Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong Hát phường vải Nghệ Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 215 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ MAI HOA

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ GIỚI TÍNH
TRONG HÁT PHƢỜNG VẢI NGHỆ TĨNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

VINH – 2010
LỜI CAM ĐOAN


2

Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là của riêng tơi. Các cơng trình
nghiên cứu khác có liên quan và đƣợc trích dẫn trong Luận án có chú thích rõ ràng ở
phần tài liệu tham khảo. Mọi tƣ liệu, kiến giải, kết luận là của bản thân, không sao chép
từ bất kì một tài liệu nào. Nếu có gì sai sót tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
Vinh, ngày 20 tháng 06 năm 2010
Ngƣời viết

Nguyễn Thị Mai Hoa

MỤC LỤC
trang
Lời cam đoan
Mục lục



2
3


3

Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÁT PHƢỜNG
VẢI NGHỆ TĨNH
1.1. Giao tiếp và hội thoại
1.2. Hành động nói
1.3. Về ngơn ngữ và giới tính
1. 4. Về ngơn ngữ và văn hố
1.5. Phƣơng ngữ xã hội
1.6. Hát ví phƣờng vải Nghệ Tĩnh và việc nghiên cứu đặc điểm ngơn ngữ
giới tính
1.7. Tiểu kết
Chƣơng 2 : GIỚI TÍNH VAI GIAO TIẾP THỂ HIỆN QUA TỪ XƢNG HÔ
TRONG HÁT PHƢỜNG VẢI
2.1. Vai giao tiếp trong hát phƣờng vải
2.2. Giới tính thể hiện qua hệ thống từ xƣng hô trong hát phƣờng vải
2.3. Tiểu kết
Chƣơng 3: NGƠN NGỮ GIỚI TÍNH THỂ HIỆN QUA MỘT SỐ HÀNH
ĐỘNG NĨI TRONG HÁT PHƢỜNG VẢI
3.1. Dẫn nhập
3.2. Hành động nói trong một số bƣớc hát của cuộc hát phƣờng vải lề lối
3.3. Tiểu kết

Chƣơng 4: GIỚI TÍNH VAI GIAO TIẾP THỂ HIỆN QUA CÁCH SỬ DỤNG
NGÔN TỪ TRONG HÁT PHƢỜNG VẢI
4.1. Cách dùng một số lớp từ đặc trƣng về giới
4.2. Cách dùng hệ thống biểu tƣợng nói về giới
4.3. Cách dùng hệ thống từ ngữ chỉ thời gian, không gian
4.4. Cách dùng nghệ thuật chơi chữ và dẫn ngữ
4.5. Tiểu kết
KẾT LUẬN
DANH MỤC NHỮNG BÀI BÁO, CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. CDDC : ca dao dân ca

4
5
6
17
17
26
29
34
37
40
55
58
58
70
95
97

97
104
141
144
144
153
161
177
193
195
198
199


4

2. DCNT: Dân ca Nghệ Tĩnh
3. DCQH: Dân ca quan họ
4. HĐN: hành động nói
5. HPV: hát phƣờng vải
6. HPVTL: Hát phƣờng vải ở Trƣờng Lƣu
7. Sp: Ngƣời tham gia vào hội thoại
8. Sp1: Vai nói
9. Sp2: Vai nghe
10. TXH: từ xƣng hô

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Tổng quát năm lớp hành động nói của Searle 1979 (theo Yule 1996)

27


Bảng 1.2: Các đặc trƣng của loại hình văn hố gốc nông nghiệp (Theo Trần Ngọc
Thêm 1977)

36


5

Bảng 2.1: Phân loại lời hát phƣờng vải theo vai giao tiếp qua các chặng hát
Bảng 2.2: Quan hệ tƣơng tác vai giao tiếp qua các cặp từ xƣng hô đầy đủ
Bảng 2.3: Tổng hợp các cặp từ xƣng hô trống từ chỉ ngơi
Bảng 3.1: Hành động nói trong hát phƣờng vải xét theo giới tính vai giao tiếp
Bảng 4.1: Tổng hợp số liệu lớp từ ngữ về giới trong hát phƣờng vải
Bảng 4.2: Tổng hợp lớp từ có ý nghĩa định danh nói về giới trong hát phƣờng vải
Bảng 4.3: Tổng hợp lớp từ chỉ quan hệ thân tộc nói về giới
Bảng 4.4: Tổng hợp lớp từ chỉ ngoại hình nói về giới
Bảng 4.5: Tổng hợp lớp từ chỉ tài năng, phẩm chất, phong thái theo giới tính
Bảng 4.6: So sánh lớp từ chỉ công việc gắn với giới tính
Bảng 4.7: Tổng hợp hệ thống biểu tƣợng theo vai giao tiếp trong hát phƣờng vải
Bảng 4.8: Tổng hợp từ ngữ biểu thị thời gian trong hát phƣờng vải

60
82
88
98
143
144
146
147

149
150

153
161
169

Bảng 4.9: Tổng hợp từ ngữ biểu thị không gian trong hát phƣờng vải

177

Bảng 4.10: Tổng hợp các phƣơng tiện, biện pháp tu từ trong hát phƣờng vải

179

Bảng 4.11: Tổng hợp các biện pháp chơi chữ trong hát phƣờng vải

188

Bảng 4.12: Tổng hợp dẫn ngữ trong hát phƣờng vải

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Hát ví phƣờng vải (HPV) là một thể loại đặc sắc trong kho tàng thơ ca dân
gian xứ Nghệ vốn vô cùng phong phú, đa dạng. Gắn với mơi trƣờng diễn xƣớng, có
nguồn gốc từ hát đối đáp của nam nữ thanh niên trong lao động sản xuất, dần trở thành
đối đáp giao duyên nam nữ, HPV là một trong những hình thức sinh hoạt văn hố tinh


6


thần một thời của ngƣời xứ Nghệ, phản ánh sâu sắc văn hố đặc trƣng xứ Nghệ. Xuất
phát từ hồn cảnh giao tiếp này, các vai giao tiếp trong HPV có thể quy về hai giới: vai
nam và vai nữ. Theo đó, đặc trƣng ngơn ngữ giới tính cũng thƣờng chi phối trực tiếp tới
nội dung và hình thức biểu hiện lời ca của các vai giao tiếp. Mặt khác, ở một mức độ nhất
định, ngơn ngữ giới tính trong HPV cũng chịu ảnh hƣởng của đặc trƣng văn hoá xứ
Nghệ.
1.2. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về ca dao dân ca (CDDC) nói chung, HPV nói riêng,
các nhà nghiên cứu thƣờng tập trung quan tâm khai thác ở góc độ văn học. Hƣớng nghiên
cứu từ góc độ ngơn ngữ học là một hƣớng nghiên cứu ít đƣợc chú ý tới.
Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu đã vận dụng lí thuyết ngơn ngữ học xã hội
và lí thuyết dụng học vào việc khai thác giá trị của thơ ca dân gian. Nhờ đó, các giá trị
ngơn ngữ của thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh, của HPV Nghệ Tĩnh đã đƣợc soi xét trên một số
bình diện từ nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù vậy, các cơng trình nghiên cứu đã có vẫn
chƣa đặt ra vấn đề tìm hiểu đặc trƣng ngơn ngữ giới tính trong các loại hình văn học
nghệ thuật nói chung cũng nhƣ trong HPV nói riêng; mối quan hệ giữa ngơn ngữ và
giới tính vẫn là một lĩnh vực mới mẻ và số công trình nghiên cứu cịn khiêm tốn. Chƣa
có cơng trình nào bàn chun về đặc điểm ngơn ngữ giới tính trong HPV Nghệ Tĩnh.
Vì vậy, đây vẫn cịn là một hƣớng đi khá mới mẻ, hấp dẫn.
1.3. Với những kết quả đã đạt đƣợc, lí thuyết ngơn ngữ học xã hội và lí thuyết
dụng học đang ngày càng khẳng định mối quan hệ giữa ngơn ngữ và giới tính, giữa
ngơn ngữ giới tính và văn hố. Nhƣ vậy, việc nghiên cứu, xác định yếu tố giới tính
trong ngơn ngữ đối đáp nam nữ của HPV cũng sẽ góp phần tìm hiểu đặc trƣng ngơn
ngữ, văn hố và con ngƣời xứ Nghệ. Và cơng việc này càng có ý nghĩa hơn khi đây
vẫn là một mảng đề tài chƣa có những cơng trình nghiên cứu chun sâu.
Chính ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu yếu tố giới tính trong HPV và tính
mới mẻ, hấp dẫn của vấn đề này là cơ sở để chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Đặc
điểm ngơn ngữ giới tính trong hát phường vải Nghệ Tĩnh".
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Về vấn đề quan hệ giữa giới tính và ngơn ngữ



7

Quan hệ giữa giới tính và ngơn ngữ đã và đang là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
lĩnh vực chuyên mơn trong xã hội. Nó khơng cịn là lĩnh vực riêng của các nhà ngôn
ngữ học và những nhà chuyên mơn về ngơn ngữ mà cịn đƣợc nhìn rộng ra theo cách
tiếp cận ngôn ngữ - xã hội liên quan đến hàng loạt vấn đề khác nhƣ sinh học, địa vị, vai
trị trong gia đình cũng nhƣ trong xã hội của mỗi giới. Tính xã hội của vấn đề cịn thể
hiện ở sự đông đảo, đa dạng của giới chuyên môn đã và đang quan tâm nghiên cứu yếu
tố giới tính trong ngơn ngữ nhƣ: các nhà ngơn ngữ học, các phóng viên, cơng chức,
biên tập viên, các nhà quản lí, các nhà giáo dục học, tâm lí học, sử học, xã hội học, luật
sƣ... Theo đó, phƣơng pháp nghiên cứu và trọng tâm phân tích cũng khác nhau. Những
ngƣời nghiên cứu khơng chun về ngơn ngữ có thiên hƣớng tập trung vào một số hiện
tƣợng nhƣ sự định kiến về giống, sự thiếu cân đối trong việc sử dụng từng cặp, lối diễn
tả nam giới và nữ giới, tính vơ hình của nữ giới trong ngơn ngữ, hoặc tập trung vào kết
cấu của những diễn ngơn mang tính kì thị giới. Ngƣợc lại, các nhà ngôn ngữ học lại sử
dụng các phƣơng pháp tiếp cận chuyên ngành (phƣơng pháp ngôn ngữ học so sánh,
phƣơng pháp ngôn ngữ học lịch sử, phƣơng pháp phân tích diễn ngơn...) để khảo sát,
nghiên cứu những biểu hiện giới tính trong ngơn ngữ thể hiện trên một số phƣơng diện:
âm vị, từ vựng, ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ... [55, tr. 27, 28]. Để có căn cứ lí luận
cho việc triển khai các nội dung của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới một số kết
quả nghiên cứu về vấn đề quan hệ gữa giới tính và ngơn ngữ trong lĩnh vực ngôn ngữ
học.
Những phát hiện về sự khác biệt trong ngơn ngữ giữa nam và nữ đã có từ lâu,
nhƣng phải đến đầu thế kỉ XX, ấn tƣợng về sự khác biệt này mới thực sự hình thành rõ
nét nhờ mơt số cơng trình nghiên cứu chun sâu. Đó là sự khác nhau xét về mặt âm vị,
cách dùng từ, phát âm mới đƣợc phát hiện qua kết quả quan sát, khảo cứu của
E.d.Sapir đối với hiện tƣợng sử dụng luân phiên một số âm vị khác nhau giữa nam và
nữ trong tiếng Yana Inndian; của O.Jesperson về sự khác biệt trong từ vựng và phong

cách của nam và nữ khi giao tiếp bằng tiếng Anh; của Yuan RenZhao, Chen Songling
khi nghiên cứu về tiếng Trung Quốc... Sự khác nhau xét về mặt ngữ pháp phải kể đến
các nghiên cứu của Mary Haas (tiếng Koasati - Mĩ), Ralph Fasold (tiếng Kurux - Ấn


8

Độ)… Theo từng mức độ nhất định, các nghiên cứu đều khẳng định những biểu hiện
khác biệt rõ rệt trong ngôn ngữ của giới nam và giới nữ trên các bình diện: từ vựng,
ngữ âm, ngữ pháp. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn tập trung khảo sát và chỉ ra sự
phân biệt đối xử về giới tính thể hiện trong ngôn ngữ nhƣ: sự định kiến về giống, tính
vơ hình của nữ giới trong ngơn ngữ, kết cấu của những diễn ngơn mang tính phân biệt
đối xử về giới tính, sự phân biệt đối xử về giới tính trong xã hội theo quan niệm “nam
tơn nữ ti”. Có thể kể đến cơng trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học nhƣ: Allen
Nilsen, B. Thorne, C.Kramarac và N. Henley... (Dẫn theo [93, tr. 146-155]).
Một khía cạnh khác cũng đƣợc quan tâm là vấn đề phong cách ngôn ngữ mang
yếu tố giới tính. Ngƣời có cơng đóng góp đáng kể trong nghiên cứu phong cách ngôn
ngữ nữ giới là nhà ngôn ngữ học Mĩ Robin Lakoff. Từ những khảo sát về cách sử dụng
tiếng Anh của phụ nữ trung lƣu trong môi trƣờng bà sống, Lakoff (1975) đã đƣa ra giả
thuyết về ngôn từ của phụ nữ trung lƣu: về âm, có khuynh hƣớng lên giọng ở cuối câu
khẳng định và thƣờng sử dụng những biến thể ngữ âm uy tín; về từ vựng, nữ dùng
những từ làm nhẹ ý/hoặc nhấn mạnh nhiều; về cú pháp, thƣờng dùng những câu hỏi
kèm theo câu khẳng định và những câu cực kì lịch sự... Theo Lakoff, phong cách ngơn
từ mà phái nữ có khuynh hƣớng sử dụng để duy trì bản sắc nữ giới đã tạo cho ngƣời
nghe một cái nhìn khơng hay về khả năng của ngƣời nói và làm cho phái nữ bị thiệt
thòi trong giao tiếp xã hội (dẫn theo [89, tr.14, 15]). Những giả thuyết của bà đã đƣa
đến nhiều cuộc tranh luận sôi nổi và nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong hơn hai thập
kỉ theo tinh thần hoặc tiếp thu, phát triển, hoặc chỉ ra những điểm cần phải tiếp tục bàn
luận để có cái nhìn toàn diện và sâu sát hơn. Ngoài ra phải kể đến một số kết quả
nghiên cứu của W.Labov (1970), P. Trudghill (1972) với những kết luận quan trọng về

phong cách ngơn ngữ giới tính: "Ở phong cách thận trọng phụ nữ ít dùng biến thể phi
chuẩn hơn nam, và mẫn cảm với mơ hình uy tín hơn nam" [100, tr.187]; "Mơ hình khác
biệt theo giới tính khác với chuẩn mực thông thƣờng cho thấy một sự biến đổi ngôn
ngữ đang xảy ra: nữ trung lƣu đi tiên phong trong việc dùng các dạng thức chuẩn mực
cịn nam cơng nhân đi tiên phong trong việc dùng các dạng thức quy chuẩn" [162, tr.
207].


9

Ở Việt Nam, thời gian gần đây, lĩnh vực nghiên cứu ngơn ngữ giới tính đã bắt đầu
đƣợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn
đề cơ bản (1999), từ những khác biệt trong ngơn ngữ giới tính xét trên hai mặt: tiền đề
lí thuyết và kết quả khảo sát thực tế, tác giả Nguyễn Văn Khang đề cập tới vấn đề ngơn
ngữ và giới tính trên cơ sở xem xét và phân tích các vấn đề cụ thể: sự phân biệt đối xử
về giới tính thể hiện trong ngơn ngữ; phong cách ngôn ngữ của mỗi giới, v.v… và đƣa
ra một số kết luận: Cùng một vấn đề nhƣng cách diễn đạt của nam giới thƣờng "mạnh
mẽ”,“khẳng định/phủ định một cách dứt khoát”, nữ giới thƣờng chọn cách diễn đạt
"dài" và "uyển chuyển hơn”; nam giới "thích dùng các câu khẳng định, yêu cầu, ra
lệnh" một cách “thẳng thắn”, “công khai” và do đó “mệnh lệnh của nam giới thƣờng
chứa đựng cả quyền lực bắt phải phục tùng” thì nữ giới lại "ƣa dùng những câu phối
hợp xin - yêu cầu - ra lệnh”, thể hiện yêu cầu một cách “lịch sự”, “kín đáo”, “bỏ ngỏ
sự khẳng định”… chính vì vậy, "cách diễn đạt của nữ giới lại gây ấn tƣợng mạnh và
trong nhiều trƣờng hợp đạt hiệu quả cao hơn nam giới”. Đồng thời khẳng định rằng
"yếu tố giới tính là sự tồn tại có thực trong giao tiếp ngơn ngữ” từ hai chiều: chiều tác
động của giới tính đến sự lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp và chiều thơng qua giao
tiếp yếu tố giới tính đƣợc bộc lộ [93, tr. 144-168]. Trƣớc đó, trong bài "Sự bộc lộ giới
tính trong giao tiếp ngơn ngữ” (1996), tác giả đã xem xét yếu tố giới tính thơng qua
ứng xử giao tiếp trên cơ sở hai góc độ: ngơn ngữ nói về mỗi giới và ngơn ngữ của mỗi
giới. Khi đề cập tới ngơn ngữ nói về mỗi giới, tác giả chỉ đƣa ra một nhận xét duy nhất

là những từ nhất định chỉ dùng cho giới này hoặc giới kia mà thơi [92, tr. 176-186].
Từ góc độ nghiên cứu hiện tƣợng phân biệt giới tính của ngƣời sử dụng ngôn ngữ
trong tiếng Nhật, tác giả Nguyễn Thị Việt Thanh (1999) đã đƣa ra 5 tiêu chí phân biệt
ngơn ngữ của nam giới và nữ giới dựa trên đặc điểm quan trọng là ngơn ngữ nữ giới
Nhật có tính mềm mại và tính chuẩn mực, cụ thể là: (1) Sự khác biệt trong sử dụng từ
để gọi giữa nam giới và nữ giới mà đặc quyền sử dụng thuộc về giới nam, nếu nữ giới
dùng sẽ bị đánh giá là xấc xƣợc; (2) Sự "mềm mại" trong ngôn ngữ nữ giới đƣợc thể
hiện trong việc sử dụng vốn từ vựng tiếng Nhật, cụ thể là nữ giới hay dùng từ thuần
Nhật dễ hiểu, còn nam giới lại thƣờng dùng từ Hán - Nhật có tính trang trọng; (3) Việc


10

sử dụng thán từ ở cuối câu cũng có sự phân biệt về giới tính thể hiện qua hiện tƣợng
nam giới thƣờng thêm vào cuối câu những từ cảm thán, tình thái từ tạo nên cảm giác
mạnh mẽ, dứt khốt; (4) Nữ giới tuân thủ các quy định về sử dụng kính ngữ chặt chẽ
hơn nam giới; (5) Cách phát âm của nữ giới Nhật đƣợc ngƣời Nhật coi là chuẩn hơn
nam giới. Hay nói cách khác, nữ giới phát âm rõ ràng, khơng nuốt âm, biến âm trong
lời nói (Dẫn theo [149, tr. 57-59]).
Trong một cơng trình nghiên cứu yếu tố giới tính trong cách xƣng gọi của trẻ em
trƣớc tuổi đến trƣờng ở Hà Nội, Hà Tây, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình đã đi đến kết
luận: trẻ em nữ dùng nhiều biến thể chuẩn hơn trẻ em nam, trẻ em xƣng và gọi khơng
"nhầm giới". Cịn các tác giả Vũ Thị Thanh Hƣơng (1999), Vũ Tiến Dũng (2002) lại
quan tâm nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ giới tính trên cơ sở chỉ ra ngơn ngữ đặc trƣng
của từng giới cũng nhƣ mối quan hệ giữa giới tính và lịch sự, và cùng chung nhận định:
mối quan hệ giữa giới tính và ứng xử lịch sự khơng đơn giản mà là tƣơng liên phức tạp
với các tham số xã hội tình huống khác, trong đó khơng chỉ có giới, mà cả tuổi tác,
nghề nghiệp của ngƣời nói, mối tƣơng liên về quyền và khoảng cách xã hội giữa ngƣời
nói và ngƣời nghe; từ đó rút ra kết luận: xu hƣớng chung là nữ lịch sự hơn nam; và nữ
giới thƣờng nhấn mạnh đến quan hệ quyền lực hơn nam giới, ngƣợc lại, nam giới

thƣờng nhấn mạnh đến quan hệ thân hữu nhiều hơn [44, tr. 172; 85, tr. 17-30].
Từ phƣơng diện nghiên cứu sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ qua cứ liệu tiếng
Anh và tiếng Việt, Trần Xuân Điệp (2005) lại tập trung phân tích khía cạnh phân biệt
đối xử trên cơ sở giới tính trong ngơn ngữ. Đối với nữ giới, sự kì thị giới tính đƣợc
xem xét qua các vấn đề: phạm trù giống trong ngữ pháp và quan hệ của nó với phạm
trù giới (về mặt sinh học); thói quen đánh dấu về giống, đặc biệt là đối với danh từ tác
nhân chỉ ngƣời; sự thiếu cân đối về mặt ngữ nghĩa giữa các từ chỉ nam giới và các từ
chỉ nữ giới; sự kì thị giới tính trong các tập qn gọi tên/xƣng hơ và sự rập khn về
giới tính trong ngơn ngữ. Đối với nam giới, sự kì thị giới tính đƣợc đề cập tới thơng
qua việc phân tích 3 hình thức thể hiện: những cách sử dụng thể hiện tính loại trừ
giống, những cách sử dụng thể hiện tính hạn chế giống, sự rập khuôn tiêu cực về nam
giới [55, tr. 57-162].


11

Việc điểm lại các cơng trình nghiên cứu đã có cho thấy ngơn ngữ giới tính đang
dần trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều
của các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà ngôn ngữ học và những ngƣời quan tâm tới
vấn đề ngơn ngữ và giới tính. Dựa trên những cứ liệu đƣợc thu thập một cách chính xác
và có hệ thống mơ hình khác biệt theo giới tính trong các cộng đồng ngôn ngữ và các
hoạt động khảo sát cụ thể, xác thực về việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của một số
nhóm đối tƣợng cụ thể, các nhà nghiên cứu đều khẳng định sự tồn tại có thực của yếu
tố giới tính trong giao tiếp ngơn ngữ và bƣớc đầu đƣa ra những kết luận, lí giải về một
số điểm khác biệt cơ bản trong ngôn ngữ giao tiếp của giới nam và giới nữ.
2.2. Về vấn đề ngơn ngữ giới tính trong hát phƣờng vải Nghệ Tĩnh
Từ khoảng giữa thế kỉ XX trở về sau này, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã
có một số cơng trình có giá trị về thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh, tiêu biểu là: Nguyễn
Chung Anh với Hát ví Nghệ Tĩnh (1958); Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao với Hát
giặm Nghệ Tĩnh (1962, 1963); Ninh Viết Giao với các cơng trình Về văn học dân gian

Nghệ Tĩnh (1982), Hát phƣờng vải Nghệ Tĩnh (1993), Về văn hoá xứ Nghệ (2003); Vi
Phong với Dân ca Nghệ Tĩnh (2000)... Trong lĩnh vực ngơn ngữ học đã có một số nhà
nghiên cứu quan tâm tới việc khai thác giá trị thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh: Nguyễn Nhã
Bản (chủ biên) với Bản sắc văn hoá của ngƣời Nghệ Tĩnh (2001), Cuộc sống của thành
ngữ, tục ngữ trong kho tàng ca dao ngƣời Việt (2003); Ngơ Văn Cảnh với Đặc trƣng
hình thức của các thể thơ dân gian Nghệ Tĩnh (Luận án TS, 2004)… Ngồi ra, có khá
nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu văn học dân gian, các nhà ngơn ngữ học bàn về
văn hố dân gian xứ Nghệ đăng trên các tạp chí chun ngành.
Từ các góc độ nghiên cứu với nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau, những
ngƣời quan tâm tới văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh đã khai thác nét đặc sắc về nội dung,
nghệ thuật của các loại hình văn học dân gian mang đậm màu sắc văn hố xứ Nghệ.
Một số cơng trình đã đề cập sơ lƣợc tới vấn đề giới tính trong CDDC (vai giao tiếp,
hình tƣợng nhân vật nữ...). Chẳng hạn nhƣ trong Hát giặm Nghệ Tĩnh (1963), tác giả
Nguyễn Đổng Chi đã phân loại hát giặm vè và hát giặm nam nữ. Tuy nhiên, việc xác


12

định hát giặm nam nữ chỉ giới thuyết về chủ đề, hình thức của các bài hát giặm, chƣa
đặt ra vấn đề giới tính vai giao tiếp.
Ngƣời đầu tiên thực sự quan tâm tới giới tính vai giao tiếp trong HPV là nhà
nghiên cứu văn hoá dân gian Ninh Viết Giao. Trong Tiểu luận về HPV, tác giả đã đề
cập tới yếu tố giới tính khi phân tích nguồn gốc HPV, giới thiệu lề lối cuộc hát và chân
dung các nghệ nhân phƣờng vải. Về nguồn gốc HPV, theo tác giả, ban đầu là thể hát ví
gắn với nghề kéo vải của phụ nữ, sau phát triển, mở rộng dần thành tục hát đối đáp
giữa nam và nữ, trở thành một hình thức sinh hoạt văn hố - văn nghệ đặc sắc của
nhiều vùng quê xứ Nghệ. Giới thiệu thể thức, thủ tục cuộc hát, tác giả mô tả hoạt động
của các vai giao tiếp đối đáp là phƣờng nam, phƣờng nữ, đồng thời sắp xếp lời hát
thành các chặng, các bƣớc theo giới tính vai giao tiếp (nam hát, nữ hát; nam hỏi, nữ
hỏi…). Trong phần giới thiệu chân dung các nghệ nhân (các nhà nho, các nghệ nhân

dân gian), tác giả đã quan tâm tới yếu tố giới tính khi phân tích, phác hoạ chân dung
của các nghệ nhân phƣờng vải. Đó là các nhà nho "mẫn tiệp, nhanh trí, un bác, nhiệt
thành", có hồi bão, chí khí hơn ngƣời. Còn các "nghệ nhân tại gia" lại đem đến cho
HPV dấu ấn đậm nét qua nhiều giai thoại gắn với tên tuổi của họ(1). So sánh giữa các
vai giao tiếp, tác giả đã nêu một số nhận xét về các nữ nghệ nhân phƣờng vải nhƣ có
"cách phơ diễn, đối phó nhanh nhạy, đối chọi, tấn cơng tài tình", ln "giành thế chủ
động", do vậy "nhiều phen họ làm cho một số vị có tên tuổi trong làng khoa bảng sững
sờ thua cuộc” [I, tr. 135].
Kết quả của các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố cho thấy: (i) Hƣớng nghiên cứu
về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính ở Việt Nam vẫn cịn là một lĩnh vực mới mẻ, số
lƣợng cơng trình nghiên cứu chƣa nhiều. Việc nghiên cứu, khảo sát ngơn ngữ giới tính chủ
yếu đang tập trung ở một số nhóm đối tƣợng, trên một số địa bàn nhất định và trong môi
trƣờng giao tiếp sinh hoạt. (ii) Hƣớng nghiên cứu chung về CDDC xứ Nghệ chủ yếu tập
trung vào các đặc điểm hình thức, những giá trị nội dung của các thể loại ca dao, vè, hát
giặm, hát ví… Các cơng trình nghiên cứu đã có chƣa đặt ra vấn đề tìm hiểu đặc trƣng
(1)

Trong dân gian còn lƣu truyền nhiều giai thoại về tài hát ví phƣờng vải của các nghệ nhân dân gian nhƣ cô Sạ,
cô Cúc, cô Nhẫn, bà Dũng Thơn, bà cháu Ban ... [I, tr. 134]


13

ngơn ngữ giới tính trong hình thức nghệ thuật dân gian đặc sắc này. Tuy nhiên, với những
kết quả đã đạt đƣợc, các cơng trình nghiên cứu đã có mang ý nghĩa gợi mở, cung cấp cơ sở
lí luận và một số tƣ liệu quan trọng cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đặc điểm ngơn
ngữ giới tính trong HPV Nghệ Tĩnh.
3. ĐỐI TƢỢNG, NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngơn ngữ giới tính thể hiện qua

lời hát của vai nam/nữ trong HPV Nghệ Tĩnh.
3.2. Nguồn tƣ liệu
Tƣ liệu đƣợc sử dụng phục vụ quá trình nghiên cứu là những lời HPV đã đƣợc
sƣu tầm và tập hợp trong cuốn Hát phƣờng vải của Ninh Viết Giao (2002). Ngoài ra,
các tƣ liệu từ hai văn bản: Hát phƣờng vải ở Trƣờng Lƣu của các tác giả Vi Phong,
Thƣ Hiền (1997) và Dân ca Nghệ Tĩnh của tác giả Vi Phong (2000) đƣợc dùng với
mục đích đối chiếu, so sánh, liên hệ, mở rộng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung xem xét, so sánh ngơn ngữ lời HPV theo giới tính vai giao
tiếp với hai nhóm tƣ liệu: lời nam và lời nữ; mơ tả đặc điểm ngôn ngữ của các vai giao
tiếp nam/nữ trên một số phƣơng diện nhƣ: từ xƣng hô, các hành động nói đóng vai trị
chủ đạo trong một số bƣớc hát, cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp, phƣơng tiện
nghệ thuật. Từ đó rút ra những kết luận bƣớc đầu về những điểm tƣơng đồng và khác
biệt trong ngôn ngữ của vai giao tiếp nam/nữ. Vấn đề so sánh, đối chiếu kết quả nghiên
cứu HPV Nghệ Tĩnh với CDDC các vùng miền hoặc các thể hát ví khác trong kho tàng
thơ ca dân gian xứ Nghệ cần đƣợc thực hiện bằng một cơng trình nghiên cứu khác có
quy mơ lớn hơn. Với khả năng và điều kiện có hạn, ngƣời viết khơng đặt ra ở luận án
này.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Kết hợp lí thuyết dụng học về giao tiếp và lí thuyết ngơn ngữ học xã hội về giới
tính, luận án khảo sát và xác định những đặc điểm ngôn ngữ mang đặc trƣng giới tính


14

trong HPV Nghệ Tĩnh. Từ đó góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về văn hoá giao tiếp
xứ Nghệ và về con ngƣời xứ Nghệ từ góc nhìn lí thuyết ngơn ngữ giao tiếp và giới tính.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể đƣợc đặt ra là:

- Khảo sát, xác định, phân tích cứ liệu cụ thể (các lời HPV đƣợc xác định theo
giới tính), trên cơ sở đó xem xét biểuừ hiện đặc điểm ngơn ngữ giới tính các vai giao
tiếp trên một số phƣơng diện: từ xƣng hơ, các hành động nói trong một số bƣớc hát,
cách thức sử dụng từ ngữ và một số biện pháp, phƣơng tiện tu từ.
- Tìm hiểu những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong ngơn ngữ HPV đƣợc hình
thành dựa trên cơ sở khác biệt về giới tính.
- Bổ sung kết quả khảo sát, đánh giá tƣ liệu cho việc nghiên cứu văn hoá xứ
Nghệ, con ngƣời xứ Nghệ qua HPV.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lí thuyết dụng học và lí thuyết ngơn ngữ
học xã hội, với đối tƣợng là nguồn tƣ liệu văn học (hát ví phƣờng vải), do vậy, phƣơng
pháp chủ đạo đƣợc sử dụng trong cơng trình nghiên cứu bao gồm: thống kê, miêu tả,
phân tích, quy nạp, so sánh.
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng để thống kê nguồn tƣ liệu trên cơ sở tập
hợp, phân loại những lời HPV theo các nhóm: nhóm lời hát nam/ nhóm lời hát nữ; các
cặp từ xƣng hơ gắn với các vai giao tiếp nam/nữ; các hành động nói, các lớp từ ngữ,
các phƣơng tiện nghệ thuật đƣợc phân bố trong lời hát của từng vai giao tiếp nam/nữ.
Với kết quả thống kê mang tính định lƣợng cụ thể, đây là phƣơng pháp đóng vai trị
quan trọng, tạo ra một số căn cứ thực tiễn để có đƣợc những đánh giá định tính bảo
đảm tính thuyết phục hơn.
- Phƣơng pháp miêu tả đƣợc sử dụng kết hợp phƣơng pháp định lƣợng để giới
thiệu sự khác biệt về vị trí (khách/chủ) của các vai giao tiếp nam/nữ gắn với từng bƣớc,
từng chặng trong HPV; sự khác biệt trong cách lựa chọn từ xƣng hơ, trong biểu đạt
hành động nói, sự lựa chọn các từ ngữ, các phƣơng tiện, biện pháp nghệ thuật...


15

- Phƣơng pháp phân tích và quy nạp đƣợc sử dụng phối hợp trong phân tích diễn
ngơn với nguồn tƣ liệu đã lựa chọn, từ đó quy nạp thành các kết luận. Chẳng hạn nhƣ

phân tích một số lời hát của các vai giao tiếp nam/nữ để đƣa ra kết luận về đặc điểm
ngôn ngữ của mỗi giới trong xƣng hơ, trong thực hiện các hành động nói .v.v…
Phƣơng pháp này góp phần tạo tính logic, chặt chẽ trong lập luận.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu đƣợc sử dụng trong hầu hết các công đoạn của
luận án, từ khâu phân loại, khảo sát, phân tích, miêu tả, kết luận…nhằm chỉ ra những
điểm tƣơng đồng và khác biệt trong ngôn ngữ HPV của các vai giao tiếp nam/ nữ. Do
vậy, đây là phƣơng pháp quan trọng góp phần hình thành những nhận định cơ bản về
đặc điểm ngôn ngữ của mỗi giới trong hoạt động giao tiếp HPV.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ngôn ngữ HPV xét từ
phƣơng diện giới tính vai giao tiếp, tức là xem xét một vấn đề mới (ngơn ngữ giới tính)
trên một đối tƣợng cũ (HPV), do vậy, nội dung nghiên cứu của luận án bảo đảm tính
mới mẻ, khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu khác, và dự kiến sẽ có những
đóng góp sau:
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Góp phần làm rõ một số vấn đề thuộc phƣơng diện lí luận ngơn ngữ có liên quan
tới ngữ nghĩa, ngữ dụng - văn hố nhƣ: từ xƣng hơ từ góc độ giới tính, hành động nói
gắn với các ngữ cảnh giao tiếp, các lớp từ gắn với đặc trƣng giới tính...
- Góp thêm cứ liệu trong lĩnh vực nghiên cứu về giới tính trong ngơn ngữ. Cung
cấp căn cứ lí luận để làm rõ thêm một số vấn đề nêu trong các cơng trình nghiên cứu về
HPV đã đƣợc cơng bố nhƣ: cách phân chia các chặng hát, bƣớc hát và thủ tục của một
cuộc HPV; môi trƣờng diễn xƣớng của HPV và vấn đề khơng gian, thời gian; giới tính
vai giao tiếp và quan hệ chủ/khách trong HPV...
- Khẳng định và bổ sung thêm những nhận định về đặc trƣng văn hố mang dấu
ấn giới tính của vùng đất Nghệ Tĩnh, của con ngƣời Nghệ Tĩnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn


16


- Cung cấp tƣ liệu cho các nhà nghiên cứu ngơn ngữ, các nhà nghiên cứu văn hố
dân gian, các nghiên cứu sinh có đề tài nghiên cứu liên quan tới yếu tố giới tính trong
ngơn ngữ thơ ca dân gian cũng nhƣ nghiên cứu chung về thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh.
- Bổ sung thêm tƣ liệu cho việc giảng dạy, học tập các thể thơ dân gian, các nội
dung liên quan tới nghệ thuật sử dụng từ ngữ (các lớp từ đặc trƣng, hệ thống biểu
tƣợng nghệ thuật, các phƣơng tiện biện pháp nghệ thuật…).
- Khẳng định đóng góp của các nghệ nhân nam / nữ phƣờng vải trong việc tạo nên
giá trị của văn hoá xứ Nghệ.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm có 4 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và một số vấn đề về hát phƣờng vải Nghệ Tĩnh
Nội dung chƣơng đề cập tới một số vấn đề lí luận ngơn ngữ bao gồm: giao tiếp và
hội thoại, hành động nói, mối quan hệ giữa ngơn ngữ và giới tính, ngơn ngữ và văn
hố.
Phần cuối chƣơng giới thiệu khái quát về HPV Nghệ Tĩnh và việc xác định, phân
loại tƣ liệu lời HPV căn cứ vào đặc điểm ngơn ngữ giới tính.
Chương 2: Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua từ xƣng hô trong hát phƣờng vải
Nội dung chƣơng tập trung giới thiệu về vai giao tiếp, liên quan nhƣ sự tƣơng tác
và quan hệ liên cá nhân giữa các vai giao tiếp; đồng thời phần cuối của chƣơng tập
trung giới thiệu hệ thống từ xƣng hơ thể hiện đặc điểm ngơn ngữ giới tính trong HPV.
Qua đó rút ra một số nhận xét, đánh giá về một số nét văn hoá của ngƣời Nghệ Tĩnh
thơng qua giao tiếp trong HPV: thơng minh, dí dỏm, tự tin, bản lĩnh.
Chương 3: Ngơn ngữ giới tính thể hiện qua một số hành động nói trong hát
phƣờng vải
Nội dung chƣơng tập trung giới thiệu một số nhóm hành động nói chính đƣợc sử
dụng trong HPV: nhóm hành động biểu hiện, nhóm hành động bộc lộ, nhóm hành động
điều khiển, nhóm hành động ƣớc kết. Từ việc thống kê, phân loại các hành động nói
ứng với một số bƣớc trong cuộc HPV, nội dung chƣơng tập trung phân tích, lí giải một



17

số hành động nói chính trong các bƣớc hát chào hát mừng, hát hỏi, hát đố hát đối, hát
mời và hát xe kết.
Chương 4: Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ trong hát
phƣờng vải
Nội dung chƣơng này chủ yếu phân tích cách sử dụng hệ thống từ ngữ, biểu tƣợng
mang đặc trƣng giới; cách sử dụng các biện pháp, phƣơng tiện nghệ thuật của các vai
giao tiếp, qua đó giới thiệu một số nét đặc trƣng ngơn ngữ giới tính trên cơ sở đối chiếu
cách sử dụng ngôn từ giữa các vai giao tiếp.

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ HÁT PHƢỜNG VẢI NGHỆ TĨNH
1.1. GIAO TIẾP VÀ HỘI THOẠI
1.1.1. Giao tiếp và giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp (communication) là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng đồng để
truyền đạt một thông tin nào đó. Đối với xã hội lồi ngƣời, con ngƣời có thể giao tiếp
với nhau bằng nhiều phƣơng tiện, trong đó, phƣơng tiện ngơn ngữ (bao gồm cả ngơn
ngữ nói và ngôn ngữ viết) là phƣơng tiện quan trọng nhất.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là đối tƣợng thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu với
những mối quan tâm khác nhau; và do đó, cũng đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo Berge 1994 (Dẫn theo [6, tr. 18-21], giao tiếp đƣợc hiểu theo một số cách sau:
Hiểu theo cách đơn giản và chung nhất, giao tiếp là q trình thơng tin diễn ra
giữa ít nhất là hai ngƣời giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình
huống nhất định. Cách định nghĩa này phù hợp với các cuộc trao đổi bằng lời trong
cuộc sống thƣờng nhật của con ngƣời, do đó nó liên quan tới xã hội học.
Hiểu theo cách hiểu có tính chất chun mơn, giao tiếp đƣợc định nghĩa nhƣ một
thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp đƣợc phát ra trong những ngữ cảnh



18

và tình huống khác nhau. Theo cách hiểu này, giao tiếp là cách gọi chung cho tất cả
các hành động ngôn ngữ trong xã hội.
Theo một cách định nghĩa khác, khái niệm giao tiếp đƣợc giải thích thơng qua
tính từ "thuộc về giao tiếp" hay "có tính giao tiếp": Một tín hiệu là có tính giao tiếp nếu
nó nhằm báo cho ngƣời nhận về một cái gì đó mà cho đến lúc bấy giờ ngƣời ấy chƣa
biết. Theo đó, giao tiếp đƣợc xem xét có sự phân biệt trong quan hệ một bên là ngƣời
phát (ngƣời nói, ngƣời viết) với những chủ định nhất định, một bên là ngƣời nhận
(ngƣời nghe, ngƣời đọc) với những giá trị nhất định.
Trong ngôn ngữ học, khi đặt giao tiếp trong quan hệ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa
với lời nói, cách dùng..., giao tiếp đƣợc nhìn nhận nhƣ là những cái vốn có trong thơng
điệp ngơn ngữ: qua bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình thức) của thơng
điệp bằng ngơn ngữ, ngƣời ta có thể hiểu tình huống, ngữ cảnh, và bản thân những
ngƣời trao đổi lời với nhau tự thể hiện mình. Đây là cách định nghĩa có tính trung hồ.
HVP khơng phải là "ngơn ngữ trao đổi bằng lời trong cuộc sống thƣờng nhật",
cũng khơng có tính chất "đại diện chung" cho tất cả các hành động ngôn ngữ trong xã
hội. Mặt khác, nội dung thông tin trong giao tiếp phƣờng vải khơng hồn tồn là "một
cái gì đó" mà ngƣời nhận chƣa biết. Do vậy, để thực hiện mục đích nghiên cứu, việc
xem xét đặc điểm ngơn ngữ giới tính sẽ căn cứ vào lời nói, cách dùng bao gồm cả bình
diện nội dung và hình thức biểu hiện của những thơng điệp ngơn ngữ, qua đó "những
ngƣời trao đổi lời với nhau tự thể hiện mình". Với cơng trình nghiên cứu này, định
nghĩa giao tiếp có tính chất trung hồ là thích hợp.
Theo đó, khái niệm giao tiếp dùng trong luận án đƣợc hiểu là sự trao đổi thơng
tin qua lại bằng lời giữa ít nhất hai ngƣời với những thông điệp bằng ngôn ngữ trong
một ngữ cảnh nhất định, hƣớng tới mục đích là tự thể hiện mình (về thái độ, tình cảm,
suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm...). Việc xem xét ngôn ngữ giao tiếp ở đây cịn căn cứ
trên tính đặc thù của giao tiếp trong HPV so với giao tiếp thông thƣờng. Chẳng hạn

nhƣ: tính nghệ thuật cao hơn, ngơn từ trau chuốt hơn, quy trình bài bản hơn…
1.1.1.2. Chức năng của ngơn ngữ trong giao tiếp


19

Về phƣơng diện lí thuyết chung, từ lâu, ngơn ngữ đƣợc coi là có chức năng giao
tiếp. Theo các nhà phân tích diễn ngơn, trong q trình giao tiếp, ngơn ngữ thực hiện
hai chức năng chính là chức năng giao dịch và chức năng liên nhân.
Chức năng giao dịch (hay còn đƣợc gọi là chức năng biểu hiện, quy chiếu, quan
niệm, miêu tả) là chức năng của ngôn ngữ đƣợc dùng trong việc diễn đạt kinh nghiệm,
diễn đạt các "mệnh đề".
Chức năng liên nhân (hay còn đƣợc gọi là chức năng tƣơng tác, hoặc bộc lộ, hoặc
biểu cảm, hoặc bộc lộ - xã hội) là chức năng của ngôn ngữ đƣợc dùng trong việc diễn
đạt các quan hệ xã hội và các thái độ của cá nhân [7, tr. 21].
Việc phân biệt hai chức năng trên của ngôn ngữ trong giao tiếp khơng có nghĩa
một diễn ngơn (văn bản) chỉ có duy nhất chức năng này và loại trừ chức năng kia, mà
chỉ có thể nói đến sự nổi trội của một trong hai chức năng đó trong một diễn ngơn cụ
thể, ứng với một hồn cảnh giao tiếp cụ thể. Chẳng hạn, chức năng giao dịch đƣợc thể
hiện rõ trong tục ngữ, CDDC về lao động sản xuất, hoặc trong các diễn ngôn đƣợc thực
hiện nhằm trao đổi thông tin địi hỏi chi tiết, chính xác. Cịn chức năng liên nhân nổi
trội trong các trƣờng hợp cần sử dụng ngơn ngữ để thiết lập và duy trì các quan hệ xã
hội. Theo đó, trong khi các nhà ngơn ngữ học, các nhà triết học - ngôn ngữ quan tâm
chức năng giao dịch thì các nhà xã hội học và xã hội học - ngôn ngữ lại thƣờng đề cập
tới chức năng liên nhân.
Với việc nghiên cứu ngôn ngữ giới tính ở HPV, chức năng liên nhân của ngơn
ngữ trong giao tiếp là cơ sở để chỉ ra quan hệ giữa các vai giao tiếp nam/nữ.
1.1.1.3. Vai giao tiếp
Các nhân tố giao tiếp gồm: ngữ cảnh, ngôn ngữ, diễn ngôn, trong đó ngữ cảnh là
một hợp phần gồm: nhân vật giao tiếp và hiện thực ngồi diễn ngơn [29, tr. 15 - 40].

Nhân vật giao tiếp là những ngƣời tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn
ngữ để tạo ra lời nói. Giữa các nhân vật giao tiếp có hai quan hệ: vai giao tiếp và quan
hệ liên nhân. Nhờ đó mà các diễn ngơn trong hoạt động giao tiếp tác động đến nhau,
tạo thành chuỗi trao - đáp cho một cuộc thoại. Trong hoạt động giao tiếp, các nhân vật
giao tiếp luôn đảm nhận các vai giao tiếp khác nhau. Vai giao tiếp có thể là ngơi thứ


20

nhất (vai trao lời) tác động đến vai nhận là ngôi thứ hai (vai đáp lời). Khi vai nhận đáp
lời, đến lƣợt mình, vai nhận lại trở thành vai trao còn vai trao lại trở thành vai nhận. Cứ
thế, trong suốt cuộc thoại, các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tƣợng
luôn đổi chỗ cho nhau, làm thành các cặp trao - đáp luân phiên nhau (còn gọi là luân
phiên lƣợt lời). Mức độ ảnh hƣởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp và hiệu quả giao
tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể nhƣ vị trí xã hội, vai trị
xã hội, uy tín, giới tính, tuổi tác... cũng nhƣ các mối quan hệ và tƣơng quan giữa họ.
Tuy nhiên, khơng phải hai ngƣời thay nhau nói là thành một cuộc thoại. Trong
quá trình giao tiếp, cả hai bên cùng phải có ý thức, trách nhiệm khởi động và duy trì
cuộc thoại, tức là duy trì sự tƣơng tác qua lại lẫn nhau thông qua hành động ngôn ngữ
tƣơng tác, có sự thống nhất và mâu thuẫn, có sự vận động để điều hành cuộc thoại diễn
tiến theo một chiều hƣớng nhất định. Giữa các bên tham gia giao tiếp ban đầu thƣờng
có một khoảng cách nhất định về mối quan hệ thân sơ. Nếu cả hai nhân vật giao tiếp
cùng có sự thống nhất trong các hành động ngơn ngữ thì cuộc thoại diễn ra theo chiều
hƣớng thuận. Ngƣợc lại, nếu hai nhân vật giao tiếp có sự bất đồng về nhận thức cũng
nhƣ hành động ngôn ngữ thì cuộc thoại diễn tiến theo chiều hƣớng khơng thuận. Hoặc
nếu một ngƣời nói ra một phát ngơn để gợi chuyện (hoạt động trao lời) mà ngƣời nghe
không hƣởng ứng (không thực hiện hoạt động đáp lời, đáp lời một cách miễn cƣỡng,
rời rạc…) thì cuộc thoại cũng khơng thể tiến triển [108, tr. 200-204]. Nhƣ vậy, để cuộc
thoại phát triển theo hƣớng mong muốn, các vai giao tiếp phải có sự phối hợp chặt chẽ
về từ ngữ, cấu trúc, cách nói, tạo thành hệ thống lƣợt lời với các cặp thoại hơ ứng về

nội dung và hình thức. Nhiều khi, trong một lời thoại, nhân vật giao tiếp cùng lúc vào
cả hai vai: vai trao và vai đáp. Một vấn đề nữa là trong thực tế hoạt động giao tiếp, số
ngƣời tham gia cuộc thoại có khi lớn hơn hai. Sự tƣơng tác hội thoại cũng khơng hồn
tồn theo tỉ lệ 1-1 trong lời trao - lời đáp, thậm chí vai đáp lời có thể sử dụng các
phƣơng tiện phi ngôn ngữ (thái độ, cử chỉ, ánh mắt..) để thay cho lời đáp.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đã xác định, luận án chỉ xem xét vai giao
tiếp trong hoạt động hội thoại bằng lời thông qua mối quan hệ tƣơng tác lời trao - đáp.
1.1.2. Vận động hội thoại và sự tƣơng tác


21

1.1.2.1. Hội thoại
Đƣợc coi là hoạt động cơ bản thƣờng xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn
ngữ, hôi thoại là giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa hai hay hơn hai ngƣời nhằm những mục
đích nhất định. Có thể gọi hội thoại là hình thức “giao tiếp hai chiều”, “bên này nói,
bên kia nghe và phản hồi lại, lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở
thành bên nói và bên nói trở thành bên nghe” [39, tr. 76]. Hội thoại tồn tại ở hai môi
trƣờng: môi trƣờng sinh hoạt hàng ngày và môi trƣờng đƣợc nhà văn tái tạo, thể hiện
trong tác phẩm văn học. Trong hội thoại, ngồi yếu tố ngơn ngữ lời nói cịn có yếu tố
ngơn ngữ cử chỉ nhƣ ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ, hoàn cảnh giao tiếp; trong văn bản viết
thƣờng đƣợc thể hiện qua lời của ngƣời viết. Về cấu tạo, hội thoại tồn tại ở các dạng:
đơn thoại, song thoại và đa thoại.
Đơn vị hội thoại bao gồm nhiều cấp độ, cụ thể là:
a) Đơn vị cơ sở: gồm hành động ở lời (ngôn ngữ) và tham thoại
- Hành động ở lời: Là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Các ứng xử bằng
lời đều căn cứ vào hành vi ngôn ngữ (hành động ở lời). Hành động ở lời là những lời
thoại tổ chức nên tham thoại, cặp thoại.
- Tham thoại: Là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại
nhất định. Tham thoại do hành động ở lời tạo nên.

Tham thoại và lƣợt lời không đồng nhất với nhau. Một lƣợt lời có thể gồm nhiều
tham thoại. Một tham thoại có thể gồm nhiều lƣợt lời.
b) Cặp thoại
Cặp thoại đƣợc cấu thành từ các tham thoại. Đây là đơn vị lƣỡng thoại nhỏ nhất
của cuộc thoại. Có thể căn cứ vào số lƣợng các tham thoại để phân loại các cặp thoại:
cặp thoại 1 tham thoại, cặp thoại 2 tham thoại, cặp thoại 3 tham thoại. Nội dung cơ bản
của một cặp thoại thƣờng gồm 2 tham thoại chính: dẫn nhập, hồi đáp. Tuy nhiên có
những cặp thoại mà tham thoại thứ 3 có tính chất đóng lại cặp thoại đó.
c) Đoạn thoại
Đoạn thoại là một mảng diễn ngơn do một số cặp thoại trao đáp liên kết chặt chẽ
với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là sự liên kết chủ đề. Về


22

ngữ dụng, đó là tính duy nhất về đích. Một đoạn thoại thƣờng có một nội dung đích
nhất định. Một cuộc thoại có thể gồm nhiều đoạn thoại, vì có thể nói về nhiều chủ đề.
Ngƣời ta phân đoạn thoại thành các đoạn cơ bản: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại
(có thể gồm nhiều đoạn), đoạn thoại kết thúc. Đoạn mở thoại và đoạn kết thúc trong
một cuộc thoại thƣờng chỉ là những đoạn có tính chất nghi thức.
d) Cuộc thoại
Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Một cuộc thoại có thể dài, ngắn
tuỳ tính chất của cuộc thoại. Để xác định một cuộc thoại, có thể dựa vào các tiêu chí
sau đây :
- Nhân vật hội thoại: Nói chung một cuộc thoại đƣợc xác định bởi sự góp mặt,
trao đổi giữa ít nhất 2 ngƣời hội thoại.
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm: Một cuộc thoại thƣờng xảy ra trong
một thời gian và một khơng gian nhất định.
- Tính thống nhất về đề tài và diễn ngôn: Một cuộc thoại thƣờng phải có hƣớng
nhất định từ đầu đến khi kết thúc.

Thuật ngữ hội thoại đƣợc sử dụng trong luận án chủ yếu đƣợc hiểu là song thoại,
có sự tham gia của các vai giao tiếp trong một cuộc hát (phƣờng nam, phƣờng nữ) và
đƣợc thực hiện theo quy trình luân phiên đổi vai. Tuy nhiên, ngữ liệu đƣợc xem xét ở
đây là lời HPV đƣợc sƣu tầm, tập hợp theo từng nhóm lời ứng với các bƣớc, các chặng
nên sự luân phiên đổi vai chỉ phần nào thể hiện đƣợc trong từng cặp thoại trao - đáp,
khó xác định ở lời hát đơn. Mặt khác, do lời hát tách khỏi môi trƣờng diễn xƣớng nên
việc nghiên cứu cũng khơng có điều kiện xét đến các yếu tố ngôn ngữ cử chỉ nhƣ ánh
mắt, động tác, điệu bộ của ngƣời hát; ở đây chỉ tập trung xem xét về mặt ngôn từ.
Hệ thống ngữ liệu đƣợc khảo sát trong luận án gồm tổng hợp 1745 lời hát, mỗi lời
hát tƣơng đƣơng một tham thoại, chủ yếu xuất hiện ở dạng lời đơn (cặp thoại một tham
thoại) hoặc cặp lời trao - đáp (cặp thoại 2 tham thoại). Chỉ có 6 trƣờng hợp xuất hiện ở
dạng 3 tham thoại, 2 trƣờng hợp ở dạng 4 tham thoại, 1 trƣờng hợp ở dạng 7 tham
thoại. Do ngữ liệu đƣợc tập hợp thành nhóm lời theo từng chặng, từng bƣớc của cuộc
hát, luận án khơng có điều kiện xem xét đơn vị hội thoại là đoạn thoại và cuộc thoại.


23

1.1.2.2. Vận động hội thoại
Yule (1997) đã dùng cách nhìn của nền kinh tế thị trƣờng để gọi quyền đƣợc nói
(floor) là một "thứ hàng hố q hiếm" trong hội thoại, và khẳng định: "có thể định
nghĩa đó là cái quyền đƣợc nói ra"… "Nắm đƣợc quyền chủ động đối với thứ hàng hố
hiếm hoi này lần nào thì lần ấy đƣợc gọi là một lƣợt lời (turn)” [170, tr. 136]. Đề cập
tới việc thực hiện cái quyền này của ngƣời dự thoại, có thể hình dung một cách đầy đủ
tính logic của vấn đề nhƣ sau: "Quyền đƣợc nói (floor) là quyền cơ sở để ngƣời dự
thoại có thể có lƣợt lời (turn at talk), cịn gọi là bƣớc thoại (move). Muốn thực hiện
lƣợt lời thì phải có cơ hội nhận lƣợt lời (turn-taking). Cơ hội nhận lƣợt lời chịu sự chi
phối của (hay lệ thuộc vào) hệ thống điều hành cục bộ (local management system), một
hệ thống mang tính xã hội" [7, tr. 69]. Q trình phân phối cơ hội nhận lƣợt lời theo hệ
thống điều hành cục bộ giữa những ngƣời dự thoại chính là q trình vận động hội

thoại.
Trong bất cứ cuộc hội thoại nào, vận động hội thoại giữa các nhân vật cũng
thƣờng bao gồm ba nhân tố: sự trao lời, sự trao đáp và sự tƣơng tác.
a) Sự trao lời (allocution)
Chuỗi đơn vị ngôn ngữ đƣợc nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến
lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một lƣợt lời. Đỗ Hữu
Châu đã dùng kí hiệu Sp để chỉ ngƣời tham gia vào hội thoại, Sp1 là vai nói, Sp2 là vai
nghe. Sp1, Sp2 và Spn là các đối tác hội thoại [29, tr. 205].
Theo đó, sự trao lời là vận động mà Sp1 nói lƣợt lời của mình ra và hƣớng lƣợt lời
của mình về phía Sp2. Sự trao lời có thể đƣợc thực hiện bằng các yếu tố bằng lời hoặc
kèm theo các yếu tố phi lời (bao gồm cử chỉ, điệu bộ...). Trong một cuộc song thoại,
khi chỉ gồm một ngƣời nói và một ngƣời nghe, vấn đề xác định Sp2 khơng đặt ra. Cịn
trong một cuộc đa thoại thì vận động trao lời có thể hƣớng tới tồn thể ngƣời nghe,
cũng có thể chỉ nhằm vào một (hoặc một số) ngƣời nghe trong số đó, tức là Sp1 phải sử
dụng những dấu hiệu để định hƣớng rõ ai là ngƣời nghe đích thực của lƣợt lời đó.
b) Sự trao đáp (exchange)


24

Sự trao đáp (hay còn gọi là sự đáp lời) là lƣợt lời đƣợc Sp2 thực hiện để đáp lại
lƣợt lời của Sp1. Có sự trao đáp này thì cuộc thoại mới chính thức đƣợc hình thành.
Cũng nhƣ sự trao lời, sự đáp lời có thể thực hiện bằng các yếu tố bằng lời hoặc các yếu
tố phi lời hoặc kết hợp cả hai.
c) Sự tƣơng tác (interaction)
Sự tƣơng tác hội thoại là quá trình các nhân vật hội thoại ảnh hƣởng lẫn nhau, tác
động qua lại với nhau, làm cho nhau biến đổi. Một chuỗi các tƣơng tác nối tiếp nhau
gọi là liên tƣơng tác. Liên tƣơng tác trong hội thoại trƣớc hết là liên tƣơng tác giữa các
lƣợt lời của Sp1 và Sp2, còn gọi là sự liên hoà phối các lƣợt lời. Sự hoà phối này hoàn
hảo thì cuộc hội thoại ở cực điều hồ, nhịp nhàng; các lƣợt lời của Sp1 và Sp2 đƣợc

sắp xếp theo một trình tự trao/đáp luân phiên giữa những ngƣời dự thoại. Ngƣợc lại,
nếu thiếu sự hồ phối nhịp nhàng thì cuộc thoại trở nên hỗn độn với sự xuất hiện của
các hiện tƣợng trùng lời, dẫm đạp lên lƣợt lời của nhau, cƣớp lời nhau. Do vậy, trong
giao tiếp, mỗi nhân vật rất cần thực hiện sự tự hoà phối, tức là tự điều chỉnh hành động,
thái độ, lƣợt lời của mình để có đƣợc sự tƣơng tác tích cực cho cuộc thoại.
1.1.2.3. Hàm ý hội thoại và nguyên tắc cộng tác
Trong giao tiếp, ngƣời nói và ngƣời nghe cùng tham dự vào cuộc thoại thƣờng có
cộng tác với nhau. Sự cộng tác ấy giúp cho ngƣời nghe tiếp nhận những tiền giả định
của ngƣời nói, từ đó luận giải đƣợc những điều mà ngƣời nói cố ý thơng báo nhiều hơn
cái đƣợc nói ra. Đó là "thứ ý nghĩa phụ thêm" đƣợc chuyển tải ngồi những gì mà
nghĩa của các từ cung cấp, đƣợc gọi là hàm ý (implicature).
Theo đó, hàm ý hội thoại (conversational implicatures) đƣợc hiểu là phần ý nghĩa
đƣợc truyền đạt nhiều hơn những gì mà nghĩa từ ngữ cung cấp; đặc tính của hàm ý hội
thoại là giải đoán đƣợc, cản ngăn đƣợc, huỷ bỏ đƣợc, tăng cƣờng đƣợc. Các hàm ý hội
thoại thƣờng gặp đƣợc chia ra thành hai lớp lớn là hàm ý hội thoại thơng dụng
(generalized conversational implicature, cịn dịch là dùng chung hay tổng quát hoá)
bao gồm cả hàm ý thang độ (scalar implicature) và hàm ý hội thoại đặc dụng
(particularized conversational implicature, còn dịch là dùng riêng, hay cá thể hố).
Việc giải đốn hàm ý hội thoại thơng dụng khơng cần vận dụng đến ngữ cảnh riêng


25

biệt, cịn hàm ý hội thoại đặc dụng chỉ có thể nhận biết, giải đoán đƣợc trên cơ sở vận
dụng kiến thức riêng về tình huống cụ thể trong đó nó đƣợc sử dụng [7, tr. 130-134].
Nhƣ vậy, hàm ý hội thoại là thứ hàm ý suy ra đƣợc trong quá trình hội thoại, gắn
với cách thức thực hiện nguyên tắc cộng tác trong hội thoại, cụ thể hơn là gắn với các
phƣơng châm hội thoại. Điều kiện để có đƣợc một cuộc thoại là những ngƣời dự thoại
phải hợp tác với nhau trên cơ sở đổi vai trao - đáp trong suốt diễn biến cuộc thoại. Việc
thực hiện cuộc tƣơng tác phải theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc có mặt

trong cuộc tƣơng tác phổ biến đến mức Grice (1975) đã nâng lên thành nguyên tắc
cộng tác (co-operative principle) của hội thoại và chi tiết hoá thành bốn nguyên tắc bậc
dƣới, gọi là các phƣơng châm (maxims) hội thoại bao gồm: phƣơng châm về lƣợng yêu
cầu phần đóng góp chứa số lƣợng tin địi hỏi theo tiêu chuẩn cần và đủ xét theo mục
đích của cuộc thoại đó, khơng chứa nhiều tin hơn; phƣơng châm về chất u cầu phần
đóng góp là chân thực, khơng nói những điều mà ngƣời nói khơng tin là đúng hoặc
khơng có bằng chứng xác thực; phƣơng châm về quan hệ yêu cầu phần đóng góp
những gì có quan hệ với đề tài một cách cần thiết (trọng yếu), ngƣời đƣa tin cần nói
đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề, ngƣời nhận tin cần hiểu nghĩa thực ở phát
ngôn của ngƣời phát tin, khơng ra ngồi đề, ngồi mục đích; phƣơng châm về cách
thức u cầu cần phải nói ngắn, gọn, rõ, có trật tự, khơng nói tối nghĩa, gây mơ hồ cho
ngƣời nghe. Các nguyên tắc cộng tác này đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học tán thành, sử
dụng, phát triển, mở rộng [7, tr. 126-127], [29, tr. 229 - 231].
Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, có những lí do chính đáng khiến các phƣơng
châm hội thoại trên có thể bị vi phạm. Sử dụng hàm ý là một trong những biểu hiện vi
phạm ấy. Khi ngƣời nói cố ý vi phạm một phƣơng châm hội thoại nào đó, thì cũng tức
là ngƣời nói thơng báo một ý nghĩa nào đó bằng hàm ý, và bằng suy luận thơng qua
tiền giả định, ngƣời nghe có thể hiểu đƣợc hàm ý này.
Để sử dụng hàm ý, đòi hỏi phải có sự cộng tác giữa các bên giao tiếp. Cụ thể là
ngƣời nói dùng hàm ý phải tính đến năng lực giải đốn hàm ý ở ngƣời nghe, cịn ngƣời
nghe thì ý thức đƣợc rằng ngƣời nói đang cùng cộng tác và có chủ định thơng báo một
điều gì đó. Nếu ngƣời nói khơng quan tâm đến năng lực giải đoán hàm ý của ngƣời


×