nghiệp
• DAR: Rủi ro kiểm toán mong muốn (Mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận là
các báo cáo tài chính có thể có sai sót trọng yếu sau khi cuộc kiểm toán hoàn
thành và đã đi đến một nhận xét chấp nhận hoàn toàn.
• IR: Rủi ro tiềm tàng
• CR: Rủi ro kiểm soát
• DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình này được sử dụng nhằm khá nhiều mục đích:
Thứ nhất, nó giúp cho các KTV đánh giá được xem kế hoạch kiểm toán mình
thiết kế đã đạt yêu cầu về tính hợp lý hay chưa?
Tức là sau khi đã lập được kế hoạch kiểm toán cụ thể, xác định được mức độ
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của doanh nghiệp, đồng thời dựa vào các thử
nghiệm kiểm toán được thiết kế sử dụng trong quá trình thực hiện các KTV cũng đã
xác định được mức độ rủi ro phát hiện. Từ phía KTV thì dựa vào mô hình này, KTV
sẽ xác định được xem mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn là bao nhiêu và mức độ
đó đã phù hợp với yêu cầu của cuộc kiểm toán hay chưa?
Thứ hai,để có được một kế hoạch kiểm toán có hiệu quả, các KTV sẽ dựa vào
mô hình trên để xác định mức độ rủi ro phát hiện cần đảm bảo. Ở trường hợp này thì
các KTV đã xác định ngay từ đầu một mức độ mong muốn của rủi ro kiểm toán, do
đó sau khi đánh giá được mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thì các KTV sẽ
xác định được mức độ rủi ro phát hiện cần đạt được. Như vậy ở đây, mô hình sẽ
được sử dụng để xác định mức độ rủi ro phát hiện để từ đó xác định được những thử
nghiệm cơ bản và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thiết để đạt được mức rủi ro
phát hiện như đã định. Số lượng bằng chứng thích hợp có quan hệ tỷ lệ nghịch với
mức độ rủi ro phát hiện, do đó nếu muốn giảm thiểu mức độ rủi ro phát hiện thì các
KTV phải lựa chọn và thu thập những bằng chứng kiểm toán với số lượng lớn hơn và
thích hợp hơn.
Thứ 3, các KTV thường dùng mô hình này để xác định mối quan hệ giữa các
rủi ro khác nhau và mối quan hệ giữa chúng với bằng chứng. Việc hiểu được những
mối quan hệ này là rất cần thiết để cho các KTV lập kế hoạch kiểm toán để có thể thu
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
21
Luận văn tốt nghiệp
thập được những bằng chứng thích hợp.
1.3 ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.3.1 Rủi ro kiểm toán mong muốn
Theo cuốn Kiểm toán của Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội thì rủi ro kiểm toán
mong muốn là rủi ro được xác định một cách chủ quan mà kiểm toán viên sẵn sàng
cho rằng các báo cáo tài chính không được trình bày trung thực sau khi cuộc kiểm
toán được hoàn thành và đi đến một nhận xét chấp nhận hoàn toàn. Hay nói một cách
khác thì rủi ro kiểm toán mong muốn là mức độ sai sót có thể chấp nhận được tồn tại
trên báo cáo tài chính sau khi đã được kiểm toán, đồng thời nó cũng biểu hiện mức
độ tin cậy của các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính sau khi được kiểm
toán. Đối với mỗi báo cáo tài chính, mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn là 0% là
một mức độ hoàn hảo nhưng sẽ tốn một mức chi phí rất lớn bởi vậy cùng với việc so
sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được, các kiểm toán viên sẽ ước lượng một
mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn phù hợp để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo
tài chính đã được kiểm toán. Trong quá trình tiến hành kiểm toán cho khách hàng,
mục đích cuối cùng của các kiểm toán viên là làm sao để giảm được mức độ rủi ro
mong muốn, đặc biệt là trong những trường hợp mà mức độ tin cậy của những người
bên ngoài sử dụng báo cáo đối với các báo cáo là cao và khi khả năng khách hàng
kiểm toán gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo tài chính đã kiểm toán được
công bố là cao.
1.3.2 Rủi ro tiềm tàng
Để có thể đánh giá được mức độ rủi ro tiềm tàng của khách hàng, các kiểm
toán viên cần phải thu thập những thông tin dưới đây để thực hiện phân tích:
Phân tích trình độ và tác phong quản lý của Ban quản trị khách hàng: Ở công
việc này, các kiểm toán viên sẽ tiến hành các cuộc phỏng vấn và kiểm tra những hoạt
động quản lý của Ban Quản trị của doanh nghiệp để qua đó có những đánh giá về
trình độ và hiệu quả quản lý của bộ phận này trong doanh nghiệp. Nếu Ban quản trị
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
22
Luận văn tốt nghiệp
thiếu liêm chính, trình độ thấp thì khả năng báo cáo tài chính có những sai sót trọng
yếu là rất lớn, như vậy thì các kiểm toán viên sẽ phải chịu rủi ro kinh doanh cao.
Phân tích bản chất kinh doanh của khách hàng: Những đặc điểm và những
nhân tố ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ dẫn đến việc xuất
hiện rủi ro tiềm tàng đối với một số tài khoản nhất định của doanh nghiệp. Những
ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như nhu cầu thị trường, mục tiêu phát triển của
doanh nghiệp, các quy định của pháp luật…cũng là nhân tố có thể làm nảy sinh
những gian lận tiềm tàng trong các hoạt động của doanh nghiệp. Việc phân tích này
sẽ giúp cho các kiểm toán viên lường được những rủi ro tiềm tàng từ đặc điểm ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
Phân tích bản chất, nội dung của các khoản mục được trình bày trên các báo
cáo tài chính: Mỗi khoản mục đều có những đặc trưng riêng, liên quan đến những
nghiệp vụ cụ thể, do đó các kiểm toán viên phải tìm hiểu từng khoản mục và các
nghiệp vụ có liên quan để có thể xác định được mức độ sai sót, những điểm dễ xảy ra
sai sót để tập trung làm rõ và ước lượng được gần đúng nhất những khả năng xảy ra
sai sót ở các khoản mục.
Tìm hiểu bản chất hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ trong đơn vị: Kế toán
là bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng hạch toán, ghi chép các nghiệp vụ của doanh
nghiệp và cũng là bộ phận tham gia trực tiếp vào việc lập nên báo cáo tài chính cho
doanh nghiệp nên nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc làm xuất hiện những sai sót
tiềm tàng cho các nghiệp vụ và các khoản mục được trình bày trên các bảng khai tài
chính của khách hàng…Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp
cũng không thể nào đạt được các mục tiêu quản lý của nó một cách hoàn hảo bởi
trong nó luôn tồn tại những hạn chế tiềm tàng như: mối quan hệ giữa chi phí và lợi
ích thu được, phần lớn các thủ tục được thiết kế cho các nghiệp vụ thường xuyên,
khả năng về sự thông đồng giữa các nhân viên bên trong và bên ngoài đơn vị…đây
cũng là một rủi ro tiềm tàng mà các kiểm toán viên cần chú ý.
Ngoài những yếu tố trên, các kiểm toán viên cũng phải quan tâm đến những
những yếu tố khác như: kết luận từ những lần phân tích đánh giá trước, mối quan hệ
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
23
Luận văn tốt nghiệp
giữa doanh nghiệp với các bên đối tác bên ngoài, tính nhạy cảm với sự tham ô…để
đưa ra dự đoán của mình.
1.3.3 Rủi ro kiểm soát
Để có thể đánh giá Rủi ro kiểm soát của khách thể kiểm toán, trước hết các
kiểm toán viên phải thu thập được những thông tin về việc thiết kế và hoạt động của
hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp nhằm có những đánh giá ban đầu về rủi
ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ
kinh tế chủ yếu. Rủi ro kiểm soát của doanh nghiệp thường được các kiểm toán viên
đánh giá ở mức độ cao nếu họ nhận thấy rằng:
• Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ
• Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả
• Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu
quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
(Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
Và nếu trong các trường hợp sau thì các kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro kiểm soát ở
mức thấp:
• KTV có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ được
thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu.
• KTV có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá
mức độ rủi ro kiểm soát.
(Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
Sau khi đã có những đánh giá ban đầu đó, các KTV phải thực hiện các thử
nghiệm kiểm soát như: kiểm tra các chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế, phỏng vấn,
quan sát thực tế việc thực hiện hay kiểm tra việc thực hiện các thủ tục kiểm soát…để
có những bằng chứng xác thực về tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trên 2
phương diện, đó là Thiết kế và Thực hiện:
• Về mặt thiết kế: tức là hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có được thiết kế
cụ thể, chặt chẽ và hiệu quả hay không, có thể phát hiện và ngăn chặn những sai
sót, gian lận trong các hoạt động hay không.
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
24
Luận văn tốt nghiệp
• Về mặt thực hiện: tức là từng thủ tục kiểm soát được thiết kế cho hệ thống có
được thực hiện một cách nghiêm túc và bài bản hay không.
Cuối cùng, các KTV sẽ phải tập hợp các kết quả thử nghiệm và những bằng chứng
thu được nhằm xem xét lại đánh giá ban đầu có hợp lý hay không để có những điều
chỉnh cho phù hợp.
1.3.4 Rủi ro phát hiện
Nhằm đánh giá được mức độ rủi ro phát hiện của khách hàng, trước hết các
KTV phải đánh giá được mức độ Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm soát của khách
hàng. Đồng thời, các KTV cũng phải xác định được mức độ Rủi ro kiểm toán mong
muốn, tức là khả năng vẫn tồn tại những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính đã
được kiểm toán, nhằm từ đó xác định được mức độ Rủi ro phát hiện mà các KTV cần
phải đảm bảo trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán. Nói chung, trong mọi trường
hợp thì việc giảm thiểu rủi ro phát hiện là một mục tiêu xuyên suốt của quá trình
kiểm toán. Để thực hiện mục tiêu này, các KTV cần chú ý đến những vấn đề dưới
đây:
• Nội dung thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác nhận thông
tin từ bên ngoài độc lập với đơn vị có có giá trị cao hơn là thu thập tài liệu trong
nội bộ đơn vị; hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư với
thủ tục phân tích.
• Lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục kiểm tra số dư hàng tồn kho cuối
năm được thực hiện vào cuối niên độ kế toán có giá trị cao hơn là thực hiện kiểm
tra vào một thời điểm khác và phải điều chỉnh;
• Phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác minh cỡ mẫu kiểm tra rộng hơn là hẹp.
(Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400)
1.4 QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN
LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.4.1 Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 thì “Kế hoạch kiểm toán tổng
thể là việc cụ thể hóa kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp cận chi tiết về nội
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
25