Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng – từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.81 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../..........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BỘ NỘI VỤ
...../.....

PHÙ THỊ QUỲNH LY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../..........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BỘ NỘI VỤ
...../.....

PHÙ THỊ QUỲNH LY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. TẠ NGỌC HẢI

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, đƣợc trích dẫn rõ ràng theo đúng
quy định. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào.
TÁC GIẢ

Phù Thị Quỳnh Ly

i


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, Tác giả xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến thầy giáo TS. Tạ Ngọc Hải - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, tận
tình chỉ bảo, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả hoàn thành
bài luận văn này.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng – từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội” tác giả đã
nhận đƣợc sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy, cơ giáo trƣờng Học

viên Hành chính Quốc gia đã tận tình truyền đạt kiến thức quý báu nhất và tạo
điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả cảm ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ của gia đình, bạn
bè và ngƣời thân, đã ln ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để tác giả tập trung
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Do thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế nên còn có những tồn
tại và thiếu sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp và sự chỉ bảo
của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2019
TÁC GIẢ

Phù Thị Quỳnh Ly

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: ................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .............................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG ............................................................................................ 7

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI
ĐUA, KHEN THƢỞNG ............................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng .................. 7
1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng ................. 13
1.2. VAI TRÕ, Ý NGHĨA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG ........................................................................................ 15
1.2.1. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng ....... 15
1.2.2. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng.............. 19
1.3. CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG ........................................................................................ 20
1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng ....................................................................................................... 20
1.3.2. Các yêu cầu, điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thƣởng .............................................................................................. 23

iii


Kết luận Chƣơng 1 .......................................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TẠI HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI...... 32
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI
HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................. 32
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN
THƢỞNG TẠI HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI......... . .........43
2.3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN
THƢỞNG TẠI HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................ ........ 50
2.3.1. Qui định của pháp luật về thi đua, khen thƣởng ở nƣớc ta hiện
nay ................................................................................................................. 50
2.3.2. Thực trạng tuân thủ pháp luật thi đua, khen thƣởng tại huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội ............................................................................. 54
2.3.3. Thực trạng thi hành pháp luật thi đua, khen thƣởng tại huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội ............................................................................. 65
2.3.4. Thực trạng áp dụng pháp luật thi đua, khen thƣởng tại huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội ............................................................................. 69
2.4. MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG, ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ ĐẾN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG........... .... ............71
2.4.1. Những tác động, ảnh hƣởng tích cực ............................................. 71
2.4.2. Những tác động, ảnh hƣởng tiêu cực ............................................. 73
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI
ĐUA, KHEN THƢỞNG TẠI HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY ..................................................................................................... 75
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG .................................................... 75
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TẠI HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ....... 81

iv


3.3. CÁC GIẢI PHÁP BỔ TRỢ .................................................................. 98
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 102
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106

v


DANH MỤC SƠ ĐỒ , BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hóa khái niệm thực hiện pháp luật ........................................ 9

Bảng 2.1: Các danh hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng ……… .. …………48
Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy thi đua, khen thƣởng ........................................... 65

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chủ trƣơng lấy thi đua làm động
lực để phát huy tinh thần yêu nƣớc, qua phong trào thi đua để bồi dƣỡng,
nâng cao lòng yêu nƣớc, biến lòng yêu nƣớc thành sức mạnh vật chất và tinh
thần, tạo đƣợc động lực to lớn thúc đẩy mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc, giành lại độc lập tự do cho dân tộc,
thống nhất non sông, đƣa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác; đồng thời lấy lòng yêu nƣớc để thúc đẩy thi đua và nâng cao hiệu
quả của công tác thi đua. Phong trào thi đua yêu nƣớc do Ngƣời khởi xƣớng
và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh
chóng phát triển, thành phong trào sâu rộng và liên tục qua nhiều thập kỷ,
trong từng giai đoạn lịch sử của đất nƣớc. Trƣớc những thời cơ và thách thức
vô cùng to lớn, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng ngày
càng có vị trí, vai trị hết sức quan trọng, tạo động lực thúc đẩy các phong trào
thi đua, góp phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, kết hợp phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa xã hội, nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc.
Hiện nay, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng
đã đƣợc hệ thống từ Trung ƣơng tới cơ sở. Pháp luật về thi đua, khen thƣởng
từng bƣớc đƣợc hoàn thiện đã tạo ra cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực này một cách hiệu quả, góp phần thể chế hóa và đƣa
chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc ta về thi đua,
khen thƣởng đi vào cuộc sống, góp phần xây dựng nƣớc Cộng hịa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó vẫn cịn nhiều vấn đề bất cập tồn tại cần đƣợc xem xét và
giải quyết triệt để nhƣ: Quản lí nhà nƣớc chƣa đƣợc chặt chẽ, việc tuân thủ,
thực hiện pháp luật trong thi đua, khen thƣởng cịn bị xem nhẹ; phƣơng pháp
duy trì, phát động thi đua, bồi dƣỡng gƣơng điển hình tiên tiến, việc tuyên

1


truyền công khai, dân chủ, động viên khen thƣởng chƣa đƣợc thực hiện tốt.
Có lúc, có nơi thi đua, khen thƣởng chƣa gắn liền với công tác quản lý, bồi
dƣỡng, quy hoạch, đề bạt cất nhắc cán bộ; tập trung khen lãnh đạo là chính,
chƣa quan tâm tới ngƣời lao động trực tiếp. Khen, thƣởng chƣa công bằng,
thiếu dân chủ, chƣa chính xác, chƣa đúng ngƣời đúng việc, chƣa đảm bảo
thành tích đến đâu khen thƣởng đến đó, bệnh thành tích, hình thức, bệnh vụ
lợi, … Khơng ít phong trào thi đua cịn mang tính hình thức, chạy theo thành
tích giả tạo, chƣa có chiều sâu, vẫn cịn có các biểu hiện đi tắt, đi cửa sau để
mong đạt đƣợc danh hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng một cách nhanh
chóng đốt cháy giai đoạn hoặc bằng nhiều cách khác nhau để đạt đƣợc danh
hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng ở mức cao hơn. Từ đó làm giảm lịng tin
của quần chúng nhân dân, làm lu mờ vị trí, vai trị của thi đua, khen thƣởng.
Qua phƣơng tiện thơng tin đại chúng, một số cơ quan Nhà nƣớc đã phải tốn
công sức để giải quyết đơn thƣ và xử lý số cán bộ, tổ chức có sai phạm liên
quan đến lĩnh vực này.
Việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng ở huyện
Sóc Sơn, thành phố Hà Nội cũng khơng nằm ngồi tình trạng trên. Các danh
hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng cơng nhận nhiều nhƣng phong trào thi
đua thì chƣa xứng, khen thƣởng tràn lan, khen chƣa đúng so với thành tích đạt
đƣợc, chƣa đúng quy trình, bng lỏng quản lí Nhà nƣớc về công tác thi đua,
khen thƣởng. Bộ máy làm công tác thi đua, khen thƣởng còn thiếu và bất cập.

Năng lực một số bộ phận công chức tại các đơn vị cịn yếu.
Để khắc phục tình trạng trên, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức,
trách nhiệm về công tác thi đua, khen thƣởng; đồng thời có giải pháp tổ chức tốt
việc thực hiện Luật Thi đua, Khen thƣởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi đua, Khen thƣởng năm 2013. Chính vì vậy, nghiên cứu
“Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng - từ thực tiễn huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội” là rất cần thiết vì có tính cấp bách và tính thực tiễn
cao.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Hiện nay đã có một số cơng trình nghiên cứu cơ bản, tồn diện, có hệ
thống về thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng nhƣ:
Trong một bài viết của tác giả Ths. Trần Quốc Tịch (2015), đề cấp đến
“Vai trò của thi đua, khen thưởng trong việc xây dựng đơn vị vững mạnh tồn
diện”, Cổng thơng tin điện tử của Bộ Nội vụ ngày 29/7/2015 đã chỉ ra những
bất cập, hạn chế trong việc thực hiện thi đua, khen thƣởng từ đó đƣa ra một số
nội dung, biện pháp cơ bản để phát huy vai trị của cơng tác thi đua, khen
thƣởng ở các cơ quan, đơn vị hiện nay.
Cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước”,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2008.
Luận văn “Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức ngành thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay” Năm 2009 của tác giả Trần Thị
Bằng. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu và đƣa ra giải pháp để nâng cao năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức ngành thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn
hiện nay và chƣa đề cập nhiều đến vấn đề thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng.
Luận văn “Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam”

năm 2010 của tác giả Đỗ Thúy Phƣợng. Luận văn đã đƣa ra những đề xuất,
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng ở Việt Nam
nhƣng vấn đề nội dung của luận văn nằm ở tầm vĩ mô, chung chung, không
cụ thể.
Luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng đối với
giáo viên trong trường trung cấp chuyên nghiệp – từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”
năm 2017 của tác giả Hồ Thị Cúc. Luận văn đã nghiên cứu, phân tích về việc
tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng nhƣng đối tƣợng đề cập
đến chỉ là các cá nhân thuộc ngành giáo dục, cụ thể là giáo viên trong trƣờng
trung cấp chuyên nghiệp ở tỉnh Đắk Lắk.

3


Luận văn “Pháp luật về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn thành phố Hà
Nội” năm 2017 của tác giả Lƣơng Trƣờng Giang đã nghiên cứu, phân tích,
đánh giá thực trạng pháp luật về thi đua, khen thƣởng và đề xuất giải pháp
tăng cƣờng việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn
thành phố Hà Nội, tuy nhiên đề cập còn ở mức độ rộng, chƣa sâu sát thực tế
cấp Huyện.
Ngoài những đề tài tiêu biểu trên, đã có các nghiên cứu của các tác giả
khác nhƣng những đề tài đó đều của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng và tình hình kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên có những khác biệt so
với địa phƣơng nghiên cứu, chƣa có cơng trình nào đƣợc áp dụng trên địa bàn
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những
khía cạnh khác nhau về thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng nhƣng
còn hạn chế và chƣa sâu sát, có nhiều vấn đề cịn để ngỏ. Vì vậy luận văn
“Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng - từ thực tiễn huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội” là cơng trình có tính ứng dụng vào thực tiễn cao

đối với huyện Sóc Sơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng luận văn hƣớng tới việc đề
xuất các giải pháp nâng cao kết quả thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng ở huyện Sóc Sơn và các quận, huyện khác trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số nội dung lý luận về thực hiện pháp luật thi đua,
khen thƣởng.
- Đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội từ khi có Luật thi

4


đua, khen thƣởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua,
khen thƣởng năm 2013.
- Đề xuất giải pháp nâng cao kết quả thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thƣởng trên địa bàn huyện Sóc Sơn và các quận, huyện khác thuộc
thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng tại huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Từ năm 2015 đến nay.
- Khơng gian: Tập trung trên địa bàn huyện Sóc Sơn và một số đơn vị
hành chính khác thuộc thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

* Phương pháp luận:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận
Nhà nƣớc và pháp luật.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và một số phƣơng pháp cụ thể nhƣ:
Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp lôgic và lịch sử; kết hợp
với một số phƣơng pháp nhƣ: Phƣơng pháp so sánh, thống kê, phân tích các
vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung thêm nội dung trên phƣơng
diện lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng.
- Các giải pháp, đề xuất trong luận văn có tính khả thi, góp phần nâng
cao kết quả thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng

5


- Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng,
thực hiện chính sách, pháp luật thi đua, khen thƣởng; sử dụng trong hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo, bồi dƣỡng; đồng thời có
thể làm tài liệu phục vụ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác thi
đua, khen thƣởng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, ba chƣơng nội dung, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm:
Chƣơng 1: Lý luận về thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác thi đua, khen thƣởng và thực hiện pháp
luật về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Chƣơng 3: Giải pháp về bảo đảm thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội hiện nay.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
Trƣớc khi đi vào phân tích, làm rõ vấn đề thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực thi đua, khen thƣởng, ta cần tìm hiểu thế nào là pháp luật và thực hiện
pháp luật nói chung.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của
Nhà nƣớc và phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, điều chỉnh các quan
hệ xã hội điển hình, phổ biến giữa các chủ thể với nhau, thiết lập trật tự, kỷ
cƣơng của xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bình thƣờng của xã hội. [20]
Pháp luật là cơng cụ có hiệu lực nhất để thiết lập trật tự kỷ cƣơng, quản
lý mọi mặt của đời sống xã hội, buộc các cá nhân, tổ chức phải tuân theo.
Song pháp luật chỉ có thể phát huy đƣợc vai trị và những giá trị của mình
trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó đƣợc tơn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện trong cuộc sống. Vì thế, thực hiện pháp luật
là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện.
Thực hiện pháp luật trƣớc hết là một trong những hình thức để thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc. Tất cả các Nhà nƣớc để có thể tổ
chức, quản lý đƣợc xã hội đều bắt buộc phải tiến hành xây dựng và ban hành
pháp luật. Nhà nƣớc mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã

hội phục vụ lợi ích và mục đích của Nhà nƣớc và xã hội. Điều đó chỉ có thể
đạt đƣợc khi các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành đƣợc các tổ chức
và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác, đầy đủ.
Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Pháp luật đƣợc đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con ngƣời, nên việc thực

7


hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con ngƣời. Hành vi đó có
thể là hành động hoặc không hành động phù hợp với những quy định của
pháp luật.
Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng
của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thực hiện pháp luật, một mặt nhằm đạt đƣợc
những mục đích xã hội mà vì chúng nhà nƣớc đã phải ban hành pháp luật, mặt
khác còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực
định để từ đó có thể đƣa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đƣa pháp luật vào
cuộc sống.
Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều
cách thức khác nhau. Pháp luật mang tính bắt buộc chung đòi hỏi mọi tổ chức
và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Vì vậy, thực hiện
pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhƣng cũng có thể là hoạt động
của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội… Việc thực hiện pháp luật có
thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể, nhƣng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí
của nhà nƣớc.
Thực hiện pháp luật ở nƣớc ta hiện nay có biểu hiện tƣơng đối tốt.
Thực hiện Đƣờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách của nhà nƣớc,
sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, công tác tuyên truyền pháp luật của
các cơ quan chức năng; tất cả những yếu tố đó đã tạo cho ngƣời dân một cái

nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật. Từ đó, ngƣời dân chấp hành,
tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh.
Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trƣơng của Chính phủ trong việc giải
quyết dứt khốt, khơng tránh né dù đối tƣợng có cƣơng vị, trọng trách cao đến
đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu cơng bằng xã hội đƣợc dƣ luận xã hội quan
tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem lại quyền lợi cho ngƣời dân mà thể
hiện tính dân chủ của nhà nƣớc. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp
luật của ngƣời dân đã đƣợc củng cố và nâng cao.

8


Giáo trình lý luận Nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội đƣa ra khái niệm: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm
hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”
[20,tr.468].
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý xác định những hình thức thực hiện pháp luật nhƣ sau: Tuân thủ pháp luật;
Thi hành pháp luật; Sử dụng pháp luật; Áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế, khơng tiến hành các hoạt động mà pháp luật cấm.
Thi hành pháp luật (cịn gọi là chấp hành pháp luật) là hình thức thực
hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật chủ động thực hiện các nghĩa vụ
của mình.
Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nƣớc
thơng qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện các quy định của pháp luật hoặc ban hành quyết định làm phát sinh, thay

đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Thực hiện pháp luật
Khái niệm: Thực hiện pháp luật là hoạt động
có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định
của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp
pháp của các chủ thể pháp luật.

Các hình thức thực hiện pháp luật

Sử dụng pháp luật
Thi hành pháp luật
Tuân thủ pháp luật
Áp dụng pháp luật

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hóa khái niệm thực hiện pháp luật

9


Trong đời sống Nhà nƣớc, đời sống xã hội, thực hiện pháp luật có tƣ
cách nhƣ là phƣơng thức quản lý của Nhà nƣớc đối với xã hội. Thực hiện
pháp luật đòi hỏi các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội đƣợc pháp
luật điều chỉnh phải nghiêm chỉnh tuân thủ và thực hiện, chính xác, đầy đủ
các quy định của pháp luật. Sự chấp hành pháp luật có liên quan trực tiếp đến
trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Khi trình độ hiểu biết pháp luật này đạt đến mức độ nhất định, khi nhận thức
pháp luật đến trình độ thống nhất, khi đó việc thực hiện pháp luật đƣợc nâng
lên thành quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo hành vi pháp luật đƣợc thực hiện một
cách tự giác.

Những yếu tố này tạo nên bản chất của thực hiện pháp luật. Một xã hội
có trật tự, mọi ngƣời sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là yếu tố
quan trọng để củng cố, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhƣng cũng
không khẳng định máy móc rằng trong xã hội chủ nghĩa khơng có vi phạm
pháp luật. Do vậy, mọi hành vi vi phạm đều đƣợc phát hiện và xử lý nghiêm
minh theo quy định của pháp luật là một trong những yếu tố rất quan trọng
của việc thực hiện pháp luật. Trong Điều 96, Luật Thi đua, khen thƣởng quy
định: “Người nào gian dối trong việc kê khai thành tích để được khen thưởng
thì bị hủy bỏ quyết định khen thưởng và bị thu hồi hiện vật và tiền thưởng đã
nhận; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà cịn bị xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật” [23].
Các quy phạm pháp luật rất phong phú ở các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội thì thực hiện pháp luật có những nội dung đặc trƣng riêng, cụ
thể trong lĩnh vực ấy. Vì thế, trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng, thực hiện
pháp luật cũng có những nội dung đặc trƣng riêng. Các đặc trƣng đó có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong việc tìm kiếm các giải pháp thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thƣởng, trong điều kiện xây dựng một xã hội công

10


bằng, dân chủ, văn minh trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nƣớc nhƣ nƣớc ta hiện nay.
Điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng,
do vậy, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này có những đặc điểm khác biệt
với thực hiện pháp luật ở các lĩnh vực đời sống xã hội khác. Thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng không tồn tại độc lập và tách rời hoạt
động thực hiện pháp luật nói chung, bởi nhiều loại pháp luật đan xen khó có
thể tách bạch rạch rịi, cho nên trong quá trình nghiên cứu thực hiện pháp luật

về thi đua, khen thƣởng ta phải đặt nó trong sự thống nhất chung.
Để đi đến làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua,
khen thƣởng, ta có thể tiếp cận từ các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Khơng đƣa khái niệm thực hiện pháp luật vào lĩnh vực thi
đua, khen thƣởng vì thực hiện pháp luật là thống nhất. Thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng là biểu hiện cụ thể của thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực hoạt động liên quan đến lĩnh vực thi đua, khen thƣởng. Theo
cách tiếp cận này thì chỉ cần nghiên cứu các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức
chính trị, các tổ chức kinh tế, các lực lƣợng vũ trang và mọi công dân hiện
nay thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng nhƣ thế nào, từ đó có các giải
pháp tác động để các chủ thể thực hiện các hành vi của mình (hành động hoặc
khơng hành động) phù hợp với yêu cầu của pháp luật thì đƣợc hiểu là thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng.
Với cách tiếp cận nhƣ vậy thì rất khó nhận biết mối quan hệ hữu cơ giữa
xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật, từ đó dẫn tới việc xác định những giải
pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng là rất khó
khăn.
Thứ hai: Việc hình thành thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua,
khen thƣởng là việc đƣa thêm nội dung mới vào nội hàm của hoạt động thực
hiện pháp luật. Nhƣ vậy ta vẫn có khái niệm riêng mà vẫn thể hiện tính liên

11


hoàn trong các yếu tố xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp
luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng.
Cách tiếp cận này không phá vỡ nội hàm của thực hiện pháp luật, mà
nó cịn khái quát đƣợc thực trạng của thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi
đua, khen thƣởng đồng thời vẫn giữ đƣợc tính thống nhất. Việc đƣa ra khái
niệm thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng sẽ có ý nghĩa

thực tiễn trong việc tìm ra các giải pháp củng cố và tăng cƣờng thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực này.
Cơ sở hình thành thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen
thƣởng là pháp luật thi đua, khen thƣởng, các cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ về
thi đua, khen thƣởng và các chủ thể khác tham gia vào quá trình thi đua, khen
thƣởng đều phải tuân thủ và thực hiện, đẩy đủ, chính xác, nghiêm chỉnh pháp
luật. Nhƣ vậy, các hành vi phù hợp với quy định của pháp luật của chủ thể
tham gia các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng tạo nên nội
dung của thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng.
Từ những phân tích trên đây có thể nhận thấy rằng: Thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng là một trong những hoạt động cấu
thành thực hiện pháp luật, với mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của
pháp luật về thi đua, khen thưởng, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Theo đó, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng gồm
ba nhóm nội dung sau:
Một là: Xây dựng hệ thống pháp luật về lĩnh vực thi đua, khen thƣởng
một cách đồng bộ toàn diện.
Hai là: Tổ chức nghiêm minh, đẩy đủ, triệt để, chính xác việc thực hiện
pháp luật thi đua, khen thƣởng.
Ba là: Kịp thời xử lý những hành vi vi phạm pháp luật thi đua, khen
thƣởng và cơng khai, minh bạch trƣớc tồn thể nhân dân.

12


1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
Để hiểu sâu sắc hơn khái niệm thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng, không chỉ cần nghiên cứu nó trên bình diện thực hiện pháp luật nói
chung mà cần thiết phải tìm hiểu những nội dung đặc trƣng của nó. Đặc trƣng

là biểu hiện cụ thể, phong phú với sắc thái riêng của trạng thái hành vi pháp lý
của các loại chủ thể phát sinh khi tham gia các quan hệ xã hội về thi đua, khen
thƣởng. Những đặc trƣng cơ bản về thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua,
khen thƣởng bao gồm:
Một là: Thực hiện pháp luật về thi đua khen thưởng là một trong những
hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, được quy định
bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
Để quản lý xã hội, Nhà nƣớc phải tiến hành xây dựng pháp luật về thi
đua, khen thƣởng và tổ chức thực hiện trong đời sống thực tế, làm cho những
yêu cầu, quy định của pháp luật về thi đua, khen thƣởng trở thành hiện thực.
Nói cách khác phƣơng tiện hàng đầu trong quản lý Nhà nƣớc về thi đua, khen
thƣởng chính là pháp luật. Nó là phƣơng tiện điều chỉnh các quan hệ liên quan
đến thi đua, khen thƣởng và bảo đảm các mối quan hệ đó đƣợc giữ vững và
phát triển trong mơi trƣờng bình đẳng và ổn định.
Do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi có những cá
nhân, tập thể có hành vi làm lợi cho nhà nƣớc, cho cộng đồng, cho xã hội, làm
vinh danh cho dân tộc, Nhà nƣớc đã ban hành các quy phạm pháp luật, để ghi
nhận công sức và tôn vinh thành tích của cá nhân, tập thể trong lao động xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm tạo động lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh
của từng con ngƣời, từng địa phƣơng và toàn xã hội thúc đẩy sự phát triển của
đất nƣớc. Đây cũng chính là đạo lý “uống nƣớc nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Pháp luật thi đua, khen thƣởng đã quy định: Đối tƣợng, nguyên tắc, nội
dung của thi đua; quy định các hình thức thi đua, khen thƣởng; tiêu chuẩn
công nhận các danh hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng; quy trình xét và
cơng nhận các danh hiệu thi đua, hình thức khen thƣởng; các hoạt động quản

13


lý Nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng; chức năng, thẩm quyền của các tổ chức

trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội; các lực lƣợng vũ trang và quyền
lợi của chủ thể tham gia thi đua. Đồng thời cũng quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy trực tiếp làm công tác thi đua, khen
thƣởng trong hệ thống các cơ quan Nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến cơ sở… để
đối chiếu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
trong đời sống thực tiễn.
Hai là: Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng được
thể hiện ở hành vi pháp lý phù hợp với pháp luật thi đua, khen thưởng của
chủ thể tham gia thi đua, khen thưởng
Pháp luật là hiện tƣợng pháp lý ở trạng thái “tĩnh”, còn thực hiện pháp
luật là đời sống pháp luật ở trạng thái “động”. Trạng thái động hay còn gọi là
pháp luật hành vi. Thực hiện pháp luật trong thi đua, khen thƣởng là hành vi
hoạt động của các chủ thể tham gia trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng. Các
chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể phù hợp với pháp luật đó
là thực hiện pháp luật.
Nhóm các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật thi đua, khen thƣởng điều
chỉnh bao gồm các nhóm sau:
- Nhóm các quan hệ pháp luật quy định đối tƣợng, phạm vi, quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, các cơ quan Nhà nƣớc, các đoàn thể, lực lƣợng vũ
trang trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng.
- Nhóm các quan hệ pháp luật quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt
động, các hình thức thi đua và tổ chức bộ máy, nội dung quản lí Nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng…
- Nhóm các quan hệ pháp luật quy định về tiêu chuẩn các danh hiệu
vinh dự của Nhà nƣớc; danh hiệu thi đua, các hình thức khen thƣởng.
- Nhóm các quan hệ pháp luật quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng.

14



Trong các quan hệ trên đây các chủ thể khi tham gia hoạt động thi đua
và khen thƣởng đều phải nghiêm chỉnh thực hiện đúng pháp luật.
Ba là: Thực hiện pháp luật là phương pháp ngăn ngừa và xử lý những
hành vi phạm pháp luật thi đua, khen thưởng
Các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng
thƣờng tập trung vào những hoạt động sau:
- Vi phạm trong quy trình, thẩm quyền xét các danh hiệu thi đua và
hình thức khen thƣởng;
- Vi phạm trong việc báo cáo thành tích đề nghị phong tặng các danh
hiệu thi đua hoặc hình thức khen thƣởng;
- Vi phạm trong việc xác nhận thành tích đề nghị phong tặng hoặc khen
thƣởng;
- Vi phạm trong việc thẩm định thành tích của đối tƣợng đề nghị khen
thƣởng.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng làm cho các
hoạt động trong lĩnh vực thi đua, khen thƣởng tuân thủ và áp dụng đúng quy
định của pháp luật, đồng thời cũng là biện pháp phịng ngừa hành vi vi phạm.
1.2. VAI TRỊ, Ý NGHĨA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI
ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.2.1. Vai trò thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
Một là: Thi đua, khen thưởng có tác động tích cực và đóng vai trị quan
trọng trong đời sống Nhà nước và xã hội, thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng là phương thức giúp quản lý Nhà nước trong thi đua, khen thưởng
Quản lý xã hội bằng pháp luật là nội dung quản lý quan trọng nhất của
Nhà nƣớc. Hoạt động quản lý Nhà nƣớc bằng pháp luật là hoạt động thể hiện
quyền lực của nhà nƣớc. Đây là hoạt động rất nhạy cảm bởi nếu quyền lực
không đủ thì khơng thực hiện đƣợc chức năng quản lý. Ngƣợc lại, quyền lực
q mức cần thiết thì lại có tác dụng khơng tốt đối với xã hội. Chính vì vậy

pháp luật về tổ chức bộ máy, về quản lý cần phải đƣợc xây dựng, song quan

15


trọng hơn là nó phải đi vào cuộc sống. Nhƣ vậy, cũng có thể nói, thực hiện
pháp luật tức là biện pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc.
Thi đua, khen thƣởng là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội,
lĩnh vực hoạt động này rất rộng lớn cần có sự quản lý của nhà nƣớc. Nhà
nƣớc phải đánh giá đầy đủ nhu cầu quản lý và tổ chức tốt quản lý lĩnh vực
này. Nếu ý thức ngƣời dân thể hiện rõ nét trạng thái thực hiện pháp luật thì
yếu tố quản lý Nhà nƣớc là yếu tố quan trọng đầu tiên của thực hiện pháp luật.
Điều này thể hiện ở sự đồng điệu giữa hoạt động nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nƣớc và hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, xử lý vi
phạm pháp luật. Các mặt này thể hiện nội dung thực hiện pháp luật đồng thời
là phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc. Giữa quản lý Nhà nƣớc và thực hiện pháp
luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, một mặt thực hiện pháp luật là
phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc; mặt khác thì quản lý Nhà nƣớc phải tuân thủ
pháp luật. Thi đua, khen thƣởng là hoạt động có tính xã hội rộng rãi, chính vì
vậy phải dùng pháp luật để điều chỉnh và kiên quyết thực hiện đúng pháp luật
thì mới tạo đƣợc sự đồng thuận cao của các chủ thể và làm tăng vai trò to lớn
của nó. Đồng thời cũng qua các quy phạm pháp luật để kiểm tra tính đúng đắn
của quản lý và hiệu quả quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực này.
Hai là: Thực hiện pháp luật trong thi đua, khen thưởng là phương thức
bảo vệ, bảo đảm lợi ích Nhà nước và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
Quản lý Nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng bằng pháp luật – từ đó thực
hiện pháp luật đƣợc hình thành. Thực hiện pháp luật là phƣơng để bảo vệ lợi
ích của đất nƣớc – đó là thành quả cả về vật chất và tinh thần mà thi đua đã
tạo ra cho toàn xã hội. Lợi ích đất nƣớc nói rộng ra là an ninh quốc gia, an
toàn xã hội, quyền con ngƣời và là uy tín, vị trí trên trƣờng quốc tế.

Thực hiện pháp luật còn là phƣơng thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể tham gia thi đua, là phƣơng pháp đặc trƣng tạo ra sự thơng
thống, thuận tiện trong quá trình tổ chức các phong trào thi đua, đảm bảo cho
mọi chủ thể khi tham gia thi đua thực hiện những nghĩa vụ của mình một cách

16


thuận lợi nhất, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về quyền, lợi ích hợp pháp do
hoạt động thi đua mang lại và các hình thức khen thƣởng của các cá nhân và
tập thể đạt đƣợc.
Ba là: Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng là động
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong thi đua, khen
thƣởng phần lớn xuất phát từ quy phạm đạo đức và mang tính xã hội hóa cao.
Do đó nó rất phù hợp với bản chất của thi đua, khen thƣởng. Ngƣời tham gia
thi đua khơng phải v mục đích của bản thân song lại là nhu cầu của phát triển
xă hội. Việc thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng cho phép chúng ta vận
dụng một cách sáng tạo trong lựa chọn tập thể, cá nhân tiêu biểu trong các
phong trào thi đua để khen thƣởng đƣợc nhiều các nhân, tập thể để tôn vinh
những danh hiệu cao quý của Nhà nƣớc. Nhƣ lời Bác Hồ dặn: “Cần có những
phần thưởng để khuyến khích, động viên, cổ vũ mọi người hăng hái làm tròn
nhiệm vụ”. Những cá nhân, tập thể đƣợc khen thƣởng đúng đắn họ rất tự hào,
tự đáy lòng họ quyết tâm phấn đấu để đạt đƣợc nhiều thành tích cao hơn,
đồng thời họ nhận thức sâu sắc đƣợc giá trị của việc động viên, khen thƣởng
nên họ càng phấn đấu với mục đích vơ tƣ trong sáng tích cực. Bác Hồ căn
dặn: “Khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương”. Mặt
khác, quá trình tuân thủ pháp luật khi các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
tiến hành, nếu thực sự khơng đúng các quy định của pháp luật, sẽ dẫn đến
khen thƣởng không chính xác sẽ làm thui chột ý chí phấn đấu vƣơn lên, gây

chán nản, tiêu cực. Khi thực hiện đúng các quy định của pháp luật, chúng ta
xóa bỏ tƣ tƣởng coi thƣờng khen thƣởng và coi khen thƣởng là thứ quà để ban
phát, ban ơn cùng nhau hƣởng [8].
Bốn là: Thực hiện pháp luật trong thi đua, khen thưởng tạo động lực
phát huy sức mạnh của cộng đồng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong quá trình phát triển của lịch sử lồi ngƣời, vấn đề có tính quy
luật là xu hƣớng ngày càng tăng tính chất xã hội hóa mọi lĩnh vực của đời

17


×