Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THIÊN NHIÊN TRONG CẢM HỨNG THƠ THIỀN CỦA TRẦN NHÂN TÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.61 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------------------2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI-------------------------------------------------------------------2
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ-------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG-------------------------------------------5
1.1. TRẦN NHÂN TÔNG------------------------------------------------------------------5
1.1.1. Thân thế và cuộc đời của Trần Nhân Tông--------------------------------5
1.1.2. Sự nghiệp thơ văn của Trần Nhân Tông-----------------------------------8
1.1.3. Thiền phái Trúc Lâm và tư tưởng của Trần Nhân Tông----------------11
1.2. KHÁI NIỆM “THIỀN” VÀ “THƠ THIỀN”------------------------------------------13
1.2.1. Khái niệm “Thiền”----------------------------------------------------------13
1.2.2. Khái niệm “thơ Thiền”-----------------------------------------------------14
1.3. CẢM HỨNG THƠ VÀ CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ------------------15
1.3.1. Cảm hứng thơ----------------------------------------------------------------15
1.3.2. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ-------------------------------------------17
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN TRONG CẢM HỨNG THƠ THIỀN CỦA
TRẦN NHÂN TÔNG-------------------------------------------------------------------24
2.1. THIÊN NHIÊN THANH NHÃ VÀ U TỊCH-------------------------------------------24
2.2. THIÊN NHIÊN HỮU TÌNH, HỊA QUYỆN, VỪA HƯ VỪA THỰC------------------32
2.3. THIÊN NHIÊN KHAI NGỘ TÂM TRÍ CON NGƯỜI---------------------------------37
KẾT LUẬN--------------------------------------------------------------------------------43
TÀI LIỆU THAM KHẢO--------------------------------------------------------------44

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Khi nhắc đến Trần Nhân Tông, người ta nghĩ ngay đến một vị vua, một
thiền sư chứ ít ai lại nghĩ đến một nhà thơ. Nhưng Trần Nhân Tông lại là một nhà
thơ vơ cùng xuất sắc với nhiều tác phẩm có giá trị. Thơ Trần Nhân Tơng có sự


pha trộn giữa chất thiền với chất thế sự, giữa chất đạo với chất đời. Chính vì thế
mà khi đặt vấn đề nghiên cứu thơ văn Trần Nhân Tông, người ta thường quan
tâm đến tính triết lí, giáo huấn của thơ ơng mà ít khi để tâm đến các chất của tác
phẩm.
2. Thơ ca đời Trần là một nền thơ ca phát triển mạnh, đặt nền móng vững
chắc cho sự hình thành và phát triển của nền thơ ca cổ điển Việt Nam, là “đỉnh
cao thứ nhất của thơ ca Hán học nước ta”. Trong tiến trình văn học trung đại, thơ
ca đời Trần chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Thơ ca đời Trần có nhiều đóng
góp về mặt nội dung và nghệ thuật cho nền văn học Việt Nam buổi sơ khai. Nói
như thế khơng có nghĩa là những giá trị ấy thơ sơ mà ngược lại nó vơ cùng trong
trẻo, tinh vi đến mức vơ cùng. Trong đó, thiên nhiên là mảng đề tài có vai trị
quan trọng trong việc góp phần khẳng định vị trí đặc biệt của thơ ca đời Trần
trong tiến trình văn học cổ diển dân tộc.
2. Trần Nhân Tơng chịu ảnh hưởng của triết lí Thiền từ nhỏ nên thơ ông
luôn phảng phất dư vị thiền. Chính thế mà thiên nhiên trong thơ Trần Nhân Tông
thường mang ý nghĩa biểu tượng, là khách thể để chủ thể kí thác những quan
niệm sống, những triết lí thiền vào đó. Nhưng đồng thời, dười góc độ là một thi
nhân, thiên nhiên trong thơ Trần Nhân Tông cũng có những nét rất thật, rất thiên
nhiên và đậm chất thơ.

2


Vì những lí do trên, người viết muốn đặt vấn đề tìm hiểu sâu về cảm hứng
thiên nhiên trong thơ Trần Nhân Tông để thấy được chất thi sĩ và thiền sư hòa
trộn trong một con người.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trần Nhân Tông trước nay luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học bởi cuộc đời ông kiêm nhiều vai trò khác nhau: vua, thiền sư, nhà thơ.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của người viết thì ít có nhà nghiên cứu và cơng trình

nghiên cứu nhìn nhân vật lịch sử này dưới góc độ của một nhà thơ để xem xét,
đánh giá các tác phẩm của ông như những tác phẩm nghệ thuật thật sự. Dưới đây,
xin kể ra một số cơng trình nghiên cứu mà người viết khảo sát được:
- Tồn tập Trần Nhân Tơng – Lê Mạnh Thát : Cuốn sách là một công trình
nghiên cứu tổng thể về cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Nhân Tơng.
Trong cơng trình này, Lê Mạnh Thát cũng dành một phần để khai thác sự
nghiệp văn chương của nhà vua. Đáng chú ý là ngoài những di sản thơ
bằng chữ Hán và chữ Nôm, tác giả còn sưu tầm được khá nhiều nhwungx
bài giảng, văn thư ngoại giao,văn xuôi,… của Trần Nhân Tông.
- Luận văn thạc sĩ văn học của Nguyễn Thị Giang năm 2014, đề tài “Đặc
điểm thơ Trần Nhân Tông”: Với đề tài này, tác giả Nguyễn Thị Giang đã
đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu về những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
trong thơ Trần Nhân Tơng. Đặc biệt, cơng trình này đã chỉ ra gần như đầy
đủ phong cách thơ Trần Nhân Tơng qua thể thơ, ngơn ngữ, hình ảnh, giọng
điệu.
- Luận văn thạc sĩ ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam của Đinh Thị Đào năm
2015, đề tài “Cảm hứng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông và
Huyền Quang dưới góc nhìn so sánh”: Với cơng trình này, tác giả Đinh
Thị Đào đã chỉ ra những nội dung chính trong cảm hứng thiên nhiên trong
sáng tác của Trần Nhân Tơng. Đồng thời, tác giả cịn đặt cảm hứng thiên
3


nhiên trong thơ Trần Nhân Tông trong thế đối sánh với cảm hứng thiên
nhiên trong thơ của Huyền Quan để làm rõ sự khác biệt trong cách cảm
nhận thiên nhiên của thiền sư 2 thời Lý Trần cũng như là những điêm đặc
biệt trong cảm hứng thơ của Trần Nhân Tơng.
Trên đây, người viết đã tóm lược ngắn gọn những cơng trình nghiên cứu
riêng về thơ Trần Nhân Tơng mà người viết tìm hiểu được.
Trong bài tiểu luận này, người viết khơng có tham vọng sẽ tìm ra được

những điều mới, những tư tưởng mới trong cảm hứng thiên nhiên của Trần Nhân
Tơng. Người viết chỉ cốt đi sâu, tìm hiểu rõ hơn về cảm hứng thiên nhiên trong
sáng tác của Trần Nhân Tông, đồng thời, đặt cảm hứng thiên nhiên ấy dưới góc
nhìn của một thiền sư so với một thi sĩ để thấy sự khác biệt.

4


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Trần Nhân Tông
1.1.1. Thân thế và cuộc đời của Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ tám
(1258)1, tên húy là Khâm, con trai đầu lòng của vua Trần Thánh Tơng và Ngun
Thánh Thiên Cảm hồng thái hậu. Theo truyền thuyết, trước kia hoàng thái hậu
thường mơ thấy thần dâng cho một dôi kiếm và bảo chọn lấy một, thái hậu chọn
ngẫu nhiên được một thanh đoản kiếm, từ đó có mang.
“Giấc hịe thoắt nhắp đêm xn,
Chiêm bao xảy thấy thần nhân một người.
Cao cả tượng sứ nhà Trời,
Trao cho lưỡng kiếm, có lời bảo vay.”2
Lúc mới sinh, Trần Nhân Tơng đã có khí chất khác người “tinh anh thánh
nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hồn hảo, thần khí tươi
sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái có nốt ruồi
đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn.” 3. Ngay từ nhỏ vua Trần Nhân
Tơng đã tỏ rõ được những khí chất khác thường của mình. Ơng được vua cha vơ
cùng u thương và giáo dục một cách chu toàn:“Cha mẹ dưỡng dụ u
thương”4
Trong “Thánh đăng ngữ lục” có viết: “Điều Ngự tính vua thông minh, đa
năng hiếu học, xem trải mọi sách, thơng nội ngoại điển”. Ơng khơng những am
1 Lê Mạnh Phát, Tồn tập Trần Nhân Tơng, nxb. Tp.HCM, 2000, Tr 33.

2 Thiền tông bản hạnh, Tr 29 – 30 (câu
431 – 434)
3 Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử kí tồn thư, bản dịch viện khoa học xã hội Việt Nam,
2001, Tr 158.
4 Thiền tông bản hạnh, Tr 30 ( 449 )

5


hiểu tam giá, Phật điển mà cịn thơng thạo thiên văn, lịch số, y thuật, âm luật. Đó
là những nền tảng ban đầu để hình thành nên một con người tồn tài hiếm có
trong lịch sử. Một cá nhân hội tụ ba con người: một nhà chính trị kiệt xuất, một
thiền sư triết gia lỗi lạc, một nhà thơ tài hoa.
Năm 16 tuổi, Khâm được phong làm hoàng thái tử. Năm 21 tuổi, ngày 22
tháng 10 năm Mậu Dần, Bảo Phù thứ 6 ( 1278 ), Trần Nhân Tông lên ngôi vua.
Mặc dù lên ngôi vào lúc Đại Việt đã có những bước phát triển và sự ổn
định nhất định, tuy nhiên Đại Việt khi ấy vẫn là miếng mồi ngon mà các thế lực
phong kiến phương Bắc luôn hăm he, dịm ngó. Ngay khi Trần Nhân Tơng vừa
lên ngơi, lợi dụng cơ hội chính quyền mới cịn non trẻ, nhân cơ hội này giặc
Nguyên kéo sang xâm lược nước ta vào năm 1285 và 1288. Quân Nguyên Mông
khi ấy là đoàn quân thiện chiến, tinh nhuệ từng từng đánh chiếm cả nửa châu Âu.
Trong khi đó quân đội ta vũ khi q thơ sơ, chính quyền chưa ổn định vì nhà vừa
mới lên ngơi.Nhưng với tài năng, bản lĩnh và chính sách ngoại giao khơn khéo,
chính sách khoan hịa nhân ái đã gắn kết nhân dân trăm họ, Trần Nhân Tông đã
lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại ý đồ xâm lược của kẻ thù.
Khi đất nước đã qua giai đoạn chiến tranh, bước đầu đi vào ổn định thì
cũng là lúc Ngài bắt đầu thi hành những chính sách để ổn định chính trị và phát
triển đất nước về mọi mặt. Sau chiến thắng Nguyên Mông lần 2, nhà vua ra
thông cáo ân xá cho cả nước và tha tô thuế tạp dịch cho những vùng đã trải qua
chiến trnh và miễn giảm cho các vùng khác. Người cịn có những chính sách

thưởng phạt thích đáng đối với những người có cơng – tội trong kháng chiến. Để
củng cố về chính trị, Người cịn cho tổ chức lại bộ máy nhà nước tiến hành tahnh
tra các quan lại cai trị ở các lộ. Về mặt văn hóa, Trần Nhân Tơng khuyến khích
sử dụng chữ nơm, tiến hành phong thần cho 27 vị anh hùng liệt nữ có công trong
kháng chiến. Thêm nữa, vua Trần Nhân Tông cũng chính là người dốc sức để
6


“hoằng truyền chính pháp, chấn hưng đạo Phật”5. Về mặt kinh tế - xã hội, vua
Trần Nhân Tông cho tái thiết đời sống vật chất cho nhân dân, tạo một bộ mặt
tươi đẹp cho đất nước. Nhà vua đã có nhiều chính sách khơn khéo, khuyến khích
nhân dân tăng gia sản xuất, khai khẩn đất hoang mở rộng diện tích canh tác,
giảm tô thuế, … chỉ trong vài năm, nền kinh tế Đại Việt đã có những khởi sắc
đáng kể. Các mặt hàng khơng chỉ có lưu thơng trong nước mà cịn có sự giaoo
thương với các nước khác.
Song song với những biện pháp chấn chỉnh kinh tế - chính trị - xã hội cho
đất nước, ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nhà vua ngay lập tức tiến hành các
chính sách ngoại giao mềm dẻo và khơn khéo nhằm vừa đè bẹp ý chí xâm lược
của kẻ thù, vừa duy trì hịa bình cho đất nước.
Khơng chỉ là một vị minh qn, Trần Nhân Tơng cịn là một thiền sư, một
nhà triết học lỗi lạc của dân tộc. Ngay từ khi cịn trẻ, ơng đã muốn theo con
đường tu hành nhưng vì thương vua cha và vì những trọng trách đối với đất nước
nên đành gác lại tâm nguyện ấy. Trong những lúc nhàn rỗi việc nước, nhà vua
thường mời các nhà thiền học đến để giảng giải cho mình về cái học tâm tơng.
Khi đất nước về cơ bản đã ổn định, sự nghiệp nhà Trần đã có người tiếp bước thì
lúc ấy vua Trần Nhân Tơng mới thực hiện tâm nguyện của mình. Theo như Đại
Việt sử kí tồn thư ghi chép thì vua Trần Nhân Tơng chính thức xuất gia vào năm
1299 tại núi Yên Tử, (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Người truyền tâm ấn và
chứng ngộ Phật pháp cho cho Trần Nhân Tông là người bác của nhà vua, Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Tung, chính tư tưởng phật giáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ

đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng thiền tông của Người sau này. Khi tu đạo,

5 Hịa thượng Thích Gia Quang - Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trần Nhân Tơng - Vị anh hùng dân tộc và sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, />
7


Trần Nhân Tông lấy tên hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà 6, sau đổi là Trúc Lâm
Đại Đầu Đà, Người lập tháp miếu, tịnh xá, mở đạo độ tăng, người tìm đến học
đạo rất đơng. Thái thượng hồng Trần Nhân Tông là người kế thừa Thiền sư Huệ
Tuệ, làm tổ sư thứ sáu của Sơn môn Yên Tử, sau đổi thành Trúc Lâm Tiền Phái.
Trần Nhân Tông trở thành tổ sư thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm.
Trần Nhân Tông viên tịch vào ngày 1/11/1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên
Tử, thọ 51 tuổi. Với cuộc đời 14 năm làm vua, 8 năm tu đạo chốn cửa Phật, nhà
vua đã có những đóng góp lớn cho cơng cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước trên nhiều lĩnh vực mà đặc biệt là lĩnh vực văn hóa.
1.1.2. Sự nghiệp thơ văn của Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông không chỉ được biết đến như một vị vua anh minh với tài
thao lược kiệt xuất và các chính sách đối nội, đối ngoại khôn khéo; hay như một
vị thiền sư có nhiều đóng góp to lớn cho nền Phật Giáo Việt Nam, mà Người còn
được biết đến như là một người nghệ sĩ tài hoa với nhiều tác phẩm có giá trị.
Thơ văn Trần Nhân Tông gồm 6 bộ phận là : thơ,văn phú, bài giảng, ngữ
lục, bài giảng và văn thư ngoại giao. Tuy nhiên, trong những năm giặc Minh đô
hộ đất nước ta vào đầu thế kỉ XV, với chính sách đồng hóa dân ta, giặc Minh đã
cho hủy tất cả không từ một mảnh giấy hay một câu một chữ nào những bản in
sách, các giấy tờ cho đến sách học của trẻ con như loại “thượng, đại, nhân, khâu,
ất, kỉ”, chính thế mà thơ văn của vua Trần Nhân Tơng bị thất lạc nhiều, chỉ cịn
lại rất ít.
Trần Nhân Tơng sáng tác bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nơm, theo một số tài
liệu thì các tác phẩm của nhà vua bao gồm: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ

lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền), Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt
6 Đầu Đà: người tu khổ hạnh, tiếng Phạn là Dh (ta) có nghĩa là rũ bụi, rũ hết bụi bặm của cuộc đời, trong đó có
bụi danh, bụi lợi, bụi tài, bụi sắc.

8


của sư tăng), Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá), Đại hương hải ấn thi
tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm), Trần Nhân Tông thi tập (Tập
thơ Trần Nhân Tông), Trung Hưng thực lục (2 quyển, chép việc bình quân
Nguyên xâm lược). Nhưng hầu hất các tác phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ cịn lại
một số ít được chép rải rác trong Thánh đăng ngữ lục, Thiền tơng bản hạnh, An
Nam chí lược, Nam Ơng mộng lục, Việt âm thi tập và Tồn Việt thi lục, cộng
thêm 3 đoạn phiến trong Đại Việt Sử ký Tồn thư và An Nam chí lược.
Về thơ, Lê Mạnh Thát đã sưu tập và khẳng định “tổng số thơ của vua
Trần Nhân Tông là 32 bài, cộng với 3 đoạn phiến”7 Tuy nhiên, con số đó là
chưa tính hết các đoạn phiến nằm rải rác trong các bài phú, văn xi và bài
giảng. Chúng ta có hai bài thơ chữ Hán trong hai bài phú Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca và Cư trần lạc đạo phú, bài Tán Tuệ Trung trong bài văn xuôi
Thượng sĩ hành trạng, bài Hữu cú vô cú, Hàm tuyết tại buổi giảng ở chùa Sùng
Nghiêm, núi Chí Linh. Ngồi ra, trong buổi giảng này cịn có rất nhiều những
đoạn phiến thơ hai câu. Các bài thơ đều được viết bằng chữ Hán.
Về phú, vua Trần Nhân Tơng có sáng tác 2 bài phú bằng chữ Nôm là Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca và Cư trần lạc đạo phú. Đây được xem là 2 tác phẩm
khơng chỉ có giá trị lớn về văn học mà cịn có giá trị lớn về tư tưởng sống đối với
Phật Giáo Việt Nam. Đặc biệt, Cư trần lạc đạo phú được xem là bản tuyên ngôn
về lẽ sống của Phật giáo Việt Nam, tuyên ngôn ấy đã và đang chi phối tư tưởng
sống đẹp của hàng triệu triệu phật tử Phật Giáo Việt Nam xưa và nay. Hai bài
phú này của Trần Nhân Tông là một trong những tác phẩm văn chương đầu tiên
viết bằng chữ Nôm – thứ chữ riêng của dân tộc ta. Chính thế mà chúng được

xem như là minh chứng cho sự ra đời cũng như là những vẻ đẹp riêng của tiếng
Việt dưới goc nhìn của một thứ ngơn ngữ văn học.
7 Lê Mạnh Phát, 1999, Trần Nhân Tông – con người và tác phẩm, Nxb TP.HCM

9


Ngồi thơ, phú, Trần Nhân tơng cịn có văn xi, bài giảng, ngữ lục và văn
thư ngoại giao. Văn xuôi có bài Thượng sĩ hành trạng, được chép ở cuối sách
Thượng sĩ ngữ lục viết về tiểu sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với những bài
tán của môn nhân Thượng Sĩ. Bài giảng thì hiện nay biết được 2 bài là bài giảng
ở chùa Sùng Nghiêm (1304) được chép trong Thánh đăng ngữ lục và bài giảng ở
viện Kỳ Lân (1306) được Pháp Loa chép lại trong Thiền đạo yếu lược của Pháp
Loa8. Ngữ lục của vua Trần Nhân Tơng thì có 2 loại; một là những đối đáp Thiền
học bằng thơ giữa nhà vua và các môn đồ được sư đệ vấn đáp ghi chép lại; hai là
những lời phát biểu của nhà vua trong các cuộc đón tiếp sứ giặc do sứ giặc ghi
lại. Ngoài ra, nhà vua cịn có khoảng trên dưới 20 văn kiện ngoại giao mà nhà
vua soạn để gửi cho vua quan nhà Nguyên trong thời gian mà Người còn nắm
quyền hành.
Dù rằng số lượng tác phẩm còn lại của vua Trần Nhân Tơng khơng nhiều,
nhưng hầu như đều có giá trị về các mặt văn học, lịch sử, văn hóa, triết học,
chính trị. Trên bình diện văn chương, những bài thơ của Trần Nhân Tơng là
những tác phẩm có giá trị cao. Mỗi bài thơ là một bức tranh quê hương đất nước
đẹp và thanh bình, là sự hịa hợp giữa hồn thơ và hồn thiên nhiên. Tuy nhiên,
những bài thơ ấy không đơn thuần là những bức tranh đẹp mà ẩn sâu trong nó là
những triết lí nhân sinh về cuộc đời, về con người. Thơ Trần Nhân Tơng khơng
những góp phần tạo nên bộ mặt chung cho văn chương thời Lý - Trần mà còn thể
hiện được tài hoa, phẩm chất và tâm hồn của vị vua Phật Trần Nhân Tông.
1.1.3. Thiền phái Trúc Lâm và tư tưởng của Trần Nhân Tơng
Thiền phái Trúc Lâm là một dịng thiền mang đậm bản sắc văn hóa Việt

Nam do vua Trần Thái Tơng đặt nền móng, phát triển và truyền thừa từ mơ hình
8 Pháp Loa (1284 - 1330) -Tổ thứ hai của phái thiền Trúc Lâm. Niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305). Điều
Ngự đem Sư lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới Tỳ-kheo và giới Bồ-tát. Thấy chỗ tham học của Sư đã hành đạt, Điều
Ngự cho hiệu là Pháp Loa

10


tổ chức đến nội dung hành trì nhưng người khai sáng và làm rạng danh thiền
phái là vua Trần Nhân Tông, là đệ nhất TổTrần Nhân Tông sáng lập. Tên gọi
Trúc Lâm vốn là tên hiệu của vua Trần Nhân Tơng khi người xuất gia. Thiền
phái Trúc Lâm có ba vị Thiền sư nổi tiếng là Trúc Lâm Đầu Đà ( Trần Nhân
Tông ), Pháp Loa và Huyền Quang, ba vị này được xem là ba vị tổ của dòng
thiền Trúc Lâm ( Trúc Lâm Tam tổ ). Thiền phái Trúc Lâm được coi là sự tiếp
nối của dòng Yên Tử, là sự hợp nhất của ba dòng thiền trước đó ở Việt Nam là
Thảo Đường, Vơ Ngơn Thơng và Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Phật giáo Trúc Lâm là một
nền Phật giáo độc lập, uy tín, tinh thần của nó là tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó
là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có
tiếp cân những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng
vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình.9 Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo đặc
biệt, nó được sáng lập bởi một vị vua và vì thế nó có đơi chút khác biệt với
những dịng Phật giáo khác. Phật giáo Trúc Lâm là dòng Phật giáo nhập thế, nội
dung tư tưởng và ý thức hệ của dòng Phật giáo này gắn bó mật thiết với các vấn
đề chính trị và xã hội của đất nước ta thời bấy giờ.
Nói về tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm là nói đến tư tưởng của Trần
Nhân Tơng, bởi lẽ những tư tưởng, triết lí sống của Người đã trở thành tư tưởng,
tôn chỉ chung cuả Thiền phái này. Hai nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc đến tư
tưởng và triết lí sống của Nhất tổ Trần Nhân Tơng chính là hai vị thiền sư nổi
tiếng là vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Tư tưởng của Trần Nhân Tông có thể được nói gọn trong mấy chữ “Phật

tại Tâm””. “Tâm” chính là khái niệm trung tâm, chính yếu nhất của Thiền Tơng,
nó chi phối tồn bộ và xun suốt mọi vấn đề trong cuộc sống. Theo Trần Nhân
Tông “tâm” là căn nguyên, là nguồn gốc của vũ trụ, vạn vật. Tư tưởng này của
9 Nguyễn Lang, ( 1999 ) Việt Nam Phật Giáo sử luận I – II – III, Nxb Khoa học – Xã hội.

11


Trần Nhân Tông được thể hiện rất rõ nét trong bài thi kệ bằng chữ Nôm là“Cư
trần lạc đạo”của nhà vua.
“Vậy mới hay!
Bụt ở trong nhà;
Chẳng phải tìm xa
Khuây khuây bản nên ta tìm bụt;
Đến cốc hay chỉn bụt là ta.”
Muốn tìm “bụt” đâu cần phải ngó nghiên khắp chốn, chỉ cần trở về với cái
“tâm” tự nhiên, trong trẻo, thanh tịnh vốn có của mình, tức là trở về với cái gốc
“tâm” của mỗi người. “Bụt” chính là “ta”, và “ta” chính là “bụt”, dĩ nhiên “ta” ở
đây là cái “ta” đã được giác ngộ chứ không phải cái ta thơng tục, bình thường ở
tất cả mọi người.
Trần Nhân Tông chủ trương lối tu đạo nhập thế, nghĩa là không tách biệt
với đời sống hiện thực mà hơn thế tu đạo là phải gắn liền với đời sống, mỗi phật
tử là một nhân tố của xã hội, góp sức cho xã hội, cho đất nước tiến bộ, giàu đẹp.
Tu đạo không nhất thiết phải lên núi cao, chùa xa mà ẩn cư, người tu đọa hồn
tồn có thể tu ở bất kì đâu, tu đạo khơng phải là tránh xa sự đời như các thiền sư
Trung Quốc mà là sống gần hơn với đời, để hiểu đời và dùng nó để giáo hóa
người đời.
Nếu như trước đó Tuệ Trung Thượng Sĩ cho rằng sống chết là vô thường,
cần phải điềm nhiên mà đón nhận đó để cho tâm được an thì vua Trần Nhân
Tơng lại nhiều lần bàn đến vấn đề sinh tử. Nhà vua cho rằng nếu đã là người thì

ắt phải có thân:
“Thân như hơi thở qua buồng phổi,
12


Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa.”
( Trần Nhân Tông )
Với Trần Nhân Tông, cái quan trọng không phải là sống hay chết mà là giá
trị của sự sống ấy như thế nào. Sống thì phải là sống có ích, có ý nghĩa với đời.
mà muốn vậy thì mỗi người cần rèn luyện trí tuệ và đạo đức, dứt trừ mọi tạp
niệm, giữ gìn chân tâm trong sáng của mình.
1.2. Khái niệm “Thiền” và “thơ Thiền”
1.2.1. Khái niệm “Thiền”
Từ điển Hán Việt cuả Thiều Chửu định nghĩa: “Thiền có nghĩa là lặng
nghĩ suy xét, đạo phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lí làm tơn chỉ nên gọi là Thiền.
Cũng gọi là “Thiền na””10
Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn định nghĩa “Thiền: tiếng Phạn, gọi
trọn chữ là “Thiền na” ( Dhyana ), cũng cùng nghĩa với Thiền định, tham Thiền,
tư duy. Khái niệm này dùng với hai nghĩa là danh từ và động từ.”11
Như vậy, từ hai định nghĩa trên ta có thể kết luận : Thiền nghĩa là suy xét,
ngẫm nghĩ về đạo lí, là một hình thức tín ngưỡng khó diễn đạt hết bằng ngơn
ngữ, càng khơng thể lĩnh hội bằng lí trí, chỉ có thể dụng tâm mà thấu hiểu.
Thiền khơng giống với bất kì một tơn giáo, tín ngưỡng nào khác, Thiền
khơng bắt con người ta phải rời xa thực tế, không ràng buộc con người ta bằng
những nghi thức tôn giáo rườm rà. Thiền là nhập thế. Con người ta bước vào
trạng thái Thiền khi nhập tâm nhất vào một việc nào đó đâng làm, hay vào một
thời điểm mình đang tồn tại. Thiền nghĩa là không chấp niệm, luôn thuận theo tự
nhiên, nhìn nhận mọi việc tho đúng bản chất của nó. Triết lí của Thiền là thứ triết
10 Thiều Chửu (1999), Tự điển Hán Việt, nxb Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội
11 Đồn Trung Cịn (1997), Từ điển Phật học, nxbTp.HCM


13


lí hướng đến việc giúp con người ta thanh thản, an lạc, giúp con người cân bằng
cuộc sống của con người, thanh lọc tâm của mỗi người.
Thiền ở Việt Nam, khơng chỉ mang những đặc trưng chung của Thiền mà
có thêm những nét riêng như tinh thần nhập thế, vô ngôn, vô ngã, vô thường và
tam giáo đồng nguyên. Tất cả những yếu tố trên làm nên một triết lí Thiền rất
riêng của riêng người Việt Nam, mà đặc biệt là con người Việt Nam thời Lí Trần.
1.2.2. Khái niệm “thơ Thiền”
Thơ Thiền cho đến hiện tại dù đã là một khái niệm rất phổ biến trong giới
nghiên cứu văn học nhưng nội hàm của khái niệm này vẫn còn chưa được thống
nhất cho rõ ràng.
Từ trước đến nay, có nhiều nhà nghiên cứu có đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về thơ Thiền. Nhưng hiện nay khái niệm đang được đông đảo giới
nghiên cứu chấp nhận và sử dụng rộng rãi là : “Thơ Thiền là thơ cảu các nhà sư
và cả những người không đi tu nhưng am hiểu và u thích Phật giáo, hình thức
trực tiếp hay gian tiếp dùng hình ảnh, ngơn ngữ nhà Phật, nội dung trực tiếp hay
gián tiếp nêu lên một triết lí Thiền, một cảm xúc hay một tâm trạng Thiền khi
nhận thức và giải minh thế giới.”
Với quan niệm này, thơ Thiền là một khái niệm có tính chất bao qt
nhiều bộ phận thơ ca nhà chùa như kệ Thiền, tụng cổ, thơ triết lí, thơ thù tạc, tán
tụng Thiền, cả thơ cảm xúc và tâm trạng Thiền, tuy nhiên thể loại trung tâm của
thơ Thiền vẫn là kệ.
Thơ Thiền hình thành vào thời nhà Lý, phát triển mạnh mẽ ở thời nhà
Trần. Với thơ Thiền, thơ chưa hẳn là thơ. Thơ là bài học, là giá trị sống, là triết lí
Thiền. Mỗi bài thơ là một bài học mà các thiền sư đã chiêm nghiệm được khái
14



qt lại trong một hình thức vơ cùng ngắn gọn và tinh vi mà người nghe muốn
hiểu cũng cần có kinh nghiệm, có thời gian suy nghĩ vền nó thì mới hiểu được.
1.3. Cảm hứng thơ và cảm hứng thiên nhiên trong thơ
1.3.1. Cảm hứng thơ
Cảm hứng của một tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng,
ln gắn liền với đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Nó là một phần trong
chỉnh thể của một tác phẩm văn học. Nghĩa là trong mỗi loại hình nghệ thuật,
mỗi tác phẩm nghệ thuật luôn tồn tại một thứ cảm xúc mãnh liệt gọi là cảm
hứng.
Về mặt ngữ nghĩa, Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa: “Cảm
hứng (danh từ) là trạng thái tâm lí có cảm xúc và hết sức hứng thú, tạo điều
kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả.”12
Các triết gia cổ Hy Lạp và sau này là Hegel và Biêlinxki đều dùng từ
“cảm hứng” để chỉ “trạng thái phấn khích cao độ của nhà văn do việc chiếm
lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy nao giờ cũng
bắt nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại”
Theo Bielinxki: cảm hứng là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những
sáng tác đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng
thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khác vọng nhiệt
thành.”
Về mặt lí luận văn học, cảm hứng hay cảm hứng chủ đạo của một tác
phẩm văn học được định nghĩa là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên
suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá
nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm.”13
12 Hoàng Phê, 2011, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 145.
13 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( đồng chủ biên ), 2007, Từ điển thuật ngữ văn học, tr.44.

15



Cịn trong “Lí luận văn học” do Trần Đình Sử chủ biên khẳng định “cảm
hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa
đến hành động”14. Và tài liệu này cũng khẳng định “Điều quan trọng là cần
nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học”.
Như vậy, có thể nói gọn thuật ngữ cảm hứng trong mấy ý sau : cảm hứng
là trạng thái cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ, chi phối toàn bộ tư tưởng tình
cảm của tác phẩm và gây tác động phần nào đến cảm xúc của người đọc.
Ban đầu thuật ngữ cảm hứng chủ đạo được dùng để chỉ yếu tố nhiệt tình
khi diễn thuyết, sau này nó được dùng để chỉ trạng thái mê đắm của nhà thơ khi
xuất hiện các tứ thơ. Về sau, lí luận văn học lại dùng thuật ngữ này để chỉ một
yếu tố nội tại trong nội dung của một tác phẩm nghệ thuật, của thái độ tư tưởng
xúc cảm ở nghệ sĩ được thể hiện qua tác phẩm đó. Cảm hứng chủ đạo của một
tác phẩm nghệ thuật quy định tất cả các yếu tố trong chỉnh thể của tác phẩm. Đây
là sự căng thẳng cảm xúc đạt đến một mức độ nào đó mà ở đó người nghệ sĩ
khẳng định thế giới quan của mình trong tác phẩm.
Ở đây, xét riêng trong mảng thơ, tư tưởng của một tác phẩm thơ hoặc một
chuỗi các tác phẩm của cùng một tác giả có thể được hiểu là thứ cảm xúc mãnh
liệt của thi nhân khi nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận nhận thấy, sờ thấy, ….. một
điều gì đó. Một bài thơ là sản phẩm cuối cùng được tạo nên bởi những cảm xúc
mãnh liệt, và trong nó chứa đựng những tư tưởng, tình cảm của tác giả. Điều đặc
biệt là thứ cảm xúc mãnh liệt này khơng phải là thứ tình cảm một chiều hay là
thứ tình cảm được biểu hiện ra ngoài một cách cụ thể hay hiển hiện lên trên bề
mặt câu chữ của bài thơ. Cảm xúc trong thơ là thứ tình cảm được cảm nhận qua
những hình ảnh, những thủ pháp nghệ thuật mà nhà thơ vơ tình hay cố ý sử
dụng. Đồng thời, nhà thơ không hề độc chiếm thứ cảm xúc ấy mà hoàn toàn để
14 Trần Đình Sử ( chủ biên ) , Lí luận văn học, tr.268.

16



cho người đọc tự cảm nhận lấy, do vậy cảm hứng của tác phẩm thơ có thể thay
đổi tùy thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan từ người đọc.
1.3.2. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ
Cảm hứng thiên nhiên trong thơ có thể hiểu một cách đơn giản đó là trạng
thái cảm xúc của thi nhân được đẩy lên đến mức cao độ khi đứng trước khung
cảnh thiên nhiên. Ở giây phút đó, tồn tại một niềm tin yêu, say mê một cách tột
đỉnh đến mức thi nhân sinh tình mà “xuất khẩu thành thơ”.
Trong thơ văn trung đại, thi nhân thường vì đứng trước cảnh đẹp mà “ngẫu
hứng”, “tức hứng”, “mạn hứng”, ấy là khi mà thứ tình cảm say mê ấy được dấy
lên cùng với lí tưởng, với cái đạo của đời và cái đạo của người.
Có thể thấy dược thiên nhiên là một đề tài lớn và xuyên suốt trong tiến trình
văn học Việt Nam từ khi hình thành cho đến ngày nay. Tuy vậy, xét về bản chất
thì cảm hứng với thiên nhiên qua từng giai đoạn, từng thời kì lại có những nét
khác biệt.
Trong văn học dân gian, thiên nhiên xuất hiện đúng với cái bản chất của nó.
Là cánh đồng rộng lớn, là vầng trăng, là con sơng, là cánh cị, …… Thiên nhiên
hào hợp với con người, là một phần trong cuộc sống của con người .
“Đường lên xứ Lạng bao la?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi, đứng lại mà trơng,
Kìa núi thành Lạng, kìa sơng Tam Cờ”
Trong thơ văn trung đại, thi nhân thường vì đứng trước cảnh đẹp mà “ngẫu
hứng”, “tức hứng”, “mạn hứng”, ấy là khi mà thứ tình cảm say mê ấy được dấy
lên cùng với lí tưởng, với cái đạo của đời và cái đạo của người.
17


Vẫn là thiên nhiên ấy, nhưng đến với thơ thiền, thiên nhiên vừa chính là nó
vừa là biểu tượng cho triết lý Thiền. Một đóa mai bung nở vào buổi sớm hay một

vầng trăng hiền hòa lúc nữa đêm đều ẩn chứa trong nó một triết lí thiền vơ cùng
thâm sâu.
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
( Cáo tật thị chúng – Mãn Giác )
Đối với thơ ca nhà Nho, thiên nhiên lại được xem như nơi kí thác tâm tình
của người qn tử. Cốt cách của người quân tử được ước lệ qua hình ảnh tùng,
mai, cúc, trúc. Các nhà Nho để cho thiên nhiên vượt ra khỏi cái bản chất vốn có
của nó mà biến thành một người bạn, một kẻ tâm tình để thi nhân ta trút bầu tâm
sự.
“Cơn Sơn hữu tuyền
Kì thanh linh linh nhiên
Ngơ dĩ vi cầm huyền
Cơn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phơ bích,
Ngơ dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngơ ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc….
( Cơn Sơn ca - Nguyễn Trãi )
18


Và đến với văn học hiện đại, thiên nhiên lại bước vào thơ ca với đúng bản
chất của nó. Thiên nhiên lúc này chỉ là thiên nhiên và không hề là vật kí thác tâm
tình hay là biểu tượng cho một thứ triết lí nào cả.
“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

( Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử )
Như vậy, khơng ngoa khi có thể kết luận rằng thiên nhiên là nguồn cảm
hứng vô tận cho thi sĩ muôn đời. Dù rằng ở mỗi thời đại, với mỗi hoàn cảnh lịch
sử và ý thức hệ xã hội khác nhau thì thiên nhiên lại được thể hiện theo một cách
khác nhau. Nhưng suy cho cùng cảm hứng của thi nhân đối với thiên nhiên đều
xuất phát từ vẻ đẹp của chính nó và cái tâm tình của người nghệ sĩ.
1.3.3. Cảm hứng thiên nhiên trong thơ ca thời Lý – Trần
Cùng là một đối tượn nhưng qua mỗ thời đại, chúng lại xuất hiện trong thơ
ca với một tư cách khác. Thiên nhiên cũng vậy, cũng là trăng, là hoa đấy, cũng
cùng là thơ Thiền đấy, nhưng đối với một thời đại, thi nhân lại mang vào thơ ca
một màu sắc khác của thiên nhiên và đông thời mang thiên nhiên vào thơ với
mục đích khác.
Ở thời Lý, thi nhân mang thiên nhiên vào thơ như một thứ biểu tượng để
bày tỏ cảm quan Thiền học của mình. Mỗi khi muốn truyền đạt một triết lí Thiền
nào đó, các Thiền sư thường nén thứ triết lí đó vào một bài kệ để truyền dạy cho
học trị của mình. Tuy nhiên, vì thiên nhiên chỉ được xem như một công cụ để kí
gửi triết lí Thiền, là biểu tượng cho triết lí Thiền nên thiên nhiên xuất hiện trong
19


thơ là một thiên nhiên khác, một thiên nhiên chưa thực sự là thiên nhiên. Thiên
nhiên được cảm nhận thông qua triết lí Thiền nên vẻ đẹp thiên nhiên mà ngwuofi
đọc cảm nhận được hay vẻ đẹp mà thi nhân muốn truyền tải chưa phải là vẻ đẹp
thật của thiên nhiên mà là vẻ đẹp của triết lí Thiền.
Thiền sư Giác Hải trước lúc lâm chung có làm một bài lệ để nhắc nhở đệ tử
mình khơng nên đau lịng vì sự ra đi của mình:
“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị ảo
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.”

Ở đây, thiền sư Giác Hải thơng qua hình ảnh của bướm hoa mà bàn về sự
tồn tại của con người. Chuyện sống – chết của con người là tất yếu, là lẽ tự
nhiên. Con người đã được sinh ra ắt phải có lúc chết đi cũng như bướm hoa, đến
mùa xuân thì lại đua nhau khoe sắc theo như đúng quy luật của thiên nhiên. Thân
xác con người cũng mong manh, ngắn ngủi như cuộc đời hoa bướm kia. Hình
ảnh bướm hoa đang khoa sắc kia cũng chỉ là huyền ảo mà thôi, chúng chỉ tồn tại
trong phút chốc rồi lại biến mất như chưa từng tồn tại. Cho nên đừng thấy bướm
hoa đẹp mà sinh lòng thương tiếc đau buồn khi nó khơng cịn nữa bởi đó chỉ là
quy luật của tạo hóa mà thơi.
Ngược lại, trong thơ Thiền thời Trần, thiên nhiên không chỉ là phương tiện
để truyền đạt những triết lí Thiền mà cịn là đối tượng thẫm mĩ thật sự của thơ ca.
Trong những giai đoạn đầu của nhà Trần, thiên nhiên được đưa vào trong thơ vẫn
là một đối tượng quen thuộc để các Thiền sư truyền tải triết lí Thiền.
“Hoặc nhân vấn ngã hà tiêu húc
20


Vân tại thanh thiên thủy tại bình”
( Trần Thánh Tơng )
Mây trên trời xanh ( vân tại thiên thanh ) hay nước trong bình ( thủy tại
bình ) đều là biểu tượng cho lẽ sống chết của con người. Tùy theo hồn cảnh mà
tuwj điều chỉnh bản thân mình, có lúc có thể tự do tự tại, thong dong như mây
trên trười xanh, nhưng ũng có lúc tự khn mình vào nơi nhỏ hẹp như nước
trong bình mà khơng lấy làm phiền muộn.
Tuy nhiên, cũng trong những thời kì đầu của nhà Trần, đã có nhiều tác
phẩm thơ Thiền mang đậm chất thơ.
“Phong đả tùng quang nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.
Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh”

( Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn – Trần Thái Tông )
Bài thơ vừa đậm chất thơ vừa mang cái ý vị của triết lý Thiền. Hình ảnh
đêm trăng sáng với gió thu đập vào cánh cửa bằng gỗ thơng vốn là hình ảnh mà
thường ngày ta vẫn thường thấy nhưng ở đây nhà vua lại cảm nhận được một ý
vị riêng. Cái niềm vui nho nhỏ ấy đã khiến cho vị “sơn tăng” vui đến sáng.
Niềm vui nhỏ đó của nhà vua và cả vị thiền sư ấy là cái niềm vui tự tại trong tâm
hồn không vướn bận. Niềm vui ấy hịa nhập trọn vẹn vào với trăng, với gió mà
khơng hề có cái cảm thức kiếp người hữu hạn như cảm thức của thơ Thiền thời
kì trước.

21


Càng về sau, thiên nhiên dần thoát ra khỏi cái khn mẫu có sẵn, đặc biệt
là vào cuối thời nhà Trần. Khi ấy, thiên nhiên thực sự trở thành khách thể trữ tình
của tác phẩm. Triết lí Thiền giờ đây khơng cịn được kí gửi vào thiên nhiên, nhờ
thiên nhiên nói hộ nữa mà hịa quyện hồn tồn vào trong thiên nhiên. Thơ Thiền
không chỉ mang cái ý vị trong triết lí của nhà Phật mà cịn có cái phóng khống
thanh nhã của Nho gia, có cái nhàn dật của Lão Trang.
“Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang
Sổ thanh ngue địch lô hoa ngoại
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.”
( Phiếm chu – Huyền Quang )
Thiền sư Huyền Quang trong bài thơ này đã bày tỏ nỗi khát vọng được
phiêu du, cưỡi mây, đạp gió hay lướt sóng ngao du như một khách hải hồ qua
những vần thơ bay bổng, phóng khống, bàng bạc thiền vị. Thiên nhiên, con
người và ý vị của triết lí Thiền hịa lại với nhau làm một. Có cái gì đó phóng
khống, nhẹ nhàng, khơng chút ràng bc của khách ngao du. Chủ thể trữ tình
mang trong mình một cái tâm tĩnh và một tấm lòng đầy rộng mở. Có thế mới có

thể cảm nhận hết cái ý vị của cảnh vật xung quanh mình.
Như vậy, có thể kết luận rằng hình ảnh thiên nhiên trong thơ thiền đang
dần rời xa cái chức năng là vật truyền tải của nó mà trở về với đúng bản chất của
khách thể trữ tình. Thiên nhiên cuối thờ Trần đã khơng cịn là một thiên nhiên
tách biệt với hiện thực, thiên nhiên lúc này đã có thể bước vào trong thơ như nó
vốn là vậy.

22


Chương 2: THIÊN NHIÊN TRONG CẢM HỨNG THƠ THIỀN CỦA
TRẦN NHÂN TÔNG
2.1. Thiên nhiên thanh nhã và u tịch
Thiên nhiên vốn là khách quan, độc lập với chủ thể trữ tình nhưng khi
được nhìn bằng con mắt của thi nhân, được cảm bằng tấm lòng của người nghệ
sĩ, thiên nhiên dường như vừa là nó, mà vừa khơng phải là nó. Thiên nhiên trong
thơ Trần Nhân Tơng mang trong mình một vẻ đẹp gì đó rất Thiền, rất thanh nhã
và u tịch. Đó chính là vẻ đẹp rất khác của thiên nhiên, một vẻ đẹp không thuộc
về thiên nhiên mà thuộc về cảm hứng của thi nhân.
Trong thơ Trần Nhân Tông, ta thường bắt gặp những bức tranh thiên nhiên
không cầu kì, rực rỡ, mà thiên nhiên ấy thường là những đường nét, màu sắc đơn
giản, nhẹ nhàng và thường chỉ tập trung tại một điểm chứ thiên nhiên không dàn
trải cả không gian miêu tả.
23


“Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi”

( Xuân hiểu )
Dịch thơ:
“Ngủ dậy, mở cửa sổ,
A, xuân về rồi đây!
Kìa một đôi bướm trắng,
Nhằm hoa, phơi phới bay.”
(Trần Lê Văn dịch)
Bài thơ vẽ nên một bức tranh xuân thật nhẹ nhàng với những bước chuyển
mềm mại. Mùa xuân, ấy không phải là một bức tranh sặc sỡ sắc màu hay rộn rã
tiếng pháo, tiếng cười mà bức tranh ấy chỉ thu gọn lại trong hình ảnh của đơi
cánh bướm trắng nhẹ nhàng bay đến với hoa. Một bức tranh mùa xuân được lồng
khung bằng khuôn cửa sổ ( song phi ), với tâm điểm là “nhất song bạch hồ điệp”
đang bay đến với hoa và cái màu nền cho bức tranh đơn giản ấy chính là “màu
xn”. Có chút gì đó nhẹ nhàng nhưng đầy sức sống trong hình ảnh cánh bướm
đang bay lượn tìm hoa. Đơi cánh bướm đang bay lượn ấy như thể là đang múa
điệu vũ của mùa xuân làm cho tâm hồn của người đứng bên trong cửa sổ có đơi
giây phút bị lỗi nhịp vì vẻ đẹp của đôi cánh bướm ấy. Cả bài thơ ta khơng hề tìm
thấy một từ nào miêu tả âm thanh nhưng khi đọc bài thơ ta lại nghe như có âm
thanh nhẹ nhàng, mỏng tang của tiếng đập cánh của đôi bướm trắng. Âm thanh
24


ấy như thể là thứ âm thanh xua tan cái lạnh lẽo của mùa đông, đánh thức thiên
nhiên, đánh thức mùa xuân. Thiên nhiên trong bức tranh xuân này dù đơn giản
không nhiều màu sắc nhưng lại vô cùng trong trẻo và đầy sức sống của mùa
xuân.
Cùng viết về mùa xuân, nhưng “Xuân cảnh” lại mang đến cho ta một dư vị
khác. Xuân cảnh không phải là một buổi chiều xuân mà hơn thế đó là một buồi
chiều xuân đẹp tựa một bức tranh thủy mặc được chạm khắc một cách tinh tế,
sắc sảo:

“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ thi,
Họa đường thềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ý lan can khán thúy vi.”
Dịch thơ:
“Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.”
(Huệ Chi dịch)
Bức tranh mùa xuân này cũng không phải là một bức tranh xuân náo động,
đầy màu sắc, nhưng nó cũng khơng phải là một buồi chiều ảm đạm, sầu thảm.
Bức tranh xuân hiện ra với chút gì đó thật chậm, thật nhẹ nhàng với những gam
màu lạnh khiến cho con người ta vương vấn chút buồn man mác, xa xăm. Bức
tranh ấy tuy có “chậm” nhưng không phải là một bức tranh “tĩnh”, bức tranh ấy
25


×