I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN LP C
BảO ĐảM QUYềN
CủA NGƯờI Bị TạM GIữ THEO PHáP LUậT VIệT NAM:
Từ THựC TIễN HUYệN SóC SƠN, THàNH PHố Hà NộI
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2019
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN LP C
BảO ĐảM QUYềN
CủA NGƯờI Bị TạM GIữ THEO PHáP LUậT VIệT NAM:
Từ THựC TIễN HUYệN SóC SƠN, THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: 8380101.07
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS CHU HNG THANH
H NI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Lập Đức
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Chu Hồng Thanh, người hướng dẫn khoa học giúp tôi thực hiện
luận văn này. Sự hướng dẫn, góp ý tận tình đã giúp tôi định hướng, quyết
tâm và hoàn thành bản luận văn tốt hơn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo lớp Cao học
Luật về Quyền Con người khóa V đã giúp tôi lĩnh hội những kiến thức cơ bản
về lĩnh vực quan trọng này.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật Đại học Quốc gia đã tiên phong tổ
chức khóa học bổ ích và lý thú, các thầy cô giáo Khoa Luật, Phòng Đào tạo
và Bộ môn Luật Hiến pháp-Hành chính đã tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt
thời gian khóa học và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội, đã trao đổi thảo luận và cung cấp những thông tin tư
liệu hữu ích liên quan đến đề tài luận văn.
Cuối cùng, xin đặc biệt cảm ơn gia đình và những người bạn đã ủng hộ,
động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 09/2019
Nguyễn Lập Đức
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI
BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................ 7
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.1.4.
1.2.
Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền của ngƣời bị
tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam........................... 7
Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người ................. 7
Khái niệm người bị tạm giữ ............................................................... 12
Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo
pháp luật Việt Nam ............................................................................ 16
Các yếu tố đặc trưng của bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ ................................................................................................ 18
Nội dung bảo đảm quyền của ngƣời bị tạm giữ trong pháp
luật Việt Nam .................................................................................... 25
Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của ngƣời bị tạm giữ
trong tố tụng hình sự ........................................................................ 32
1.3.1. Các quyền của người bị tạm giữ theo tiêu chí quốc tế ....................... 32
1.3.2. Các bảo đảm về chính trị .................................................................... 36
1.3.3. Bảo đảm về pháp lí ............................................................................. 37
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 41
1.3.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI BỊ
TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .........................................42
2.1.
Tổng quan tình hình huyện Sóc Sơn có liên quan đến đề tài
nghiên cứu ......................................................................................... 42
Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị
tạm giữ theo pháp luật Việt Nam, Từ thực tiễn huyện Sóc
Sơn, thành phố Hà Nội..................................................................... 46
2.2.1. Hệ thống văn bản và các quy định pháp luật Việt Nam có liên
quan đến bảo đảm quyền của người bị tạm giữ ................................. 47
2.2.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc ............................................... 50
2.2.
Thực trạng bảo đảm quyền của ngƣời bị tạm giữ tại huyện
Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.............................................................. 57
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo quyền con người của
người bị tạm giữ, từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ..... 57
2.3.2. Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế trong việc đảm bảo quyền con
người của người bị tạm giữ, từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố
Hà Nội ................................................................................................. 60
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 62
2.3.
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...........63
Phƣơng hƣớng bảo đảm quyền của ngƣời bị tạm giữ theo
pháp luật Việt Nam, từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố
Hà Nội ................................................................................................ 63
3.1.1. Yêu cầu về cải cách tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người ............. 63
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật khả thi, công khai, minh bạch và
có sự kiểm soát của nhà nước để bảo đảm quyền của người bị
tạm giữ ................................................................................................ 65
3.1.
Giải pháp bảo đảm quyền của ngƣời bị tạm giữ theo pháp luật
Việt Nam, Từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội .............. 67
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
3.2.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Số liệu giải quyết án hình sự trên địa bàn huyện Sóc Sơn
43
Bảng 2.2
Bảng thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm
2014-2018
45
Bảng thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giữ từ
năm 2014-2018
46
Bảng 2.3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm lo đến con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động nhà
nước là những quan điểm cơ bản được thực hiện trong các văn bản của Đảng.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng có những quan điểm chỉ đạo
về cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, đặc biệt tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02-6-2005 “về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp
ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, trong việc đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
Huyện Sóc Sơn là một địa bàn phức tạp với nhiều loại tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng. Ước tính, hàng năm các cơ quan tố tụng huyện Sóc
Sơn khởi tố gần 300 vụ án hình sự, gần 500 bị can, hàng trăm người cần phải
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ hình sự. Người bị tạm giữ là nhóm
người yếu thế, dễ bị xâm hại quyền, mà chủ thể xâm hại lại là các cơ quan
tiến hành tố tụng. Bên cạnh nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm thì
quyền con người của những người bị tạm giữ cần được bảo đảm. Bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ chính là bước đầu bảo vệ công lý,
tránh an sai người vô tội, thể hiện tinh thần của nhà nước pháp quyền.
o
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền của
người bị tạm giữ theo pháp luật Việt Nam: Từ thực tiễn huyện Sóc Sơn,
thành phố Hà Nội” làm luận văn cao học luật là vấn đề mang tính cấp bách,
1
thiết thực không những về mặt lý luận mà cả thực tiễn đối với địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta vấn đề quyền con người và bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố
tụng nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các mức độ và góc độ khác
nhau. Đối với người bị buộc tội nói chung, người bị bắt trong tố tụng hình sự
nói riêng cũng có nhiều công trình đã đề cập nghiên cứu.
Ở phạm vi nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con
người nói chung trong tố tụng hình sự, cụ thể có nhiều công trình đã công bố
như: Sách “Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con người”, PGS TS
Chu Hồng Thanh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997. Sách:“Bảo
đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”, năm 2010, NXB Đại
học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Sách: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình
sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần Quang Tiệp (2004) [42],
“Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường [16]; sách chuyên khảo “Quyền lực Nhà
nước và quyền con người” của PGS.TS. Đinh Văn Mậu;
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có nhiều công trình về bảo vệ quyền
con người trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được công bố. Trong số
các công trình này có: Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia “Bảo
vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của GS.TSKH. Lê Văn
Cảm [9]; báo cáo “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo
về Quyền con người trong tố tụng hình sự (do viện kiểm sát ND tối cao và Uỷ
ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3/2010) của PGS.TS. Nguyễn Thái
2
Phúc; bài báo khoa học “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của PGS.TS Trần Văn Độ;
Các công trình trên các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng.
Bước đầu đã đặt nền móng cho việc đặt quyền con người lên hàng đầu. Tuy
nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào tiếp cận một cách trọn vẹn,
toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người của người
bị tạm giữ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn một địa bàn nghiên cứu, cụ
thể là tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề “Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội)” cần tiếp tục được
nghiên cứu, để có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ không chỉ trên địa bàn huyện Sóc Sơn,
mà còn có thể tham khảo áp dụng trên toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận
chung về bảo đảm quyền con người nói chung và thực tiễn áp dụng đối với
người bị tạm giữ trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội nói riêng.
Qua đó, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực
hiện của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ
trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, phân tích tổng quát các vấn đề lý luận về quyền con người, quyền
của người bị tạm giữ, bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ.
3
Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về bảo đảm quyền con người
đối với người bị tạm giữ và từ thực tiễn áp dụng pháp luật tại đại bàn
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để rút ra các vướng mắc, hạn chế của
pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp
luật liên quan.
Ba là, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền con người đối với người bị tạm giữ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến quyền con người, bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, những hạn chế, bất cập khó
khăn trong quy định của pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu, phân tích thực tiễn bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
huyện Sóc Sơn làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những
khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con
người đối với người bị tạm giữ.
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc bảo
đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong thời gian từ năm 2014 đến
năm 2018.
4
5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, cần sử dụng các phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như: phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy
nạp; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương diện
lý luận về bảo đảm quyền con người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn việc bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Qua đó,
tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc khi thực hiện.
Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hoàn thiện hệ
thống pháp luật tố tụng hình sự về việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân nhất là đối với người bị tạm giữ.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ sung
lợi ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu,
các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh
viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở nhận thức về bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ
theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ theo pháp luật Việt Nam, từ thực tiễn huyện Sóc Sơn.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền của ngƣời bị
tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
đều được hưởng chỉ đơn giản họ là con người. Do đó, các quyền con người
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bất cứ cá nhân, giai cấp tầng lớp, tổ chức cộng đồng hay nhà nước nào. Vì
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
vậy không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
quyền người bẩm sinh. Thừa nhận điều đó, Điều 1 Tuyên ngôn Quốc tế về
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em”. Văn
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) đã định
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nghĩa quyền con người như sau: “Quyền con người là những đảm bảo pháp lý
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
động ho c sự b m c mà làm t n hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tự do cơ bản của con người”. Như vậy, quyền con người chỉ chỉ hiện hữu trên
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
thực tế nếu nó được đảm bảo bằng pháp luật. Pháp luật đảm bảo quyền con
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
người cần thể hiện những thuộc tính cơ bản của quyền con người như:
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
- Tính phổ quát (universal): Tính phổ quát của quyền con người thể
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hiện ở chỗ quyền con người là bẩm sinh, vốn có của con người được áp dụng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bình đẳng cho tất cả con người trên trái đất, không có sự phân biệt đối xử vì
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bất cứ lý do gì, chẳng hạn về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi,
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
7
o
o
o
o
o
o
o
thành phần xuất thân. Điều đó cũng có ý nghĩa quyền con người cần được tôn
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
trọng, bảo vệ và thực thi ở các quốc gia, với các chế độ chính trị khác nhau,
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dù đơn đảng hay đa đảng, dù nhất nguyên hay đa nguyên là như nhau. (Ví
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dụ: Các quốc gia trên thế giới đều phải thực thi nghiêm túc quyền không bị
o
o
o
o
o
o
o
o
o
oo
o
o
o
o
o
tra tấn). Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ quyền,
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
viên của nhân loại để được công nhận có quyền con người, song mức độ
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hưởng thụ quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa... mà người đó đang sinh sống [23].
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
- Tính không thể bị tước bỏ (inalienable): Tính không thể tước bỏ của
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người người không thể tùy tiện bị
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
quan và quan chức nhà nước. Khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
đề [23]. Trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước,
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
chỉ có những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người, chẳng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hạn như khi một người phạm tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật (bị
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tạm giữ, tạm giam, bị giam thi hành án). Ở trường hợp khác không quy định
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
trước như trong trường hợp khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc gia
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
và đã chính thức công bố, nhà nước có thể áp dụng những biện pháp hạn chế
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
các quyền con người như ban bố tình trạng khẩn cấp, thiết quân luật (hạn chế
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
quyền tự do đi lại, quyền biểu tình). Tuy nhiên các biện pháp này phải mang
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tính chất ngoại lệ và tạm thời.
o
o
o
o
o
o
o
- Tính không thể phân chia (indivisible): Trong suốt thời kỳ chiến
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tranh lạnh, các quyền dân sự - chính trị luôn được các nước phương Tây đề
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
cao và coi trọng trong khi khối các nước xã hội chủ nghĩa, các quyền Kinh tế
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
- văn hóa- xã hội lại được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Tính không thể phân chia
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
8
o
o
o
o
o
o
của quyền con người thể hiện ở chỗ các quyền con người có tầm quan trọng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào có giá trị cao hơn quyền
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào để tác động tiêu
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người [44]. Tuy nhiên,
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống nhau trong mọi hoàn cảnh.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Trong từng bối cảnh cụ thể, cần ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định dựa
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
trên yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó. Ví dụ, trong hoàn cảnh
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
thiên tai lũ lụt, quyền được ưu tiên là quyền cung cấp lương thực, thực phẩm.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tính liên hệ và
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bảo đảm các quyền khác [23].
o
o
o
o
o
o
Theo lĩnh vực của đời sống thì quyền con người được phân thành hai
nhóm chính:
- Nhóm các quyền d n sự, chính trị: Bao gồm các quyền và tự do cá
nhân, tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do đi lại, quyền hội họp, quyền tự
do tôn giáp tự do tôn giáo, quyền được xét xử công bằng.
- Nhóm các quyền về kinh tế, ã hội và văn hóa: Nhóm các quyền
này hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công
bằng cho mọi công dân trong xã hội. Các quyền này bao gồm: quyền được
hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục, quyền lao động, quyền học
tập, các quyền về văn hoá, sáng tạo và hưởng thụ các thành tựu của khoa
học kỹ thuật …
9
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm quyền con
người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là:
Nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nhà nước phải kiềm chế không can thiệp không được tùy tiện tước bỏ, hạn
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
con người [55]. Đây được goi là nghĩa vụ thụ động bởi lẽ nó không đòi hỏi
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nhà nước phải chủ động đưa ra các biện pháp hay sự hỗ trợ để các công dân
o
o
o
o
o
o
có thể hưởng thụ quyền.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
oo
Nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba [24].
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
quyền của bên thứ ba, nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm như xây
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dựng pháp luật, tổ chức các cơ quan hành pháp, tư pháp.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): Nghĩa vụ này đòi hỏi các
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hiện các quyền con người. Đây cũng là nghĩa vụ chủ động, yêu cầu nhà
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm mọi công
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dân có thể hưởng thụ đến mức cao nhất các quyền con người như dây
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dựng chương trình phổ cập giáo dục, chương trình y tế, chương trình phát
o
triển kinh tế. Nghĩa vụ này liên quan mật thiết các quyền kinh tế xã hội,
o
văn hóa. Nhưng cũng có liên quan đến các quyền dân sự, chính trị như tổ
o
chức các điểm bầu cử để thực hiện quyền bầu cử, xây dựng các nhà tạm
o
giữ, trại tạm giam, trại giam để đảm bảo việc không ngược đãi, tra tấn
o
người bị tạm giữ, tạm giam, tù nhân.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Để thực hiện các nghĩa vụ về nhân quyền, pháp luật là một công cụ
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hữu hiệu và chủ yếu của nhà nước. Là một phạm trù đa diện, xong quyền con
o
o
o
o
o
o
o
o
o
10
o
o
o
o
o
o
người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
cho dù quyền con người là bẩm sinh, vốn có song việc thực hiện các quyền
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
vẫn cần có nhà nước và pháp luật. Chỉ khi được ghi nhận bằng pháp luật, các
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nghĩa vụ của nhà nước sẽ trở thành quy tắc xử sự chung và được bảo đảm
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
bằng cưỡng chế thi hành.
o
o
o
o
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cùng với quyền, tự do
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
biệt không thể thay thế trong việc bảo vệ các quyền con người.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Thông qua việc được pháp
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
luật ghi nhận, quyền con người sẽ được tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy. Quyền
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
con người được pháp luật xác lập sẽ không thể bị tước bỏ, hạn chế một cách
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
tuỳ tiện vì được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
chế của Nhà nước. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
người, đều phải được xử lý nghiêm minh. Đồng thời, việc ghi nhận quyền con
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
người trong pháp luật (đặc biệt trong Hiến pháp) cũng là cơ sở để xây dựng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hệ thống hành pháp, tư pháp xoay quanh hạt nhân bảo vệ quyền con người.
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
Bảo đảm quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
nhiều điều kiện khác nhau trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
việc bảo vệ quyền con người thì ngoài việc pháp điển hóa, đưa những nội
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
dung bảo vệ quyền con người vào hệ thống pháp luất thì yếu tố rất quan trọng
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
là phải có và phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện
o
o
o
o o
o
o
o
o
o
o
o
11
o
o
o
o
o
o
trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý cho thực hiện quyền con người. Nói
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính là đảm bảo thực
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
hiện quyền con người bằng pháp luật.
o
o
o
o
o
o
o
Như vậy, có thể hiểu bảo đảm quyền con người chính là việc nhà nước,
ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thông qua pháp luật.
1.1.2. Khái niệm người bị tạm giữ
Trong Tố tụng hình sự Việt Nam, người bị tạm giữ là người tham gia tố
tụng có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 đưa ra khái niệm về người bị tạm giữ như sau: “Người bị
tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, bị bắt
theo quyết định truy nã ho c người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã
có quyết định tạm giữ”.
Trong khi đó, Luật thi hành tạm giữ tạm giam đã cụ thể hóa: “Người bị
tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ,
gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Như vậy để trở thành người bị tạm giữ cần có đủ hai điều kiện:
+ Điều kiện về nội dung: Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
người mà bị người khác có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó bỏ trốn; người mà thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc
nơi ở nên cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
người bị phát hiện đang thực hiện tội phạm; người có lệnh truy nã hoặc người
tự thú, đầu thú sau khi thực hiện tội phạm.
+ Điều kiện về hình thức:
Thứ nhất, đối với họ phải có quyết định tạm giữ do người có thẩm
quyền ban hành. Theo quy định của Điều 117 và Điều 110 Bộ luật tố tụng
12
hình sự năm 2015 thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp,
người chỉ huy Quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi
tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng hoặc Chỉ huy trưởng vùng
Cảnh sát biển là những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Thứ hai, họ phải đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
Từ những phân tích ở trên, theo quan điểm của tôi có thể đưa ra khái
niệm khoa học về người bị tạm giữ như sau: Người bị tạm giữ là người đối
với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền tố tụng; và đang bị
quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự, chúng ta sẽ thấy có những đối
tượng sẽ bị áp dụng quyết định tạm giữ như sau:
Thứ nhất, là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp:
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định những trường hợp giữ khẩn
cấp như sau:
Trƣờng hợp khẩn cấp thứ nhất: Có đủ căn cứ để xác định người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo
dõi hoặc kiểm tra xác minh các nguồn tin biết người đó (một người hoặc
nhiều người) đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trước khi tội phạm
được thực hiện. Việc giữ người này cần phải đảm bảo hai điều kiện: Một là,
có đủ căn cứ xác định một người đang sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc
chuẩn bị các điều kiện phạm tội. Hai là, loại tội phạm đang chuẩn bị được
13
thực hiện là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy
là từ trên 07 năm đến 15 năm tù hoặc là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình.
Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người cùng thực hiện tội phạm hoặc
bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác
nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó bỏ trốn. Việc giữ người trong trường hợp này cần phải đảm bảo
hai điều kiện: Một là, phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm, đó có
thể là người cùng thực hiện tội phạm, nhân chứng hoặc bị hại. Hai là, xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người
hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ... Việc
giữ người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau: Một là, khi
thấy dấu vết tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc tại nơi làm việc của người
bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội. Hai là, cần ngăn chặn ngay việc
người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Thứ hai, là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định những trường hợp phạm tội quả tang
như sau:
Trƣờng hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trường hợp tội phạm diễn ra ở giai đoạn chưa đạt, tức là đã thực hiện
một phần hoặc toàn bộ hành vi quy định trong mặt khách quan của tội phạm
thì bị phát hiện.
14
Trƣờng hợp hợp thứ hai: Người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì
bị phát hiện. Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ hành vi
quy định trong mặt khách quan của tội phạm thì bị người khác phát hiện.
Người bị phạm tội có thể bị bắt ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội chưa
kịp chạy trốn. Hoặc cũng có thể, ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội,
người đó chạy trốn và bị bắt giữ, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy
trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội, tránh bắt nhầm người
không thực hiện tội phạm. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về mặt thời gian so
với hành vi chạy trốn thì không được xem là bắt quả tang mà có thể bắt theo
trường hợp khẩn cấp.
Thứ ba, là người bị bắt theo quyết định bị truy nã
Những người phải ra lệnh (quyết định) truy nã gồm: Bị can, bị cáo bỏ
trốn hoặc không biết đang ở đâu và phạm nhân trốn trại. Những đối tượng này
đều có đặc điểm chung là là người đã thực hiện hành vi phạm tội và bất kỳ ai
đều có quyền bắt.
Thứ tư, là người phạm tội tự thú, đầu thú
Tự thú là việc một người sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng
hành vi đó vẫn chưa bị phát hiện, hoặc người thực hiện hành vi đó vẫn chưa
bị phát hiện. người đó đã tự ra trước cơ quan chức năng trình diện và khai
nhận về hành vi phạm tội của mình. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị
phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền
về hành vi phạm tội của mình. Tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm,
nhân thân của người phạm tội thì người phạm tội tự thú, đầu thú có thể bị tạm
giữ nhưng cũng có thể không cần thiết phải tạm giữ.
Ngoài những điều kiện cần là cơ sở, căn cứ ra quyết định tạm giữ như
trên, một người sẽ bị coi là người bị tạm giữ còn cần điều kiện đủ về hình
thức, đó là:
15
Thứ nhất là, đối với họ phải có quyết định tạm giữ
Bên cạnh điều kiện cần là một người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
người phạm tội tự thú, đầu thú thì điều kiện đủ để họ trở thành người bị tạm
giữ là đối với họ phải có quyết định tạm giữ. Nếu một người bị bắt, giữ trong
các trường hợp nêu trên hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú mà không có
quyết định tạm giữ thì cũng không phải là người bị tạm giữ. Do đó điều kiện
đủ này điều kiện quan trọng và quyết định một người có phải là người bị tạm
giữ hay không trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Khi họ đã có quyết
định tạm giữ và tham gia vào quá trình tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ có
quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là, họ phải bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
Sau khi có quyết định tạm giữ, thì người bị tạm giữ cần phải được tạm giữ
tại cơ sở tạm giữ trong thời hạn nhất định theo đúng quy định pháp luật. Đây là
điều kiện quan trọng để bảo đảm quyền của người bị tạm giữ được bảo vệ.
Trên đây chúng ta đã xác định được khái niệm và đặc điểm của người
bị tạm giữ, sau đây chúng ta cần phải xác định khái niệm quyền con người
của người bị tạm giữ. Đây là nội dung quan trọng, từ đó có thể xác định được
nội dung bảo đảm quyền của người bị tạm giữ trong pháp luật là như thế nào.
1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo
pháp luật Việt Nam
Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận và
xây dựng cơ chế thực hiện quyền con người vào trong pháp luật mỗi quốc
gia. Quyền con người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật
và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật. Do đó, bảo đảm quyền con
người là sự pháp lý hóa địa vị của con người trong xã hội. Bảo đảm quyền
16
con người của người bị buộc tội là đảm bảo cho những người đó khi rơi
vào tình trạng bị buộc tội có thể bảo vệ mình và thực hiện quyền của mình
theo quy định.
Tuy nhiên, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ là không
chỉ là việc ghi nhận các quyền con người của họ trong pháp luật mà còn là sự
đảm bảo thực thi trong hoạt động tạm giữ trong tố tụng hình sự. Thực hiện tốt
việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động tạm giữ là đóng góp có hiệu
quả cho việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo đảm
quyền con người nói chung.
Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tạm giữ là nhiệm vụ của
Nhà nước. Ngoài các quy phạm pháp luật về quyền con người, thì cần phải có
những bảo đảm ràng buộc pháp lý của Nhà nước. Nhà nước trong điều kiện
kinh tế - xã hội, pháp lý của mình cần có cơ chế phù hợp để ghi nhận và bảo
đảm thực thi quyền con người
Để bảo đảm quyền con người trong hoạt động tạm giữ bên cạnh việc
củng cố và tăng cường các bảo đảm quyền con người nói chung, còn phải bảo
đảm các yếu tố mang tính đặc trưng riêng như:
- Trên cơ sở các tiêu chí quốc tế cần xây dựng được hệ thống hệ thống
pháp luật phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam;
- Song song với việc quy định trong pháp luật thì một điều quan trọng
nữa là phải có hệ thống thực thi hiệu qủa các quyền con người được quy định
trong hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tạm giữ;
- Đảm bảo cơ chế giám sát bảo đảm quyền con người trong hoạt động
tạm giữ.
Tóm lại, khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ có
thể được hiểu: “Là việc ghi nhận quyền con người của người bị tạm giữ đồng
thời xây dựng cơ chế, hệ thống thực thi và giám sát có hiệu quả để quyền con
người của người bị tạm giữ được bảo đảm trên thực tế".
17
1.1.4. Các yếu tố đặc trưng của bảo đảm quyền con người của người
bị tạm giữ
- Yếu tố hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự và thi hành tạm giữ
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban
hành để điều chỉnh quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo phạm
vi hẹp, pháp luật bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và thi hành
tạm giữ bao gồm những quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật
thi hành tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người, bao gồm các nội
dung cơ bản sau đây:
+ Quy định về tội phạm và biện pháp ngăn chặn với việc bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tạm giữ.
+ Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con
người trong hoạt động tạm giữ.
+ Quyền của người bị tạm giữ.
+ Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người có thẩm quyền tạm
giữ, cơ sở tạm giữ.
+ Quy định chi tiết điều kiện, tổ chức tạm giữ.
Nếu như Luật hình sự quy định về tội phạm, hình phạt, Luật tố tụng
hình sự quy định về trình tự xác định tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt,
mức hình phạt, thi hành hình phạt, thì Luật thi hành tạm giữ quy định nguyên
tắc, trình tự, thủ tục thi hành tạm giữ, tạm giam.. Nghiên cứu những nội dung
cơ bản thể hiện rõ nét nhất việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn bị
tạm giữ đòi hỏi phải tìm hiểu luật hình sự, luật tố tụng hình sự và Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam. Theo quy định tại điều 1 Bộ luật hình sự năm 2015,
18