Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Cảm thức về cái chết thời kháng Pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.44 KB, 25 trang )

CẢM THỨC VỀ CÁI CHẾT
TRONG THƠ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
---------------------
I. Giới thiệu chung:
1. Lý do chọn đề tài:
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu khai thác mảnh đất thơ kháng chiến chống Mỹ nói
riêng và thơ kháng chiến nói chung. Song nói về “cái chết” trong thơ ở giai đoạn này thì
chưa có đề tài nào đi sâu khám phá. Nếu có thì cũng chỉ mới chạm vào cái bóng mờ ảo
của cái chết chứ chưa thấy rõ nó ra sao. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Cảm thức
bi tráng về cái chết về cái chết trong thơ kháng chiến chống Mỹ” để nghiên cứu như một
nén nhang tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã “ngã tồn ngã huyết dĩ can huyên” (lấy
máu đào bảo vệ non sông) cho mảnh đất này.
2. Ý nghĩa đề tài:
Góp phần làm đầy đủ hơn nội dung nghiên cứu về thơ kháng chiến chống Mỹ.
Khám phá và giới thiệu tới người đọc một nét đặc sắc của thơ ca thời kỳ này. Để
từ đó khám phá hết được nét đẹp của thơ ca khơi dậy trong lòng người đọc tình yêu quê
hương đất nước, yêu những con người đã ngã xuống trong cuộc chiến. Đồng thời thấy
thêm được những phẩm chất cao đẹp của người lính cũng như mảnh đất đã sinh ra như
con người bất tử ấy.
Và phần nào vun xới thêm “thế giới nghệ thuật” trong thơ kháng Mỹ.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Có một số tác phẩm nghiên cứu về cái chết trong thơ song nó chỉ mới chạm khẽ
vào làn da của người thiếu nữ mà chưa đi vào vẻ đẹp tâm hồn của người thiếu nữ ấy.
Như
“Sự ám ảnh về cái chết trong cuộc đời và tác phẩm của Xuân Quỳnh và Lưu
Quang Vũ” (Phạm Ngọc Hiền)…
Đề tài “Cảm thức bi tráng về cái chết trong thơ kháng chiến chống Mỹ” là một đề
tài nhỏ nhưng rất hứng thú đối với chúng tôi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp sưu tầm
Phương pháp phân loại –thống kê


Phương pháp phân tích tổng hợp
II. Nội dung:
Abe-el–Kader đã từng viết: “Sự chết là con lạc đà đen quỳ đợi ngay trước cổng
nhà của tất cả mọi người”. Không ai tránh khỏi cái chết, bởi vậy không ai là không nghĩ
đến nó. Nhưng vấn đề là quan tâm nhiều hay ít và bộc lộ sự ám ảnh đó dưới hình thức
nào. Đối với nhiều văn nghệ sĩ, tác phẩm nghệ thuật là nơi thăng hoa và giải thoát thích
hợp nhất cho những dự cảm và triết lý của họ về cái chết.
Trang 1
Tố Hữu nhà thơ của lịch sử Việt Nam đã có quan niệm thật độc đáo về cái chết:
“Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi lời ca
Có con người từ chân lí sinh ra.”
(Hãy nhớ lấy lời tôi- Tố Hữu)
Đó cũng chính là một trong những đề tài chính mà thơ ca thời kỳ này phản ánh.
Nói đến chiến tranh người ta không thể không nói tới mất mát, đau thương. Cái
chết dường như hiện hữu cận kề, thường trực trong cuộc sống của mỗi con người.
Trong chiến tranh khoảng cách giữa cái chết và sự sống như làn khói mong manh, mờ
ảo. Dân tộc Việt Nam , dân tộc anh hùng, trải qua bao cuộc chiến tranh, bao cơn dâu bể
vẫn hiên ngang sừng sững như bức tường thành. Đất nước Việt Nam đi lên từ máu lửa,
lớn lên từ những cuộc chiến tranh khốc liệt. Đó là những cuộc chiến đấu chống kẻ thù
phong kiến phương Bắc suốt 10 thế kỷ và hơn 100 năm chống kẻ thù thực dân đế quốc
phương Tây. Một trong những cuộc chiến tranh dữ dội nhất, anh dũng nhất và đáng tự
hào nhất của dân tộc Việt Nam chính là cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ giành lại
quyền độc lập tự do toàn vẹn cho tổ quốc. Có lẽ vì thế mà cái chết được nhắc đến hết
sức chân thực và nhiều trong thơ ca thời kỳ này. Nhưng với khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn, thì cái chết không được nhìn bằng cái nhìn bi lụy mà phải được
nhìn với cảm thức bi tráng: bi thương và hùng tráng.
1. Cái “bi” trong thơ kháng Mỹ:
Đất nước Việt Nam ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), ba mươi năm khói

bom, lửa đạn…lắm vinh quang, hào hùng song cũng đầy mất mát, thương đau, đặc biệt
là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1955-1975). Và dẫu biết rằng văn học luôn là tấm
gương phản chiếu hiện thực, nhưng do đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà
nội dung phản ánh đã không được trọn vẹn đầy đủ. Tính chất ngợi ca, tuyên truyền, cổ
động trở thành yếu tố chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của các cây bút suốt cả một
thời gian dài khi ấy.
Và người đọc hôm nay chợt hiểu ra rằng, thơ ca kháng chiến đâu chỉ có niềm vui
bởi trong phạm trù thẩm mỹ thì bên cạnh cái “hùng” luôn luôn có cái “bi” cùng tồn tại.
Cái “bi” chính là ở những đau thương mất mát, ở hiện thực tàn khốc của cuộc chiến
tranh không gì bù đắp nổi. Một hiện thực làm người ta phải rợn người nhưng cũng vô
vàn đau thương. Đó là:
“Nhô nhúc- trời ơi- một khối người
Như nhau, không biết một ngày vui
Đây một thân rơi thành xác chết
Hàng ngàn thây khác nối nhau rơi
Ngổn ngang xương lạnh đầy ao huyết
Giữa lúc tầng cao, dội tiếng cười”
(Những hầm người)
Trang 2
Càng ngày bọn giặc càng tinh vi và độc ác hơn:
“Thằng Mỹ xưa cho bom
Giờ cho máy chém siêu linh hồn
Xương người xây trắng dinh Ngô ở
Máu người thắp đỏ ở phố U- ôn”
(Ngô thuốc độc ngợi ca máy chém- Chế Lan Viên)
Xác người chất chồng lên nhau tạo khối, máu đổ xương rơi, ngàn thây chất đống.
Họ đã nằm xuống mảnh đất quê hương “không biết một ngày vui” giữa tiếng cười nham
nhở và dã man của quân thù. Và cứ thế chiến tranh vẫn cứ kéo dài “ở đây vẫn bom đạn
ngày đêm cháy khét, vẫn thuốc độc rải chết vàng cỏ cây”.
Điều đáng nói ở đây là xưa nay, trong văn học viết về đề tài chiến tranh, sự hy

sinh mất mát (nếu có nhắc đến) thường là rơi vào những người lính những người trực
tiếp ra chiến trường vì “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai
về). Đã có biết bao con người ra đi vì lý tưởng, vì tình yêu quê hương đất nước, vì hạnh
phúc tự do của chính mình và những người thân yêu nhưng rồi phải gửi thân nằm lại
nơi đất ẩm…
“Một sườn núi xanh,
Một nấm mồ nằm trong bát ngát,”
(Vô danh –1962- Chính Hữu)
Những con người đã từng có tên có tuổi, vậy mà khi ngã xuống nơi chiến trường
ác liệt chỉ có một nấm mồ đắp vội, để rồi không còn ai biết đến sự tồn tại của họ, những
cái chết chưa được gọi tên…
Nhưng đã có những nhà thơ đã phản ánh rất thật sự khốc liệt của chiến tranh,
không chỉ lính mới hy sinh mà còn có những cái chết vô tội. Hiện thực chiến tranh
khốc liệt như vậy đó nó không tha cho ai cả, không từ chối sinh mạng của một ai hết
dù đó là những em bé vô tội, những bà mẹ vô can. Bàng hoàng và xót xa trong “Gặp
nhau”:
“Mẹ tôi giặc hiếp trong đồn
Em bé giặc đâm vứt xuống sông”
Hay sự ra đi của một sinh linh nhỏ bé:
“ Ngã xuống em nằm
Trong vũng máu hai mắt mở”
(Em bé Duy Xuyên)
Cái chết khi hai mắt còn trao tráo mở, em đã chết trong sự ngây thơ khi tuổi đời
còn trẻ dại. Một sự sống đang xanh mầm nay đã bị tước bỏ dưới bàn tay tội ác của Đế
quốc Mỹ. Tội ác này nối tiếp tội ác kia, chiến tranh – giặc Mỹ đã cướp đi tính mạng con
người với những cái chết thảm:
“ Nửa đêm chúng vào buồng bắt chị
Lôi chị đi, súng gí vào tai
Thịt rơi máu chảy đêm dài
Trang 3

Ai nghe tiếng chị kêu hoài: “con ơi!”
Chị đã chết nhưng thật xót xa hơn khi sự thật là:
“Chị là người mẹ bốn con
Hỡi ôi thân chị, bụng còn mang thai
Còn ba em dại gái trai
Bỗng mồ côi mẹ, còn ai bế bồng”.
(Chị là người mẹ - Tố Hữu)
Chị chết đi, đứa con chưa kịp chào đời cũng không còn, ba đứa trẻ còn lại cũng
như bớt đi nửa phần cuộc sống, bởi chúng đã phải “mồ côi”, “không ai bế bồng”. Chúng
còn thơ dại, ngây ngô quá có biết gì là chiến tranh ác liệt và vô tình đâu.
Chiến tranh loạn lạc, lửa đạn, bom rơi, rồi đời chúng sẽ ra sao, chúng sẽ về đâu
hay lại cùng chung số phận với mẹ và em chúng. Bởi Đế quốc Mỹ quá tàn nhẫn và ác
ôn:
“ Bắn cả trẻ thơ
Giết người tàn tật
Làm nhục các mẹ già
Bom đạn dội ngày đêm nhà thương trường học”
(Ngày mùa thu đưa con lớn đi học – Nguyên Hồng)
Bọn giặc – chúng giết người đâu gớm tay bởi chúng làm gì có nhân tính, đến nỗi:
“ Chúng đã dùng bom phốt pho
Nổ ngang người và cháy thiêu đến nước
… Chúng không chừa đến em còn ẵm ngửa
Nên cố nhằm vào những khu phố đông dân”.
(Hà Nội chúng ta – Trinh Đường 1966)
Thảm nhất là hai mạng người mà ba cái chết:
“Nhưng một đêm mưa ướt bãi cồn
Lính về lính trói cả hai con
Máu con đỏ cát đường thôn lạnh
Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non”
(Mẹ Tơm- Tố Hữu)

Bên cạnh những cảnh tượng rợn người đầy tội ác ấy, những cái chết đáng thương
vô tội ấy, là sự ra đi của những người con gái, những người ở hậu phương mà tưởng
chừng ở quê nhà họ có thể sống bình yên, không bị cái chết rình rập. Nhưng thật có ai
ngờ:

“ Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
….
Đau xé lòng anh chết nửa con người”
(Quê hương – Giang Nam )
Hay nỗi niềm chan chứa của Vũ Cao trước sự ra đi của người mình yêu:
Trang 4
Mới tới đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông”
(Núi Đôi )
Lịch sử đã chứng mình rằng nơi nào có chiến tranh thì nơi có máu và nước mắt.
Thật vậy, chiến tranh thổi tung những cuộc đời, những số phận như cơn gió cuốn những
chiếc lá vàng. Chúng biến những cuộc tình tươi đẹp thành những khúc bi ca.
Cùng chung tâm trạng xót thương ấy của Giang Nam và Vũ Cao, trước đó trong
kháng chiến chống Pháp ta cũng bắt gặp Hữu Loan khóc cho người vợ của mình (Lê Đỗ
Thị Ninh):
“Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương”
(Màu tím hoa sim- 1949)
Qua những cái chết đau thương ấy, ta càng thấy tội ác của lũ giặc như nhân
lên gấp bội. Vì ai mà gia đình ly tán, bạn bè xa nhau, tang thương chết chóc khắp nơi?
Gây ra cảnh bi thương này nối tiếp bi thương khác, nỗi đau này lại nối tiếp nỗi đau kia.
Vì thế không có tội ác nào lớn bằng tội ác chiến tranh, không có nỗi đau nào lớn bằng
nỗi đau mất đi người thân yêu nhất. Chiến tranh không chừa một ai. Nó cướp đi sinh

mạng của biết bao nhiêu người. Còn số người thương vong thì không bao giờ đếm xuể.
Nó cũng không chừa một ai dù là người già hay trẻ con, dù là người ngoài mặt trận hay
kẻ ở hậu phương. Đúng vậy, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy của chiến tranh
thôi nhưng đã gây ra một thảm cảnh đau thương không thể nào quên:
“Biết không anh? Giông Keo, Giồng Trôm
Thảm lắm anh à. Lũ ác ôn
Giết cả trăm người trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn”
(Tố Hữu)
Chỉ có “trong một sáng” thôi nhưng lũ khát máu người ấy đã “giết cả trăm
người”. Đó mới chỉ có một nơi mà tác giả ghi lại được cảnh tàn sát dã man của quân
giặc , và còn có nhiều nơi khác nữa với vô vàn cái chết đang diễn ra. Đau đớn hơn là
quân địch đã thể hiện sự hèn hạ của mình khi giết cả những chị đang mang thai, những
em nhỏ ngây thơ và những cụ già:
“Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà.
Có chị gần sinh, không chịu nhục
Lấy vồ, nó đập vọt thai ra.
….
Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Trang 5
Nó đốt, nó cười,… em nhỏ hét
“Má ơi, nóng quá, cứu con mau”
(Lá thư Bến Tre 1962– Tố Hữu)
Cụ già vì “không khai” nên đã bị “nó chém”, còn chị gần sinh con nhưng vì
“không chịu nhục” nên đã bị chúng “ lấy vồ nó đập” đến nỗi “vọt thai ra”, và em bé vì
sự tò mò ngây thơ “ra xem giặc” mà bị “nó đốt”. Còn đối với thanh niên thì bọn chúng
giết “ác quá chừng”, “hai sáu đầu trai bêu cọc sắt ”. Tội ác của giặc không thể nào kể
hết cũng như lòng căm thù của người dân cũng không khi nào nguôi. Bọn giặc ác ôn

quá chừng, chúng nó giết một cụ già, một sinh linh bé nhỏ chưa được nhìn thấy mặt mẹ,
chưa được nghe tiếng cha và chưa được đón nhận ánh bình minh. Chúng cướp đi mạng
sống của người mẹ khi chưa biết con mình là trai hay là gái. Chúng cười trên nỗi đau
đớn của một em nhỏ đang gào thét… Những thanh niên ấy chết đi nhưng lòng căm thù
như ngọn lửa ngùn ngụt đến nỗi “ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng”. Đôi mắt ấy như đe
dọa bọn cướp nước, như tạc vào sông núi về một thời tội ác của quân giặc, đôi mắt ấy
như thể nhắn nhủ với người còn sống là phải đuổi hết giặc ra khỏi đất nước ta.
Có biết bao nhiêu người đã ngã xuống nhưng với hình thức khác nhau, có người
chết chém, chết vì súng, chết cháy… và đến đây nhà thơ Tố Hữu cho chúng ta thấy
được cảnh tượng tang thương diễn ra trong nhà tù Miền Nam . Hàng nghìn cái chết vì
“nắm cơm thuốc độc” để rồi đến tận bây giờ vẫn không ngừng vùng vẫy:
“Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết
Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết
Cả nghìn người trong một trại giam
Của một nhà tù lớn: Miền Nam !
Hãy nghe tiếng của nghìn cái xác
Không chịu chết, vạch trời kêu tội ác!”
(Thù muôn đời muôn kiếp không tan 1959– Tố Hữu)
Chẳng những bị bắt vào nhà lao, bị tra tấn cùng cực tưởng đâu có hy vọng một
ngày nào đó thoát chết để trả thù, nhưng nào ngờ “chúng tôi chết, chết quay lăn lóc” bởi
vì “đứt ruột đứt gan, nắm cơm thuốc độc”. Họ đã chết trong “một ngày bi thiết” nhưng
mối thù này họ mãi mang theo và những người đó “không sống nữa nhưng không chịu
chết” bởi vì “thù muôn đời, muôn kiếp không tan”. Người dân ta dẫu phải chết cũng
chết cho hiên ngang, chết cho trong sạch, những con người đón nhận cái chết một cách
tự nguyện “vẫn cam”, miễn sao “tất cả một nói một lời: giải phóng!”. Chính vì lẽ đó mà
họ phải “vạch trời kêu tội ác!”. Hàng nghìn con người ấy, hàng nghìn cái chết ấy tuy
“chết rục chết mòn, vắng bặt tăm hơi” nhưng đã để lại trong lòng người những cảm xúc
xót xa, sự tiếc thương và không khỏi căm thù bè lũ cướp nước, căm giận bọn giết người
không ghê tay với hàng ngàn kiểu giết người khác nhau.
Trang 6

Vì mục đích cướp nước ta mà bọn Mỹ không tha người nào, không chừa nơi nào
và những nơi linh thiêng chúng cũng không tha.Vì thế ngay cả cửa Phật cũng rơi vào
cảnh “dầu sôi lửa bỏng”:
“Ôi cửa Phật cũng dầu sôi lửa bỏng
Dẫu thiêu mình làm đuốc,vẫn cam”
(Miền Nam 1963– Tố Hữu)
Một cách ngẫu nhiên, những câu thơ không chỉ làm tê tái thương yêu tâm hồn thi
sĩ về một thời yêu thương của dân tộc, hơn thế, còn làm tím cả cõi lòng của những
người đang sống hôm nay. Đau đớn thay cái chết của những người dân vô tội, phũ
phàng thay cho chiến tranh tàn ác! Chúng đã hủy diệt nhân dân và đất nước Việt Nam
ta. Và ta nghe trong câu thơ, không đơn thuần chỉ là nhắc lại một hiện thực khốc liệt
của thời chiến nữa, mà đọng lại là cả một tâm tình, một tiếng lòng chua xót, một tiếng
khóc nghẹn ngào… của mỗi nhà thơ trước cái chết của nhân vật. Trước hết là tiếng
lòng đau đớn, chua xót :
“Ôi đứt ruột! xé gan!
Ở đây máu thịt chúng ta bị đâm chém từng ngày từng giờ”
(Những người Phú Lợi)
Ở đây vẫn:
“Roi quằn thịt đổ máu rơi
Rừng cao su béo là xương máu người”
(Hắc Hải – Nguyễn Đình Thi)
Và bởi chiến tranh đã tạo bao sự chia ly, mất mát, mẹ mất con, vợ mất chồng, bạn
bè xa nhau không ngày tái ngộ. Một sự thật đau thương và xót xa như vẫn đang hiện ra
trước mắt, tai ta như đang nghe tiếng khóc từ xưa vọng về:
“…Một mẹ già
Lửa bom làm sém tóc
Nước mắt ráo khô trước cỗ quan tài
Hết Gia Lâm rồi Nguyễn Thiệp đính băng tang
Lửa tội ác lại trùm lên Văn Điển…”
(Hà Nội chúng ta – Trịnh Đường)

Họ đã hy sinh để lại một thân mẹ già với dải băng tang đội con trong giờ “lửa
bom làm sém tóc”, người đầu bạc khóc kẻ đầu xanh tha thiết và cảm động.
Những chiến sĩ, những người sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của bất cứ cuộc
chiến tranh nào họ cũng muốn hy sinh cho đồng đội của mình sống. Chính vì coi bạn
bè, đồng đội như thân mình nên khi mất đi một người họ cảm thấy đau đớn như đứt
từng khúc ruột của mình. Những tiếng kêu thảm thiết ấy như từ ngày xưa đang vọng
về :
"Em ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm, cơm úp
Trang 7
Gọi em
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi… ời… ơi"
(Cúc ơi – Yến Thanh)
Bài thơ được sáng tác năm 1968, viết về người con gái anh hùng, hi sinh khi tuổi
đời còn rất trẻ, bị vùi sâu dưới hố bom tàn khốc, để lại cho đồng đội một niềm thương
cảm khôn nguôi. Nếu nói điều tốt đẹp duy nhất mà chiến tranh mang lại thì đó là gắn
kết những con người trên chiến trường lại với nhau. Họ cùng nhau sống, cùng nhau
chiến đấu, cùng nhau sẻ chia những buồn vui và thậm chí sẵn sàng hi sinh cho nhau. Họ
trao cho nhau những tình cảm thân thiết, chân thành, yêu thương nhau như anh em ruột
thịt. Chính vì vậy, khi một ai hi sinh, họ cũng đau đớn như vừa mất đi những người thân
của mình.
Tiếng khóc như xé lòng và quá thảm thiết của mẹ xa con, của tình đồng đội – sự
mất mát khó bù đắp. Và trong chiến tranh, ta còn nghe được những tâm tình của biết
bao cuộc tình đẹp đã bị giẫm nát. Những đôi trai gái yêu nhau nhưng lại không thể đến
được với nhau vì bị chia cắt bởi cái chết, bởi chiến tranh. Kẻ ra đi, người ở lại cũng mất
nửa tâm hồn:
“Anh mất em như mất nửa cuộc đời

Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.”
(Bài thơ về hạnh phúc 1969– Bùi Minh Quốc)
Chiến tranh gắn liền với tình yêu, những mối tình đằm thắm sẽ là động lực giúp
họ vững bước trong sự nghiệp chiến đấu của họ. Tiếp thêm sức mạnh cho họ thực hiện
lý tưởng của mình. Niềm hạnh phúc mong manh ấy cũng bị “những con người thú”
(Miền Nam – Tố Hữu) ấy chôn vùi. Khiến cho họ đau đớn đến “bàng hoàng như ngỡ
trái tim rơi”.
Chiến tranh mà, chẳng ai nói trước được gì cả. Mới ngày hôm qua thôi hai đứa
còn ngồi bên nhau, cùng nhau nói chuyện về cuộc kháng chiến, cùng nhau tính chuyện
sau ngày độc lập. Thế mà:
“(…)Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người”
(Quê hương – Giang Nam)
Trang 8
Khi chiến đấu trên chiến trường ác liệt, nguồn động viên lớn nhất của người
chiến sĩ chính là ngày trở về để gặp lại người yêu, người thân và gia đình. Những đôi vợ
chồng, họ yêu nhau, họ yêu đất nước, họ cùng nhau chiến đấu vì họ cùng một chí
hướng, để rồi khi hy sinh mà không được nhìn thấy nhau, không được gặp nhau lần
cuối. Nỗi bi thương cùng ai cho hết, chỉ biết đau đớn, gào khóc trong tận cõi lòng.
Chiến tranh thảm khốc, đi không hẹn ngày về và đã trở thành nỗi ám ảnh, luôn
thao thức trong lòng người dân:
“Chúng ta ăn sao được ngủ sao yên
Khi lũ giết người chưa bị lôi ra hỏi tội

Chúng ta vui sao được với chồng với vợ với con
Khi lũ giết người chưa bị lôi ra hỏi tội”
(Gửi các anh chị trong tù Miền Nam )
Và vì thế tận sâu trong những con người của một đất nước luôn bị chiến tranh đe
dọa, cuộc sống luôn bị ám ảnh ấy là những câu hỏi và nỗi niềm thổn thức :
“Vì đâu mất nước tan nhà
Trẻ thơ mất bố, mẹ già mất con?”
(Hắc Hải – Nguyễn Đình Thi)
Và người người oán than:
“Thắp hương con cháu khóc
Đòi mạng oan hồn cười”
(Chuyện cũ dân lèn – Nguyễn Trọng Oánh)
Chiến tranh – giặc Mỹ đã đem đến cho nhân dân ta vô vàn tai họa và mất mát. Và
chính bởi đi sâu vào “mặt trái” của cuộc chiến mà đã có một thời, có thi phẩm bị cấm
không được tuyên truyền rộng rãi đối với người đọc hay người ta lại ngại nhắc đến. Do
cực đoan, phiến diện nên một thời chúng ta cho rằng những bài thơ viết về nỗi đau, sự
hy sinh, mất mát là bi lụy, làm hạn chế lại dòng vận động của lịch sử hào hùng, làm suy
giảm tinh thần chiến đấu chống giặc. Nhưng cái “bi” trong thời kỳ này (55 – 75) không
phải là cái mơ hồ, luẩn quẩn, bế tắc của các thi nhân trong phong trào Thơ Mới mà là
cái buồn tích cực của thời kỳ cách mạng. Họ đã hiểu được nguyên nhân, nguồn gốc sâu
xa chứ không mơ hồ sa ngã để rồi bế tắc.
Tuy mang âm hưởng buồn, chất chứa niềm đau, sự xót xa, bi thương ấy nhưng
cái “bi” thời này vẫn ánh lên niềm tin yêu, hy vọng sống và lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ
thù. Đồng thời qua những cái chết của những con người vô tội ấy đã ghi lại bản án tố
cáo tội ác dã man của bọn Đế Quốc cướp nước. Chúng giết người không gớm tay,
không chừa thủ đoạn “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Và như Nguyên Hồng đã từng
miêu tả:
“Chúng luyện tay người moi gan moi mật
Chúng luyện hồn người đói thịt cuồng dâm”
(Ngày mùa thu đưa con lớn đi học)

2. Cái “tráng” trong thơ kháng Mỹ:
Trang 9
Bên cạnh khúc ca về những cái chết bi thương, phản ánh sự khốc liệt của chiến
tranh thì thơ ca trong giai đoạn này còn lấy những tấm gương anh dũng, những cái chết
đã trở thành bất tử trong cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc làm chất liệu và nguồn
cảm hứng. Đó là những vần thơ viết về cái chết với cảm thức hùng tráng - những cái
chết mà trong nó hiện tồn sự sống bất diệt.
Trong “khúc ca bi tráng” về một thời khói lửa ấy ta bắt gặp gương mặt của những
người con của quê hương đã không tiếc tuổi thanh xuân lên đường chiến đấu và hy sinh
để dành lấy hòa bình, sự sống cho mảnh đất quê nhà yêu dấu. Họ đã chết để ý chí, tinh
thần và tinh yêu của họ sống mãi với thời gian với thơ ca và trong lòng người.
“Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lí sinh ra”
(Hãy nhớ lấy lời tôi, Tố Hữu)
Sống quả cảm và chết kiên cường, những chiến sĩ ấy để lại cho thơ những tượng
đài vĩnh cửu cùng thời gian. Hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ, khi bị giặc hành quyết, để
cứu một con đường, mở lối cho đồng đội, che chắn cho các đồng chí của mình vượt lên
trong trận đánh, hoặc âm thầm ra đi trong cơn bệnh nghiệt ngã…dù tử thần có xuất hiện
với gương mặt nào chăng nữa cũng không làm người chiến sĩ run sợ.
“Sợi dây trói thành tro bụi
Nhưng tim anh hùng còn đập giữa khói đen
Hai ngọn đuốc rùng rùng tiến lại
Cái chết đâu làm ta phải yếu hèn”
(Bài ca chim Chơ-rao, Thu Bồn)
Trái lại, trong bất kỳ hoàn cảnh nào trái tim người chiến sĩ cũng chỉ hướng về quê
hương, về Tổ Quốc để rồi chính cái chết của họ làm cho kẻ thù phải khiếp sợ. Chúng
phải quỳ gối quy hàng trước sự anh dũng, kiên cường, trước cái chết mà vẫn trong tư
thế tiến công của người lính kiêu hùng.

“Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công.”
(Dáng đứng Việt Nam , Lê Anh Xuân)
Và chúng không dám nhìn vào ngôi mộ của người cộng sản mà chính tay chúng
đã giết hại bởi trên đó những đóa hoa hồng đỏ nở rộ như màu máu của người anh hùng
thám vào lòng đất nuôi sống cây cỏ quê hương, tâm hồn linh thiêng đang sống dậy đợi
phút báo thù:
“Mộ anh trên đồi cao
Trang 10

×