Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty XNK THIẾT BỊ ĐIỆN ẢNH - TRUYỀN HÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.78 KB, 14 trang )

Phần III
Một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện
tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của Công ty xnk thiết bị điện ảnh
- truyền hình.
---------------&---------------
I. Đánh giá chung về tình hình tài chính của Công ty:
Hơn 25 năm kể từ khi thành lập, Công ty XNK thiết bị điện ảnh -
truyền hình đã trải qua không ít những khó khăn thử thách to lớn trong quá
trình tồn tại và phát triển. Trớc những khó khăn về vốn, công nghệ, thị trờng tiêu thụ
sản phẩm nhng nhờ những chính sách đổi mới của Ban lãnh đạo Công ty, nhờ quyết
tâm đa Công ty phát triển cao hơn nữa bằng nhiều khả năng và biện pháp, Công ty
vẫn đứng vững và phát triển ổn định cùng với các Công ty khác trên cả nớc cung cấp
những sản phẩm có chất lợng cao đáp ứng đợc ngày càng cao nhu cầu của thị trờng.
Phân tích tình hình tài chính của Công ty là yêu cầu mang tính thờng xuyên và là
mối quan tâm của nhiều nhóm ngời khác nhau nh Ban lãnh đạo Công ty, các tổ chức
tín dụng, các khách hàng, nhà cung cấp và các đối tợng khác. Thông qua việc tiếp
cận với tình hình tài chính của Công ty trên cơ sở hệ thống báo cáo tài chính kế toán
năm 2001 và năm 2002 với t cách là một sinh viên chuyên ngành Tài chính, cá nhân
em có một số đánh giá về tình hình tài chính của Công ty XNK thiết bị điện ảnh -
truyền hình nh sau:
Nhìn chung, trong những năm gần đây, Công ty làm ăn có lãi. Năm 2001, Công ty
đã bị lỗ 117.587.364 VNĐ, nhờ những nỗ lực cố gắng của Công ty và nhờ chính sách
u đãi cả nhà nớc, năm 2002 Công ty dần hồi phục và ổn định trở lại nâng mức lợi
nhuận trớc thuế lên 68.728.424 VNĐ. Công ty luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao
mức thu nhập cho công nhân viên và tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn đa tình
hình tài chính của Công ty ổn định và khả quan hơn. Thực tế cho thấy tình hình tài
chính của Công ty tơng đối lành mạnh và có nhiều triển vọng khả quan trong tơng
lai. Xu hớng tích cực này càng góp phần làm cho Công ty có tro đứng vững trong
cạnh tranh và khẳng định đợc vị trí của mình trong nền kinh tế thị trờng.
Những tồn tại về mặt tài chính của Công ty ngày càng đợc giảm xuống để thích


nghi với tình hình mới, làm tăng hiệu quả kinh doanh đa mức tổng lợi nhuận ngày
càng tăng lên. Quy mô tài sản và nguồn vốn của Công ty nói chung năm 2002 tăng
lên 10,68% so với năm trớc. Tuy nhiên, cơ cấu tài sản và nguồn vốn cha thật hợp lý
và phù hợp với đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Công ty. Nhìn vào bức tranh tài
chính của Công ty ta thấy các khoản mục tài sản và nguồn vốn vẫn cha có sự phân bố
hợp lý: Về phần tài sản của Công ty chỉ có TSCĐ hữu hình mà không có các tài sản
khác, các khoản ĐTDH và các khoản chi phí XDCB không có. Giá trị TSCĐ năm
2002 giảm so với năm 2001 do mức khấu hao khá lớn. Công ty bị thiếu vốn để đầu t
trang bị cho TSCĐ, trong khi quy mô tài sản nói chung tăng 10,68% nhng chủ yếu là
do TSLĐ và ĐTNH tăng, còn nguyên giá TSCĐ do mua sắm cũng tăng nhng rất ít..
Bản thân TSLĐ của Công ty cũng có những điểm đáng chú ý sau:
+ Vốn bằng tiền năm 2002 giảm so với năm 2001 đợc đánh giá là cha tốt vì nó cha
đáp ứng đợc khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh của Công ty.
Trong vốn bằng tiền thì tiền gửi Ngân hàng chiếm chủ yếu do việc thanh toán trong
hoạt động kinh doanh chủ yếu đợc thực hiện thông qua chuyển khoản, séc.... Khoản
tiền gửi Ngân hàng trong mục vốn bằng tiền cũng giảm so với năm trớc.
+ Hàng tồn kho tăng đáp ứng đợc nhu cầu tăng vốn cho khâu dự trữ và khâu tiêu
thụ của Công ty. Tuy nhiên, sang năm tới Công ty có thể giảm vốn dự trữ cho các loại
sản phẩm theo định mức dự trữ đã đợc nghiên cứu phù hợp với năng lực tiêu thụ của
Công ty.
+ Các khoản phải thu của Công ty năm 2002 giảm đi, trong đó chủ yếu là giảm
khoản phải thu khác và trả trớc cho ngời bán, chứng tỏ uy tín của Công ty một phần
nào đã đợc nâng cao, riêng khoản phải thu của khách hàng tăng lên nhng tăng không
đáng kể, nh vậy chứng tỏ Công ty ít bị chiếm dụng vốn từ phía khách hàng do đó
cũng tránh đợc tình trạng ứ đọng vốn trong khâu lu thông.
+ Các khoản Nợ phải trả của Công ty năm 2002 tăng lên so với năm trớc với tổng
số nợ phải trả là 9.334.290.136 VNĐ, trong đó chủ yếu là do tăng các khoản vay
ngắn hạn (960.189.143 VNĐ) và các khoản phải trả nhà cung cấp (187.716.155
VNĐ), các khoản nợ các đối tợng khác nh ngời mua cũng tăng nhng chậm hơn.
Nguyên nhân chính làm cho các khoản nợ vay tăng lên là do Công ty tăng mức dự trữ

hàng tồn kho, đồng thời Công ty bán chịu cho khách hàng tăng. Để đảm bảo thanh
toán cho nhà cung cấp đúng hạn và đảm bảo chữ tín đối với họ cho nên Công ty phải
vay tạm thời để thực hiện mục tiêu này. Nếu so sánh với các khoản phải thu thì Công
ty đi chiếm dụng nhiều hơn là bị chiếm dụng, đồng thời nếu so với vốn chủ sở hữu
thì các khoản phải thanh toán cũng chiếm tỷ trọng lớn do đó khả năng thanh toán nợ
của Công ty cha thật cao. Điều này có ảnh hởng đến tâm lý của các chủ Ngân hàng,
các nhà cho vay tín dụng cũng nh những ngời có quan hệ thanh toán với công ty. Nếu
khả năng thanh toán hiện hành ngắn hạn của Công ty rất tốt nhng khả năng thanh
toán nhanh của Công ty lại giảm do vốn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá
nhanh thành tiền của Công ty giảm do đó khả năng đầu t vào những lĩnh vực kinh
doanh có chu kỳ kinh doanh ngắn của Công ty bị hạn chế.
Nguồn vốn chủ sở hữu giảm so với kỳ trớc (8.951.399 VNĐ tơng đơng giảm
0,1%) chủ yếu là do nguồn vốn quỹ giảm hay nguồn vốn kinh doanh giảm. Với
nguồn vốn tự có của mình Công ty chỉ đảm bảo tài trợ cho TSCĐ và một phần cho
TSLĐ, phần còn lại buộc Công ty phải huy động bên ngoài để bù đắp. Nh vậy, tỷ lệ
vốn vay và vốn đi chiếm dụng cao hơn so với tiêu chuẩn của ngành sản xuất công
nghiệp (mức đảm bảo vốn phải đạt trên 50% thì mới an toàn và chủ động) cho thấy
Công ty cha chủ động về vốn. Nhng đây là tình hình chung của các doanh nghiệp
Nhà nớc vì nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu là do Ngân sách Nhà nớc cấp
dới hình thức TSCĐ ( Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị...) nguồn vốn lu động
rất ít, vốn tự bổ sung không nhiều. Chính vì vậy, Công ty đang thiếu vốn để mở rộng
quy mô hoạt động kinh doanh và để chủ động trong kinh doanh, Công ty đã phải
huy động vốn vay vừa bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, vừa đảm bảo đem lại
lợi nhuận.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là doanh thu thuần trong hoạt động kinh doanh
của Công ty năm 2002 tăng nhanh nên đã làm cho các giá trị của hiệu quả sử dụng
và hiệu quả sinh lợi của vốn kinh doanh, vốn chủ sở hữu và VCĐ đều tăng lên cao.
Đây cũng là điều kiện để gây lòng tin từ phía ngời cho vay. Công ty cũng đã sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả VCĐ, VLĐ và vốn sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao
chỉ tiêu lợi nhuận.

Trên đây là những nhận xét đánh giá, chung nhất về tình hình tài chính của Công
ty. Qua các đánh giá trên cho thấy tình hình tài chính của Công ty trong năm 2002 t-
ơng đối ổn định, lành mạnh và khả quan hơn so với năm 2001. Tuy nhiên, để khắc
phục đợc những bất cập còn tồn tại trong bức tranh tài chính của Công ty, cần thiết
phải đề ra một số phơng hớng, giải pháp mang tính đề xuất nhằm cải thiện tình hình
tài chính của Công ty trong những năm tiếp theo.
II. một số kiến nghị và giải pháp đề xuất nhằm cải thiện tình hình
tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công
ty Xnk thiết bị điện ảnh - truyền hình trong những năm tới:
Những phân tích, đánh giá trên đây mới chỉ dừng lại ở những Đanh giá chung
nhất và những nét cơ bản nhất về tình hình tài chính của Công ty. Do vậy, những kiến
nghị mang tính đề xuất dới chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn nhất định nào đó nên
cần phải đặt trong mối quan hệ với tình hình thực tế luôn phát sinh và biến động tại
Công ty thì mới thực sự có giá trị.
1. Các kiến nghị đối với Công ty:
1.1. Kiến nghị về công tác quản lý:
Nhìn chung, bộ máy quản lý của Công ty đã đáp ứng đợc yêu cầu tinh giảm gọn
nhẹ của Nhà nớc đảm bảo sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Ban lãnh đạo Công
ty tạo ra đợc hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, bộ máy quản lý của
Công ty vẫn còn trì trệ, yếu kém về hiệu quả. Cán bộ quản lý ở các mặt hoạt động,
các lĩnh vực của Công ty ngoài lực lợng lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có
nhiều kinh nghiệm trong thời buổi nền kinh tế thị trờng vẫn còn một số cha đáp ứng
đợc yêu cầu của phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, để có thể phát triển nhanh
hơn nữa, Công ty cần phải tăng cờng khả năng tổ chức lãnh đạo và quản lý hơn nữa
bằng việc chú trọng đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý năng động hơn, linh hoạt
hơn và có trình độ cao hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày nay. Muốn thực hiện
đợc điều đó, Công ty nên áp dụng các giải pháp sau:
Thứ nhất, Công ty phải chấn chỉnh và sắp xếp lại bộ máy gián tiếp, phục vụ trong
Công ty theo hớng tinh giảm, gọn nhẹ hơn nữa, giải quyết chế độ cho số cán bộ, nhân
viên có điều kiện và thâm niên công tác nhng không đáp ứng đợc yêu cầu về sức

khoẻ và trình độ năng lực. Ban lãnh đạo Công ty cần kiên quyết sàng lọc những ngời
không đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đồng thời phải có chế độ thởng phạt phân
minh nhằm khuyến khích động viên kịp thời những ngời đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ hai, Công ty nên bổ sung một lực lợng cán bộ khoa học kỹ thuật, nhân viên
trẻ và có những chính sách để thu hút họ. Ngoài ra, Công ty cũng nên tổ chức các lớp
học ngắn hạn về pháp luật và những cải cách đổi mới của Nhà nớc, đặc biệt là những
chính sách về tiền lơng, tiền thởng để thực hiện quy chế dân chủ trong quản lý.
1.2. Kiến nghị về công tác kế toán:
Kết quả cuối cùng của công tác kế toán là đa ra đợc những báo cáo tài chính phản
ánh đúng tình hình, thực trạng tài chính của Công ty. Hiện nay, công tác kế toán rất
phù hợp với đặc điểm và quy mô kinh doanh của Công ty. Sự phân công trách nhiệm
đối với từng ngời trong phòng tài vụ là tơng đối hợp lý, hạch toán kế toán theo đúng
chuẩn mực pháp lý phù hợp với chế độ kế toán hiện hành. Để giảm bớt công sức và
thời gian cho nhân viên kế toán và để đáp ứng với nền công nghiệp hiện đại ngày
nay, Công ty nên tiếp cận và áp dụng kế toán máy vào công việc thu nhận và xử lý
thông tin kế toán cho quản lý một cách kịp thời, chính xác. Có nh vậy mới có thể
giảm bớt đợc việc tích trữ một lợng lớn tài liệu, sổ sách kế toán và công sức của nhân
viên kế toán. Nhng, để có những báo cáo tài chính kế toán cuối kỳ trung thực thì đòi
hỏi các kế toán viên phụ trách từng phần hành kế toán trong Công ty phải phản ánh
chính xác các nghiệp vụ phát sinh. Do công tác hạch toán kế toán hàng ngày tại
phòng tài vụ nhiều phức tạp nên yêu cầu đặt ra là Công ty cần phải có một đội ngũ
nhân viên kế toán có chuyên môn và nghiệp vụ đồng đều. Từ nhiều năm trở lại đây,
Công ty đã chú trọng công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị
thêm các phơng tiện hỗ trợ cho các cán bộ, nhân viên phòng tài vụ và các nhân viên
hạch toán ban đầu tại các phân xởng. Tuy nhiên, trớc những biến động và sự hoà
nhập của nền kinh tế trong nớc với khu vực và thế giới, Công ty vẫn cần phải trang bị
thêm những kiến thức về hệ thống kế toán quốc tế cũng nh các chuẩn mực kiểm toán
trong nớc và quốc tế cho đội ngũ nhân viên kế toán.
Kỳ lập Báo cáo tài chính: Để nắm bắt đợc tình hình tài chính của Công ty kịp thời
thông qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty thì Công ty phải tiến hành

lập Báo cáo tài chính đúng kỳ kế toán. Để thực hiện đợc điều này, Công ty cần có
biện pháp đốc thúc các đơn vị lập báo cáo đúng kỳ, đồng thời có biện pháp xử phạt
cụ thể đối với các đối tợng nộp sai kỳ hạn gây cản trở cho công tác phân tích tài
chính của Công ty và định hớng cho sự phát triển trong năm tới.

×