Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của Công ty kiểm toán ở Nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.84 KB, 34 trang )

Quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của Công ty kiểm toán ở
Nhật.
2.3.1. Kansayaku – Người chịu trách nhiệm trước cổ đông:
2.3.1.1. Khái quát về Kansayaku :
Kansayaku hay tiếng Anh là Statutory (Corporate Auditor), chúng tôi tạm dịch
là kiểm toán viên tập đoàn.
Theo Luật Doanh Nghiệp năm 2005 của Nhật Bản, kansayku là thành viên bắt
buộc của một công ty cổ phần, trừ hai trường hợp sau:
Thứ nhất, một công ty nhỏ, tổ chức chặt chẽ không bắt buộc phải có
kansayku.
Thứ hai, công ty “ủy ban” (committee company), yêu cầu có ba ban: Ban
kiểm toán, Ban đề cử (nominating committee), ban đền bù (compensation
committee) thì không cần có kansayku.
Còn lại, tất cả các công ty cổ phần bắt buộc phaira có Kansayku, thậm chí
các công ty cỡ lớn, Doanh nghiệp Nhà nước (publicly held company) phải thiết
lập Ban Kiểm toán viên tập đoàn (Kansayku-kai), theo Luật Doanh nghiệp.
Hệ thống Kansayku ra đời từ trước chiến tranh thế giới hai, nhưng những sửa
đổi của Bộ luật Thương mại năm 1950 đã giảm đi sức mạnh và trách nhiệm của nó.
Hệ thống này được phát triển tới như ngày nay thông qua các sửa đổi, bổ sung của
bộ luật thương mại vào các năm 1974, 1981, 1993 và 2001, tất cả đều mở rộng sức
mạnh và tính độc lập của kansayku. Các điều khoản phức tạp trong Bộ luật Thương
Mại cuối cùng được thống nhất trong luật Doanh nghiệp năm 2005.
Kansayku được bầu ra tại Đại hội cổ đông và vai trò của họ là “kiểm toán”
các hoạt động của ban giám đốc. Bao gồm cả kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài
chính.
Một cuộc kiểm toán tài chính được tiến hành trước khi các báo cáo tài chính
được đưa ra xem xét tại Đại hội cổ đông thường niên. Báo cáo kiểm toán chứa
đựng kết quả của cả kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, nó phải đi kèm với
thông cáo của cuộc họp đại hội cổ đông. Báo cáo tài chính cuối niên độ cũng là đối
tượng kiểm toán của kansayku, và kết quả của cuộc kiểm toán phải được báo cáo
tại Đại hội cổ đông thường niên.


Hệ thống kansayku được thiết lập nghiêm ngặt hơn trong các “công ty lớn”.
Một công ty lớn được định nghĩa theo luật là một công ty cổ phần có lượng vốn
pháp định từ 500 triệu Yen trở lên( tương đương khoảng 91 tỉVNĐ) hoặc tổng số
nợ là 20 tỉ yên trở lên; Hiện có khoảng 12000 công ty cỡ lớn ở Nhật Bản. Các
công ty cỡ lớn hoặc Doanh nghiệp Nhà nước phải có ít nhất 3 kansayku, và ít
nhất một trong số họ phải làm việc cả ngày (full time), và ít nhất một nửa số họ
phải là kansayku bên ngoài doanh nghiệp. Kansayku-kai phải được thiết lập.
Dưới góc nhìn chức năng của kansayku trong doanh nghiệp lớn, Kansayku – kai
gần giống với ủy ban kiểm toán ở Mỹ. Tuy nhiên Kansayku- kai ở Nhật Bản phải
là một bộ phận tách rời với ban giám đốc, và phải bao gồm ít nhất một (full-time)
kansayku làm việc cả ngày. Thêm vào đó, kansayku không thể kiêm nhiệm vị trí
nào trong ban giám đốc. Thậm chí, Đạo luật Doanh nghiệp yêu cầu tính độc lập
cao hơn đối với kansayku bên ngoài.
2.3.1.2. Bầu cử, bổn phận và nghĩa vụ của Kansayaku
* Bầu cử Kansayaku:
Các thành viên Kansayaku được bầu ra tại đại hội cổ đông với số đại biểu có
mặt không thấp hơn 1/3 tổng số (giống như bầu ban giám đốc). Luật Doanh
Nghiệp đưa ra căn cứ về sự không đủ tư cách, phế chuất kansayaku và thành viên
ban giám đốc, như không cho phép một kiểm toán viên kiêm nhiệm vị trí giám đốc,
nhân viên của công ty hoặc công ty con của nó.
Kansayaku có quyền bày tỏ quan điểm của mình tại đại hội cổ đông về vấn đề
bầu cử các kansayaku khác. Kansayku từ chức được phép dự cuộc họp đại hội cổ
đông lần đầu tiên sau khi từ chức và bày tỏ quan điểm của họ.
Kansayku-kai cũng có quyền đưa ra sự chấp thuận hay quyền đưa ra các đề
nghị đối với sự đề cử của ban giám đốc cho vị trí kansayku mà sự đề cử này sẽ
được đệ trình lên đại hội cổ đông cho việc bầu cử.
Mỗi kansayaku có nhiệm kỳ 4 năm, thay vì 2 năm đối với thành viên ban
giám đốc. Nhiệm kỳ này không thể được qui định ngắn hơn bởi điều lệ công ty. Về
thù lao sẽ được qui định một cách riêng rẽ với thù lao của thành viên ban giám đốc
bởi qui chế của công ty hoặc được giải quyết ở đại hội cổ đông.

Như đã đề cập ở trên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công (doanh
nghiệp nhà nước) phải có tối thiểu ba thành viên kansayaku. Cũng theo đó, có ít
nhất một nửa số thành viên phải là kansayaku bên ngoài, nghĩa là họ không được là
giám đốc, nhân viên của công ty hoặc chi nhánh của công ty. Một ban kiểm toán
tập đoàn (kansayku-kai) phải được thiết lập và trong ban phải cử ra ít nhạt một
kansayku làm việc cả ngày (full-time).
* Bổn phận của Kansayaku:
Mối quan hệ về luật pháp giữa kansayaku và công ty là quan hệ giao phó
(inin). Do đó, kansayku có bổn phận theo dõi, giám sát hoạt động của công ty.
Theo luật Doanh nghiệp, nghĩa vụ pháp lý của kansayaku là kiểm toán các hoạt
động của ban giám đốc, kể cả kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính.
Kiểm toán tài chính là việc kiểm toán các báo cáo tài chính, nhưng không
giống như một cuộc kiểm toán yêu cầu bởi Luật Chứng khoán, nó phải được tiến
hành trước Đại hội cổ đông thường niên. Báo cáo kiểm toán bao gồm kết quả của
cả các cuộc kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, nó phải đi kèm với thông
cáo Đại hội cổ đông thường niên và được gửi cho các cổ đông hai tuần trước khi
Đại hội diễn ra. Về việc báo cáo của công ty theo Luật Chứng khoán, phải chuẩn bị
các báo cáo tài chính cuối niên độ theo cả Luật chứng khoán và Luật Doanh
nghiệp, chúng cũng là đối tượng được kiểm toán bởi kansayku, kết quả kiểm toán
được báo cáo vào Đại hội thường niên.
Tóm lại, Kansayku được giao cho các quyền hạn khác nhau và quyền hợp
pháp để thực hiện bổn phận của họ.
* Thẩm quyền điều tra của Kansayaku:
Kansayaku có quyền yêu cầu giám đốc hoặc nhân viên cung cấp báo cáo về
các hoạt động của công ty cũng như quyền giám sát hoạt động và tài sản của đơn vị
bất cứ khi nào.
Nếu giám đốc nhận thấy khả năng công ty có tổn thất đáng kể họ phải báo cáo
cho Kansayaku-kai biết, ngay cả khi không được Kansayaku yêu cầu.
Kansayaku cũng có quyền hợp pháp yêu cầu báo cáo hoặc giám sát hoạt động,
tài sản tại bất cứ công ty con, chi nhánh nào của đơn vị. Và đơn vị chịu các chi phí

kiểm toán này (bao gồm cả thẩm tra).
* Chức năng ngăn chặn hành vi phi pháp của giám đốc.
Tất cả thành viên kansayaku phải tham dự tất cả các buổi họp của ban giám
đốc, và mỗi kiểm toán viên được phép bày tỏ quan điểm của mình nếu thấy cần
thiết để ngăn chặn ban giám đốc có các quyết định phi pháp hoặc quyết định bất
hợp lý ảnh hưởng đến công ty. Thậm chí ngoài các cuộc họp của ban giám đốc,
nếu kansayku nhận thấy sự vi phạm hoặc khả năng vi phạm luật hay điều lệ công
ty của một thành viên ban giám đốc, họ phải thông báo cho ban giám đốc. Nếu cần
thiết, kansayku có thể yêu cầu một cuộc họp ban giám đốc, hoặc kansayaku có
quyền triệu tập một cuộc họp. Khi một quyết định hoặc một hành vi vi phạm pháp
luật hay điều lệ công ty không thể bị ngăn chặn, sửa đổi, và các đề nghị, tài liệu
được giám đốc đệ trình lên Đại hội cổ đông chứa đứng các sai phạm hoặc sự bất
hợp lý nghiêm trọng, kansayaku phải báo cáo nhận định của họ về vấn đề này tại
Đại hội cổ đông. Nếu một hành động, quyết định của giám đốc có khả năng vi
phạm pháp luật hoặc điều lệ công ty, gây tổn thất đáng kể cho doanh nghiệp,
kansayku có quyền yêu cầu ban giám đốc ngừng ngay việc đó lại. Cuối cùng,
kansayaku thực hiện yêu cầu hủy bỏ công việc đó tại cuộc họp Đại hội cổ đông.
* Vai trò của Kansayaku khi sảy ra kiện tụng, tranh chấp giữa doanh
nghiệp và thành viên ban giám đốc
Trong cuộc tranh chấp giữa công ty và giám đốc công ty, kansayaku đại diện
cho công ty. Theo đó, kansayaku là người quyết định về việc công ty có kiện giám
đốc hay không. Kansayaku cũng là người được yêu cầu giải trình khi một cổ đông
có hành vi liên quan. Khi một cổ đông có hành vi liên quan được đưa ra trước tòa,
công ty có thể tham gia vụ kiện, thay mặt cho các bị cáo chỉ khi tất cả các thành
viên kansayaku chấp thuận. Thêm vào đó, một trường hợp phổ biến hơn là sự chập
thuận của tất cả các kansayaku là yêu cầu cần thiết để nghĩa vụ của các thành viên
ban giám đốc được xóa bỏ theo các thủ tục và giới hạn được nêu ra trong luật
Doanh nghiệp.
* Kansayaku và kiểm toán tài chính:
Các công ty lớn phải chi định một kiểm toán viên công chứng hoặc một hãng

kiểm toán với tư cách là kiểm toán viên độc lập. Các kiểm toán viên độc lập được
bầu chọn tài cuộc họp Đại hội cổ đông, và các đề cử phải được sự chấp thuận của
kansayaku-kai từ trước đó. Theo đó, một cuộc kiểm toán tài chính trong các công
ty lớn được thực hiện chủ yếu bởi kiểm toán viên độc lập, và báo cáo kiểm toán
này phải được đệ trình lên cả Kansayaku-kai và ban giám đốc. Kansayku kiểm tra
sự hợp lý của tóm tắt quá trình và kết quả của cuộc kiểm toán tài chính. Nếu
kansayaku tin rằng có sự bất hợp lý, họ phải tuyên bố cùng với lý do trong báo cáo
kiểm toán. Kansayaku sẽ tự tiến hành kiểm toán và tóm lược quá trình và kết quả
kiểm toán trong báo cáo kiểm toán. Nếu kiểm toán viên độc lập phát hiện hành vi
bất hợp lý hoặc vi phạm pháp luật hay điều lệ công ty có liên quan tới các hoạt
động của thành viên ban giám đốc, họ phải báo cáo cho kansayaku-kai. Kansayaku
cũng có quyền yêu cầu các báo cáo của kiểm toán viên độc lập nếu cần thiết. Cùng
với các điều trên, trong các công ty lớn, kansayku chịu trách nhiệm giám sát, quản
lý cuộc kiểm toán do các kiểm toán viên bên ngoài thực hiện, đây là một diểm
giống với chức năng của ủy ban kiểm toán ở Mỹ. Báo cáo kiểm toán đi kèm với
thông cáo của Đại hội cổ đông và bao gồm kết quả của cả các cuộc kiểm toán tài
chính và kiểm toán tuân thủ. Báo cáo kiểm toán này được chuẩn bị bởi kansayaku-
kai, nhưng mỗi kansayku có quyền viết ý kiến của họ vào đó. Như đã nói ở trên,
các báo cáo tài chính cuối niên độ cũng là đối tượng kiểm toán của kansayaku.
* Trách nhiệm pháp lý của Kansayaku
Theo Luật Doanh nghiệp, nếu kansayaku vi phạm nghĩa vụ của mình đối với
công ty, kansayaku phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với những tổn thất gây ra.
Ngoài ra, nếu có sự vi phạm cam kết hay sự cẩu thả trong hoạt động kiểm toán,
hoặc nếu báo cáo kiểm toán chứa đựng sai phạm, kansayaku có thể là người chịu
trách nhiệm pháp lý trực tiếp cho thiệt hại gây ra cho các bên thứ ba.
2.3.2. Kiểm toán viên độc lập và các chế tài xử phạt
2.3.2.1. Kiểm toán viên độc lập và Ủy ban kiểm toán và giám sát hoạt
động kiểm toán:
Cũng giống như Ủy ban chứng khoán, Ủy ban kiểm toán và giám sát hoạt
động kiểm toán (Certified Public Accountants and Auditing Oversight Board) được

sáng lập bởi FSA (Financial Services Agency), chúng tôi tạm dịch là Cơ quan dịch
vụ tài chính quốc gia.
Ủy ban này thực hiện các công việc dưới đây :
Thứ nhất, thẩm tra, giám sát, cân nhắc các vấn đề có liên quan đến hoạt động
kỷ luật đối với kiểm toán viên và hoạt động đăng ký hành nghề của kiểm toán viên
nước ngoài, cũng như các hoạt động của các hãng kiểm toán.
Thứ hai, đề ra các khuyến cáo, kiến nghị đối với các hoạt động quản lý của
Thủ tướng chính phủ hay bất cứ thước đo, chuần mực nào được dùng để đảm bảo
các hoạt động, dịch vụ của các kiểm toán viên trong nước, nước ngoài, các hãng
kiểm toán cũng như công việc của Hội nghề nghiệp kiểm toán (JICPA) đang được
thực hiện một các hợp lý, hợp pháp.
Thứ ba, tiến hành giám sát, thẩm tra đối với kiểm toán viên độc lập.
Như vậy, Uỷ ban kiểm toán và giám sát hoạt động kiểm toán chính là cơ quan
trực tiếp theo dõi, giám sát hoạt động kiểm toán độc lập và đề ra các kiến nghị,
khuyến cáo đối với Thủ tướng chính phủ.
2.3.2.2. Các hình thức kỷ luật đối với kiểm toán viên độc lập
Theo điều 29, Luật kiểm toán độc lập, kiểm toán viên độc lập có thể bị kỷ luật
dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, cảnh cáo.
Thứ hai, đình chỉ hành nghề nhưng không quá hai năm.
Thứ ba, tịch thu giấy phép hành nghề.
Cụ thể các hình thức kỷ luật trên được áp dụng đối với các sai phạm của kiểm
toán viên độc lập như sau:
Điều 30, Luật kiểm toán độc lập qui định, đối với hành vi xác minh có chủ ý
các báo cáo tài chính chứa đựng sai phạm thành không có sai phạm. Thủ tướng
chính phủ có thể áp dụng một trong hai hình thức đối với kiểm toán viên là : đình
chỉ hành nghề (không quá hai năm) và tịch thu giấy phép hành nghề. Đối với các
hành vi không có chủ ý hoặc do sự bất cẩn trọng nghề nghiệp, cẩu thả, tùy vào
mức độ, Thủ tướng chính phủ có thể áp dụng hình thức cảnh cáo hoặc đình chỉ
hành nghề không quá hai năm. Trong trường hợp, một hãng kiểm toán xác minh

báo cáo tài chính sai, nếu là do hành vi chỉ đạo có chủ ý hoặc sự bất cẩn trọng của
kiểm toán viên cấp cao, chủ nhiệm kiểm toán, thì tùy vào chi tiết mức độ sai
phạm để áp dụng một trong ba hình thức trên.
2.3.2.3.Yêu cầu bồi đền bù đối với vi phạm của kiểm toán viên:
Trong trường hợp kiểm toán viên độc lập cố ý sai phạm, họ phải trả số tiền
gấp 1.5 lần phí kiểm toán hoặc con số khác được chỉ ra bởi cơ quan trật tự nội các
( Cabinet Order) như là một khoản bồi thường tương ứng với phí kiểm toán phát
sinh. Nếu kế toán viên công chứng không cố ý đưa ra ý kiến sai, họ phải bồi
thường một khoản tiền tương ứng với phí kiểm toán.
Nếu khoản bồi thường được tính toán dưới mười ngàn yên ( khoảng
1.820.000 VND), kiểm toán viên sẽ không phải trả.
Nếu khoản tiền bồi thường được tính toán bao gồm một khoản lạ dưới mười
ngàn yên, khoản này sẽ được bỏ qua.
2.3.2.4. Các thủ tục thực hiện kỷ luật đối với kiểm toán viên:
Thủ tục áp dụng các hình thức kỷ luật đối với kiểm toán viên bao gồm các
bước sau :
Thứ nhất, bất kỳ ai, nếu nghi ngờ có vi phạm (như đã nói ở trên ) của kiểm
toán viên, đều có thể báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ và yêu cầu một sự đánh
giá, một thước đo đúng mực được tiến hành.
Thứ hai, khi có báo cáo nói trên, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiến hành các điều
tra cần thiết liên quan đến trường hợp được báo cáo.
Thứ ba, Thủ tướng Chính phủ, nếu cân nhắc khả năng có sai phạm thực sự
của kiểm toán viên độc lập, có thể tiến hành các cuộc điều tra chính thức.
Thứ tư, Thủ tướng Chính phủ, nếu dự định tiến hành đưa ra một trong các
hình thức kỷ luật nêu trên sẽ triệu tập một buổi giải trình để lấy ý kiến của các bên
liên quan.
Thứ năm, một hình thức kỷ luật sẽ được thực thi khi có đủ các chứng cứ hợp
lý về việc vi phạm của kiểm toán viên, sau khi có buổi giải trình và nhận được ý
kiến, quan điểm của Ủy ban kiểm toán và giám sát hoạt động kiểm toán.
2.3.2.5. Thẩm quyền điều tra :

Với mục đích tiến hành các điều tra cần thiết liên quan đến vấn đề nêu ở phần trên,
Thủ tướng chính phủ có quyền tiến hành bất cứ hoạt động nào dưới đây:
Thứ nhất, yêu cầu những người có liên quan, hoặc làm chứng trình diện và
tiến hành lắng nghe, thu thập ý kiến, hoặc báo cáo từ những người này.
Thứ hai, yêu cầu một chuyên gia trình diện và cung cấp ý kiến chuyên gia.
Thứ ba, yêu cầu chủ nhân của các sổ sách, tài liệu hoặc bất cứ đối tượng nào
khác cung cấp tài liệu cần thiết cho nhà chức trách.
Thứ tư, đi vào các văn phòng hoặc bất cứ nơi nào khác có liên quan và điều
tra các sổ sách, tài liệu hoặc bất cứ đối tượng nào khác có liên quan.
Nhìn chung, Luật Kiểm toán độc lập của Nhật Bản đã qui định khá rõ ràng
các vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ của kiểm toán viên độc lập, cũng
như các chế tài, hình thức kỷ luật, xử phạt đối với kiểm toán viên độc lập khi xảy
ra sai phạm, đây có thể nói là một trong những nguồn tài liệu quan trọng để chúng
ta học tập và áp dụng.
3. Thực tiễn về các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của công
ty kiểm toán tại Việt Nam.
3.1. Những quy định hiện có.
Hiện nay các qui định pháp lý điều chỉnh hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt
nam đã được ban hành tương đối đồng bộ như: Nghị định số 07/CP ngày
29/01/1994 của Chính phủ về ban hành Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh
tế quốc dân; Thông tư số 22/TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính về hướng
dẫn thực hiện Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân; Nghị định số
105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập, Nghị định số
133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004; Quyết định số 237TC/QĐ/CĐKT ngày
19/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về qui chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm
toán; Thông tư số 107/2000/TT-BTC ngày 25/10/2000 về hướng dẫn đăng ký hành
nghề kiểm toán; và nhiều luật văn bản pháp qui khác liên quan đến doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân, …
Ngoài những quy định pháp lý như trên thì Bộ Tài chính có trách nhiệm soạn

thảo và ban hành các chuẩn mực kiểm toán và đến nay đã ban hành được 37 chuẩn
mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Các chuẩn
mực kiểm toán được ban hành đã thể hiện một bước phát triển mạnh trong hoạt
động kiểm toán, đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động kiểm toán
độc lập, là cơ sở cho kiểm toán viên chuyên nghiệp và công ty kiểm toán kiểm tra,
đánh giá các thông tin tài chính một cách trung thực, khoa học, khách quan. Chuẩn
mực kiểm toán còn là cơ sở cho việc chỉ đạo giám sát, kiểm tra và đánh giá chất
lượng dịch vụ kiểm toán, là cơ sở cho việc đào tạo, huấn luyện và thi tuyển kiểm
toán viên.
Trong hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt nam có qui định các nguyên tắc cơ
bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính gồm:
(a) Tuân thủ pháp luật nhà nước: Kiểm toán viên phải luôn coi trọng và chấp
hành đúng pháp luật của nhà nước trong quá trình hành nghề kiểm toán.
(b) Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp: Kiểm toán viên phải tuân thủ
các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp: Độc lập, Chính trực; khách quan, năng lực
chuyên môn và tính thận trọng; tính bí mật; tư cách nghề nghiệp; và tuân thủ chuẩn
mực chuyên môn.
(c) Tuân thủ chuẩn mực kiểm toán: Kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực
kiểm toán Việt nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt nam chấp nhận.
Các chuẩn mực này qui định các nguyên tắc và thủ tục cơ bản hướng dẫn thể thức
áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán.
(d) Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá
trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán và phải luôn ý thức rằng có thể tồn tại
những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phải tuyệt đối tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản trên, mọi hành vi không phù hợp với các nguyên tắc này đều
có thể dẫn đến rủi ro kiểm toán. Trong điều kiện các chuẩn mực kiểm toán Việt
nam chưa đầy đủ, thì một trong các nguyên tắc cơ bản còn qui định kiểm toán viên
phải tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt nam chấp nhận. Tuy
nhiên thực tế sự hiểu biết về các chuẩn mực kiểm toán quốc tế còn hạn chế và việc

áp dụng các chuẩn mực này không thống nhất giữa các công ty kiểm toán.
Đồng thời với việc phải tuân thủ theo các khuôn khổ pháp luật của bản thân
hoạt động kiểm toán, trong quá trình kiểm toán, để đưa ra ý kiến kiểm toán, các
kiểm toán cần phải dựa vào các qui định pháp lý khác liên quan đến đối tượng
kiểm toán. Nếu các chuẩn mực kiểm toán yêu cầu các kiểm toán viên phải thực
hiện các công việc kiểm toán đầy đủ theo các nội dung mang tính mực thước thì
các qui định pháp lý liên quan đến đối tượng kiểm toán là các cơ sở để các kiểm
toán viên so sánh, đánh giá các bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến về đối
tượng kiểm toán. Để đưa ra ý kiến nhận xét về sự trung thực và hợp lý của báo cáo
tài chính thì kiểm toán viên phải xem xét và khảng định rằng các Báo cáo tài chính
có được lập theo các nguyên tắc kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân
thủ pháp luật liên quan hay không? Chẳng hạn, kiểm toán viên phải xem xét khả
năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp,... . Để đánh giá được tính liên tục hoạt
động, kiểm toán viên cần phải quan tâm đến các yếu tố dẫn đến phá sản hay giải
thể doanh nghiệp hoặc các yếu tố khác có thể dẫn đến khả năng tiếp tục hoạt động
trong thời gian nhất định. Muốn vậy, kiểm toán viên phải dựa vào luật công ty, luật
lao động, hay các qui định pháp lý liên quan khác. Hoặc khi kiểm toán xác định kết
quả kinh doanh trong kỳ cần phải dựa vào các qui định của nhà nước về quản lý
doanh thu và chi phí để xác định đầy đủ và hợp lý các khoản thu nhập và chi phí
làm cơ sở để xác định thuế thu nhập doanh nghiệp và lợi nhuận để lại đơn vị.
Trách nhiệm của kiểm toán viên được quy định cụ thể tại điều 17 nghị định
105/2004/ NĐ- CP: Trách nhiệm của kiểm toán viên hành nghề:
1. Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập quy định tại Điều 4
của Nghị định này.
2 . Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được can thiệp
vào công việc của đơn vị đang được kiểm toán.
3. Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của
mình.
4. Kiểm toán viên hành nghề vi phạm Điều 15, 17, 18, 19 của Nghị đinh này,
thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị tạm đình chỉ, cấm vĩnh viễn đăng ký

hành nghề kiểm toán hoặc phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
5. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ có một số Nghị định, thông tư có
liên quan đến trách nhiệm pháp lý của công ty kiểm toán và luật chứng khoán liên
quan đến hoạt động của kiểm toán độc lập. Trong đó đáng chú ý nhất là nghị định
105/2004/NĐ- CP, nghi định 133/2005/ NĐ- CP, quyết định số 89/2007/QĐ-BTC
và thông tư 64/2004/TT-TC ngày 29/6/2004. Tuy nhiên những quy định trên đang
còn khá chung chung, chưa mang tính áp dụng.
Ta phân tích Điều B.6 của thông tư 64/2004/TT- TC nói về trách nhiệm của
DN kiểm toán làm ví dụ, theo điều B.6 trên thì công ty kiểm toán chịu trách nhiệm
trước pháp luật, trước khách hàng, theo hợp đồng đã ký kết và chịu trách nhiệm
một phần với người sử dụng kết quả kiểm toán và các dịch vụ đã cung cấp.
Các điều kiện đối với người sử dụng kết quả kiểm toán:
1. Có lợi ích liên quan trực tiếp tới kết quả dịch vụ kiểm toán của đơn vị được
kiểm toán tại ngày ký báo cáo kiểm toán
2. Có hiểu biết một cách hợp lý về báo cáo tài chính, cở sỏ lập báo cáo tài
chính, v.v.
3. Đã sử dụng thận trọng thông tin trên các báo cáo tài chính.
Mức bồi thường: là tối đa 10 lần mức phí kiểm toán của năm bị phạt.
Một số phân tích:
- Kiểm toán có phải chịu trách nhiệm một phần với người sủ dụng kết quả
kiểm toán
- Với các điều kiện nêu trên, thì (a) một cổ đông tương lai chắc chắn không
được bồi thường (b) một ngân hàng sẽ cho DN vay chắc chắn không được bồi
thường, (c) tóm lại các bên mà tại thời điểm ký báo cáo kiểm toán không có quan
hệ trực tiếp với DN sẽ không được bồi thường, nếu các bên ấy cứ dựa vào báo cáo
kiểm toán. Hơn nữa, cho dù các bên ấy có quan hệ trực tiếp hơn nữa thì các bên
liên quan ấy cũng khó chứng minh được rằng (i) các bên liên quan có hiểu biết một
cách hợp lý về tài chính kế toán, kiểm toán, (ii) các bên liên quan đã thận trọng
- Hơn nữa, mức bồi thường cũng chỉ giới hạn ở mức 10 lần phí kiểm toán-

đâu có nhiều.
Nhận xét:
- Đưa ra hạn chế về mức bồi thường là một điều không hợp lý
- Đưa ra việc chịu trách nhiệm một phần cũng là điều vô lý- thế nào là một
phần- phần ấy to hay nhỏ?
- Hơn nữa, cơ quan có thẩm quyền quyết định là cơ quan nào?
3.2. Thực trạng việc áp dụng các quy định trên.
Để nói về vấn đề rất nhạy cảm và nóng bỏng này chúng ta cùng nghiên cứu
một tình huống dễ xảy ra trong thực tế:
Khi Báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần được công bố. Tức đã có sự
xem xét và ký duyệt của Kiểm toán viên và Giám đốc công ty Kiểm toán.
Vậy nếu có sự kiện tụng nào liên quan đến báo cáo đó, thì người chịu trách
nhiệm pháp lý là ai? Kiểm toán viên chính? Chủ nhiệm? Hay giám đốc?
Giả sử người sử dụng báo cáo không ký hợp đồng với công ty Kiểm toán về
việc được sử dụng báo cáo Kiểm toán đó, thì có được phép kiện công ty Kiểm
toán đó không?
Vì báo cáo đó, có ảnh hưởng đến việc thiệt hại tài chính của người sử
dụng.... Cụ thể hơn, là các Cổ đông. Họ tin vào báo cáo đó, nên đã đầu tư cho

×