Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG ĐƠN VỊ XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.89 KB, 50 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG ĐƠN VỊ XÂY LẮP.
A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT.
Đất nước ta hiện nay ở trong giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội. Đảng ta quyết định đổi mới cơ chế kinh tế kiên quyết xóa bỏ cơ
chế tập bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ có chế kế hoạch hóa theo phương
thức hạch toán kinh doanh gắn liền với thị trường. Các doanh nghiệp quốc doanh
hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải, tự phát triển và làm đầy đủ nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn kinh doanh đều phải bỏ ra những chi phí
nhất định. Chi phí là điều kiện bắt buộc để một doanh nghiệp có thu nhập. Tuy
vậy, để có thể tồn tại được lâu dài và phát triển thì việc kinh doanh phải đem lại lợi
nhuận, do đó doanh nghiệp phải tìm cách hạ chi phí của mình.
Việc thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm được
coi là vấn đề hàng đầu trong các doanh nghiệp sản xuất. Để phục vụ tốt công tác
quản lý chi phí sản xuất, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện tiết kiệm các chi phí sản
xuất. kế toán phải tính được chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong từng thời kỳ
nhất định phù hợp với thời kỳ thực hiện kế hoạch và kỳ báo cáo. Trong thực tế, chi
phí sản xuất được tính theo từng tháng, quý, năm.
Trên góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau qua các thời kỳ khác nhau
người ta có các cách hiểu khác nhau về chi phí của một doanh nghiệp.
Đối với kế toán thì khái niệm chi phí luôn phải gắn liền với một chu kỳ sản
xuất kinh doanh nhất định, phải là chi phí thực nhưng không phải tất cả các khoản
chi phí đều được coi là chi phí thực. Như vậy, những khoản hao hụt về vật liệu
ngoài định mức, các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng sẽ không phải là chi phí
sản xuất kinh doanh.
Trước kia, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung do các doanh nghiệp không
quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, không chú ý đến chi phí và kết quả sản
xuất của mình. Chỉ tiêu chi phí sản xuất thường bị bóp méo để báo cáo hoặc do


nguyên nhân mà doanh nghiệp không phản ánh đúng chi phí của mình. Vì vậy, chỉ
tiêu chi phí, giá thành trước đây không phải là cơ sở để xác định hiệu quả kinh tế
của quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt với nhau để có thể tồn tại
và phát triển. Mọi doanh nghiệp phải thực hiện kế toán độc lập, tự bù đắp chi phí
và có lãi. Vì vậy, hơn bao giờ hết các doanh nghiệp phải nắm được thông tin chính
xác về chi phí của mình để có quyết định thích hợp và tìm ra các biện pháp nhằm
làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu chi tiết về chi phí và giá thành của các bộ phận, các loại sản phẩm là
yếu tố cơ bản tạo tiền đề cho việc hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. Cùng với
các thông tin về cung cầu thị trường, chỉ tiêu giá thành giúp các nhà quản trị kinh
doanh xác định được mặt hàng nào nhiều lãi, mặt hàng nào lãi ít hay lỗ để điều
chỉnh tìm ra cơ cấu mặt hàng tối ưu.
Thông tin về chi phí còn giúp cho doanh nghiệp xác định thời gian hoà vốn,
sản lượng hoà vốn... mức sản lượng để tối ưu hóa lợi nhuận. Như vậy chỉ tiêu chi
phí có ý nghĩa rất lớn đối với một quản trị doanh nghiệp.
Đối với việc quản lý vĩ mô, chỉ tiêu chi phí của doanh nghiệp không những
làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo ra khả năng tái sản xuất mở rộng mà
trong phạm vi toàn xã hội nó còn là nguồn chủ yếu tạo ra tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế. Việc giảm giá thành sản phẩm là cơ sở vật chất cần thiết để giảm giá cả
của hàng hóa.
Như vậy, mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp mình. Để nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh
cần phải có quyết định đúng đắn, do đó nhà quản trị phải tìm ra biện pháp để thu
được các thông tin chính xác và chi tiết về chi phí của doanh nghiệp mình và biết
sử dụng tốt chúng trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh kịp thời.
Với chức năng thông tin và kiểm tra, kế toán cung cấp các thông tin về tài
chính giúp người quản lý thực hiện tốt các chức năng lập kế hoạch, kiểm tra, tổ
chức và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống kế toán cung cấp
số lượng lớn các số liệu chi tiết ghi chép từ sự vận động hàng ngày của vốn và

nguồn vốn. Các thông tin chi tiết này có ý nghĩa sống còn đối với việc quản lý có
hiệu quả. Tuy nhiên yêu cầu chính của quản lý không phải chỉ là thông tin chi tiết
từ các sổ kế toán. Khi sử dụng các bảng tóm tắt này nhà quản lý sẽ nhanh chóng
thấy được nơi có hoạt động tốt, chỗ yếu để có các biện pháp xử lý kịp thời.
1. Khái niệm:
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí
về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Thực chất chi phí là sự chuyển dịch vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố
sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
2. Phân loại chi phí sản xuất – kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường giá cả thường xuyên biến động thì việc tính
toán đầy đủ và kịp thời chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là vấn đề được coi
là trọng nhằm xác định đúng chi phí, phù hợp với giá cả thực tại, tạo điều kiện giúp
đỡ doanh nghiệp bảo toàn vốn theo yêu cầu của quản lý kinh tế mới hiện nay.
Chi phí sản xuất – kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về
nội dung, tính chất công dụng vai trò vị trí trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi
cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân lại chi phí sản xuất.
Xuất phát từ mục đích và các yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng
được phân theo những tiêu thức khác nhau. Đó là việc sắp xếp chi phí từng loại,
từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
2.1. Phân theo lĩnh vực kinh doanh.
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
toàn bộ chi phí được chia ra 3 loại:
a. Chi phí sản xuất kinh doanh: bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính.
b. Chi phí hoạt động tài chính: bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động về vốn và đầu tư tài chính.
c. Chi phí bất thường: bao gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ
quan hoặc khách quan mang lại.

Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ
cho việc tính giá thành, xác định được chi phí và kết quả của từng loại hoạt động
kinh doanh đúng cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời.
2.2. Phân loại theo yếu tố chi phí.
Cách phân loại này phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung
kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà xét đến công dụng cụ thể địa điểm phát sinh
của chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia ra làm
7 yếu tố:
a. Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ các giá trị nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... sử dụng vào sản xuất
kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu
hồi).
b. Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh
trong kỳ (trừ số dùng không không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
c. Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên.
d. Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ tính theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền
lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên.
e. Yếu tố khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong
kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
f. Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánhtoàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
g. Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong
kỳ.
2.3. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
cho việc tính giá thành, toàn bộ chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại
này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất ở Việt Nam bao gồm 3 khoản

mục chi phí:
a. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên, vật
liệu chính, phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm
hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
b. Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản
trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phát
sinh.
c. Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân
xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì
chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí QLDN và chi phí bán hàng.
2.4. Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh.
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí
liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất ra làm 3 loại:
a. Chi phí sản xuất: gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo
sản phẩm, trong phạm vi phân xưởng.
b. Chi phí tiêu thụ: gồm tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc
tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ...
c. Chi phí quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh hành chính và những
chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp.
Cách phân loại này là cơ sởđể xác định giá thành công xưởng, xác định giá
trị hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo chức năng cũng như căn cứ để kiểm
soát và quản lý chi phí.
2.5. Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí: Gồm 2 loại:
a. Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với sản phẩm được sản xuất
hoặc được mua.
b. Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một thời kỳ hoạt
động nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc
được mua nên chúng điều kiện xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức
của thời kỳ mà chúng phát sinh.

2.6. Phân loại chi phí theo quan hệ chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm
hoàn thành.
Cách phân loại này giúp cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí được
thuận lợi, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh. Chi phí được
chia thanh biến phí và định phí:
a. Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng
công việc hoàn thành (chi phí biến đổi nếu tính trên 1 đơn vị sản phẩm lại có tính
ổn định).
b. Định phí: là những chi phí không thay đổi về tổng số với khối lượng công
việc hoàn thành.Các chi phí này nếu tính trên 1 đơn vị sản phẩm lại biến đổi nếu số
lượng sản phẩm thay đổi.
Ngoài các cách phân loại phổ biến nói trên, trong quá trình nghiên cứu, chi
phí còn có thể được phân theo quan hệ với quá trình sản xuất (chia thành chi phí
trực tiếp và chi phí gián tiếp), theo khả năng kiểm soát (chi phí kiểm soát được và
chi phí không kiểm soát được)... Còn một số loại chi phí khác như: chi phí khác
biệt, chi phí tới hạn, chi phí cơ hội.
3. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là một trong những vấn đề
then chốt để đảm bảo tính giá thành sản phẩm chính xác, phát huy tác dụng của kế
toán trong công tác quản lý kinh tế,tài chính doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao
gồm nhiều loại với nội dung kinh tế khác nhau nên đối tượng hạch toán chi phí sản
xuất cũng khác nhau. Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất sẽ giúp cho
việc hạch toán chi phí sản xuất theo những giới hạn phạm vi nhất định và được tiến
hành dựa trên đặc điểm cơ bản sau:
- Tính chất công nghệ của quy trình công nghệ sản xuất là sản phẩm đơn
giản hay phức tạp; thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận chi
tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, quy trình công nghệ hoặc phân xưởng sản
xuất.
- Loại hình sản xuất bao gồm sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt, sản

xuất với khối lượng lớn. Trong sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt được mở theo số lượng
nhất định. Đối với sản xuất với khối lượng lớn, đối tượng hạch toán chi phí sản
xuất có thể là sản phẩm, các giai đoạn chế biến như đã trình bày ở trên.
- Đặc điểm của tổ chức sản xuất có phân xưởng hay không có phân xưởng:
đối với các doanh nghiệp có phân xưởng thì phân xưởng trong doanh nghiệp sản
xuất cũng đồng thời là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất còn đối với doanh
nghiệp không có phân xưởng thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là nơi phát
sinh chi phí.
- Yêu cầu trình độ quản lý doanh nghiệp: nhìn chung lại dựa vào các căn cứ
nêu trên. Cụ thể đối tượng hạch toán chi phí sản xuất của các doanh nghiệp là:
+Từng bộ phận, tổ đội hoặc toàn doanh nghiệp.
+Từng giai đoạn công nghệ hoặc toàn bộ quá trình công nghệ.
+ Từng sản phẩm, đơn đặt hàng, hạng mục công trình.
+ Từng nhóm sản phẩm.
+ Từng bộ phận chi tiết sản phẩm.
Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng quy định có tác dụng phục vụ
tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất, cho công tác hạch toán nội bộ,
hạch toán kinh tế toàn doanh nghiệp, phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm
được kịp thời, chính xác.
4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm được chính xác, nhanh chóng
cần tiến hành hạch toán chi phí sản xuất theo từngiá thành đối tượng hạch
toán.Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý,
khoa học. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, nghề,
từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán.
* Trình tự hạch toán chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội
dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành sản

phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo
yếu tố chi phí rồi mới được thể hiện thành các khoản mục giá thành khi tính giá
thành sản phẩm.
Việc tập hơp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý,
khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được.
Trình bày này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, nghề, từng doanh
nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán. Tuy nhiên, có thể khái quát
chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
Bước 1: Tập hợp chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử
dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ các ngành SXKD phụ có liên quan trực
tiếp cho từng đối tượng sử dụng trê cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành
đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm
có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp
mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình tổng hợp thống nhất gồm 2
mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Nếu như chi phí sản xuất phản
ánh mặt hao phí sản xuất thì giá thành lại phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả
những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các
chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn
thành trong kỳ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Cùng với hạch toán chi phí sản
xuất, công tác hạch toán, tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
1. Khái niệm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về

lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm,
lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
Như vậy giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản
ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự
chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm
những chi phí tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn
để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không gồm những chi phí phát sinh trong kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải
phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ
và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động
sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong
giá thành đều có thể dẫn tới việc phá vỡ các quan hệ hàng hóa, tiền tệ, không xác
định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất mở rộng.
2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ,
nhiều phạm vi với nhau.
2.1. Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành
được chia thành 3 loại:
a. Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ
sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
b. Giá thành định mức: cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản
phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định
mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch nên giá thành
định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được
trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
c. Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản
xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm.
2.2. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia làm giá thành sản

xuất và giá thành tiêu thu.
a. Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinhliên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm
vi phân xưởng sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp và chi phí sản xuất chung).
b. Giá thành tiêu thu: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí liên
quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng).
Do vậy giá thành tiêu thụ được gọi là giá thành đầy đủ và tính theo công thức:
Giá thành
toàn bộ SP =
Giá
thành sản
xuất
+
Chi phí
QLDN +
Chi phí
bán hàng
3. Đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Xác định đúng đối tượng tính giá thành sản phẩm là công việc đầu tiên trong
toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm. Đối tượng tính giá thành sản phẩm có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn phương pháp định giá thành thích hợp đối
với đối tượng đó. Doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất và đặc điểm
cung cấp,sử dụng của từng loại sản phẩm đó mà xác định đối tượng tính giá thành
cho thích hợp.
- Đối với doanh nghiệp có loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá
thành là từng loại sản phẩm từng công việc như các doanh nghiệp đóng tàu, các
đơn vị xây dựng cơ bản. Việc xác định giá thành được tính theo khoản mục chi phí
trên cơ sở đó xác định giá thành của sản lượng hàng hóa.
- Đối với doanh nghiệp có loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tính giá

thành là từng loại sản phẩm đã hoàn thành theo khoản mục chi phí và trên cơ sở đó
xác định giá thành bình quân của từng đơn vị sản phẩm.
- Đối với doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối lượng lớn thì việc tính giá
thành sản phẩm được tính theo khối lượng từng loại, và tính giá thành toàn bộ
lượng hàng hoá theo khoản mục, trên cơ sở đó xác định giá thành bình quân của
từng đơn vị sản phẩm.
Ngoài ra, quy trình công nghệ cũng có ảnh hưởng nhất định đến đối tượng
tính giá thành. Nếu quy trình công nghệ giản đơn thì đối tượng tính giá thành có
thể là nửa thành phẩm ở từng giai đoạn hoặc là thành phẩm đã lắp ráp hoàn chỉnh.
Điều cần chú ý là đơn vị tính giá thành phải là đơn vị được thừa nhận trong
nền kinh tế hàng hoá. Đơn vị tính giá thành thực tế phải thống nhất với đơn vị tính
giá thành kế hoạch của doanh nghiệp.
Như vậy, đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ
cần phải tính được giá thành đơn vị. Đối tượng tính giá thành là căn cứ để nhân
viên kế toán giá thành mở các bảng (phiếu) tính giá thành, tổ chức công tác tính giá
thành theo từng đối tượng phục vụ cho việc giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch
sản xuất sản phẩm, phát hiện khả năng tiềm tàng để có thể đưa ra các biện pháp hạ
giá thành sản phẩm.
4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm bao gồm phương pháp trực tiếp,
phương pháp tổng công chi phí, phương pháp tỉ lệ... Việc tính giá thành sản phẩm
trong từng doanh nghiệp cụ thể, tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối
tượng tính giá thành có thể áp dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp
dụng kết hợp với một số phương pháp khác nhau.
4.1. Phương pháp trực tiếp (phương pháp giản đơn).
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản
xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản
xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than
gỗ...). Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính như sau:
Tổng giá

thành SP =
Giá trị SPDD
đầu kỳ +
Chi phí
PS trong
kỳ
-
Giá trị SPDD
cuối kỳ
Giá thành đơn vị sản phẩm = Tổng giá thành sản phẩm
Số lượng sản phẩm hoàn thành
4.2. Phương pháp tổng cộng chi phí.
Áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực
hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ như doanh nghiệp khai
thác, dệt nhuộm, cơ khí, chế tạo, may mặc...
Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + Z3 + ... + Zn
Trong đó Z1, Z2, Z3, ..., Zn là chi phí sản xuất các bộ phận, chi tiết sản
phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất.
4.3. Phương pháp hệ số.
Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà cùng một
quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng
thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho
từng loại sản phẩm mà được tập hợp chung cho quá trình sản xuất. Theo phương
pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi các loại sản phẩm đã tập hợp
để tính giá thành từng loại sản phẩm.
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc = Tổng giá thành sản xuất các loại SP
Số lượng sản phẩm quy đổi (SP gốc)
Giá thành đơn vị
sản phẩm từng loại
= Giá thành đơn vị

sản phẩm gốc
* Hệ số quy đổi sản
phẩm từng loại
Trong đó:
Số lượng
SP quy đổi
=
1
n
i=

Số lượng
SP loại i
* Hệ số quy đổi
SP loại i
Tổng giá thành
sản xuất của
các loại SP
=
Giá trị
SPDD đầu
kỳ
+
Tổng chi
phí PS
trong kỳ
-
Giá trị
SPDD cuối
kỳ

4.4. Phương pháp tỉ lệ.
Trong doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất
khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ phụ tùng), để
giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất
theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí sản xuất thực tế với chi phí
sản xuất kế hoạch (định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành
từng loại.
Giá thành thực tế
đơn vị sản phẩm =
Giá thành kế hoạch (định
mức) đơn vị sản phẩm từng
loại
*
Tỷ lệ
chi phí
Tỷ lệ chi phí
=
Tổng giá thành sản xuất thực tế của các loại SP
Tổng giá thành sản xuất kế hoạch của các loại SP
4.5. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm tiêu thu.
Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất.bên cạnh
các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ (các doanh
nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mỳ ăn liền...) để tính giá trị sản phẩm chính. kế
toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá
trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử
dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
Tổng giá
thành SP
chính
=

Giá trị SP
chính DD
đầu kỳ
+
Tổng CP
phát sinh
trong kỳ
-
Giá trị
SP phụ
thu hồi
-
Giá trị SP
chính DD
cuối kỳ
4.6. Phương pháp liên hợp.
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính
chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành
kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt
kim, đóng giầy, may mặc... Trên thực tế kế toán có thể kết hợp các phương pháp
trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị
sản phẩm.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh thuộc giai đoạn nào sẽ
được tập hợp cho giai đoạn đó. Riêng với chi phí sản xuất chung sau khi tập hợp
theo phân xưởng sẽ được phân bổ cho các bước theo tiêu thức phù hợp.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện qua
sơ đồ sau:
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm
AC = AB + BD – CD

Tổng GT
sản phẩm
= CPSX dở
dang đầu kỳ
+ CPSX phát
sinh trong kỳ
- CPSX dở
dang cuối kỳ
Trong quá trình sản xuất chi phí là mặt thể hiện hao phí để đánh giá chất
lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Chi phí chi ra phải được xem xét trong
mối quan hệ chặt chẽ với mặt cơ bản của quá trình sản xuất. Quan hệ so sánh đó đã
hình thành nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành khác so với đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi
phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh và nơi chịu phí. Còn đối tượng tính giá
thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ, nhất
định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối
cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu
của hạch toán nội bộ và tiêu thụ sản phẩm.
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là căn cứ để mở các biểu,
khoản, sổ chi tiết, tổ chức công tác ban đầu tập hợp chi phí sản xuất chi tiết theo
từng đối tượng giúp cho công tác tăng cường quản lý chi phí sản xuất và thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp. Đối tượng tính giá thành lại là căn cứ
để kế toán mở các phiếu tính giá thành, tổ chức công tác tính giá thành theo từng
đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện khả năng tiềm tàng để có
biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, đối tượng tính giá thành và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
lại có mối quan hệ rất mật thiết. Số liệu về chi phí sản xuất đã tập hợp được trong
kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm cho từng đối tượng tính giá thành có liên
quan.

Xét về mặt nội dung của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ta thấy: giá
thành sản phẩm sản xuất được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã tập hợp và số
lượng sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ báo cáo. Nội dung giá thành sản xuất của
sản phẩm là chi phí sản xuất được tính cho sản lượng và loại sản phẩm.
Xét về mặt kế toán mà nói thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm là 2 bước công việc kế tiếp gắn bó hữu cơ với nhau.Cả chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm đều là hao phí lao động sống và lao động vật hoá,
nhưng trong chỉ tiêu giá thành chỉ những chỉ tiêu gắn liền với sản phẩm hay khối
lượng công việc hoàn thành không kể chi phí đó đã chi ra trong kỳ kinh doanh nào.
Đứng về mặt lượng mà nói thì trong thực tế, tổng giá thành và chi phí sản
xuất phát sinh trong kỳ thường không đồng nhất: lượng chi phí sản xuất chuyển
cho sản phẩm hoàn thành kỳ này thường không phải là lượng chi phí kỳ này
chuyển sang kỳ sau nên tổng giá thành sản xuất trong kỳ này không thống nhất với
tổng chi phí chi ra trong kỳ đó.
Phương pháp hạch toán kế toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ
thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất
trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí.
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống các phương
pháp để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ
thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành.
Nắm vững mối quan hệ này giúp cho người làm công tác kế toán đưa ra
được những phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
phù hợp và chính xác hơn.
B. HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM XÂY LẮP
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – KỸ THUẬT CỦA SẢN XUẤT XÂY LẮP
Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền
kinh tế quốc dân, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ vai trò.Các tổ chức này tồn tại
dưới nhiều hình thức: Tổng Công ty, Công ty, xí nghiệp, đội xây dựng ... với quy
mô sản xuất và hình thức quản lý khác nhau. Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng

biệt khác với ngành sản xuất khác và ảnh hưởng tới tổ chức kế toán.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc ... có quy mô
lớn, phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài...
đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết
phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công), quá trình sản xuất xây lắp phải
so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ
đầu tư (giá đấu thầu) do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được
thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm có trước khi xây
dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu).
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người
lao động ...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho
công tác quản lý sử dụng hạch toán tài sản vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của
điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng.
Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp lâu dài đòi hỏi việc tổ chức quản lý và
hạch toán sao cho chất lượng công trình đảm bảo đúng dự toán thiết kế, bảo hành
công trình (giữ lại 5% giá trị công trình khi hết hạn bảo hành mới trả lại đơn vị xây
lắp).
Từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong XDCB theo từnh hạng mục
công trình và được phân tích theo từng khoản mục chi phí để có thể so sánh kiểm
tra chi phí. sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán chi phí nguyên liệu, vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
II. Ý NGHĨA CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
XÂY LẮP.
Hạch toán chi phí sản xuất là một hình thức quản lý kinh tế có kế hoạch của
doanh nghiệp. Nó đòi hỏi phải dùng tiền tệ để đo lường, định giá kết quả hoạt động
kinh tế, phải bù đắp được những chi phí đã bỏ ra bằng chính doanh thu của mình

×