Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.51 KB, 12 trang )

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về mặt vốn, lao
động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại căn cứ vào quy
mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo
tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số
lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới
50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có
tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước mình. Ở Việt Nam, không
phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng
hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là doanh nghiệp
nhỏ và vừa (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ,
và đâu là vừa).
2.1.1.2. Tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ
những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như
sau:
- Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường
chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp. Theo thống kê năm
2004 (sau 3 năm thực hiện Nghị định 90/2001/NĐ-CP) cả nước có 130.000 doanh
nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh, chiếm 97% tổng số doanh nghiệp. Trong đó,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp chiếm 17%; xây dựng 14%; nông nghiệp 14%; dịch vụ chiếm 55%. Hàng
năm, đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đóng góp 26% GDP, nộp ngân sách Nhà
nước 14%, tạo ra giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 31%, kim ngạch xuất khẩu
chiếm 12%, tạo công ăn việc làm cho 25% lực lượng lao động trong cả nước,… Như
vậy có thể thấy tầm quan trọng và những đóng góp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Một nền kinh tế thị trường hiện đại bao gồm hàng nghìn thị trường với các sản phẩm


khác nhau, các thị trường này yêu cầu hàng triệu doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng và
hoạt động hiệu quả. Vậy là, một nền kinh tế hiện đại bao gồm nhiều hoạt động kinh tế
đồng nghĩa với việc có càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa có sức cạnh tranh mạnh
càng tốt. Vấn đề quan trọng để phát triển nền kinh tế là làm thế nào để hỗ trợ họ phát
triển, thuyết phục họ đầu tư, thuê thêm nhân công và hơn nữa là đóng thuế cho ngân
sách Nhà nuớc.
- Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ
và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu
phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, doanh nghiệp
nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
- Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được các doanh nghiệp lớn
dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Có thể nói, một đất nước sản xuất
công nghiệp có được xem là phát triển bền vững hay không thì phải xem xét đến ngành
công nghiệp phụ trợ của quốc gia đó.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở
những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp
các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và
tạo công ăn việc làm ở địa phương. Điều này không những có ý nghĩa về mặt kinh tế
mà còn có ý nghĩa về mặt an ninh quốc phòng đặc biệt ở vùng gần biên giới.
- Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ không chỉ là tính kinh tế mà cả tính chính trị.
Nếu một quốc gia có ít các doanh nghiệp nhỏ thì các chính sách của các quốc gia này sẽ
hướng vào lợi ích của các doanh nghiệp lớn và duy trì ít các doanh nghiệp nhỏ, điều này
cản trở năng suất lao động của quốc gia đó. Trái lại tại các quốc gia có nhiều doanh
nghiệp quy mô nhỏ thì số lượng sẽ luôn duy trì ở mức cao.
2.1.1.3. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thành phố Cần Thơ
Bảng 1: SỐ LƯỢNG DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ THỐNG KÊ
TẠI THỜI ĐIỂM 31/12 PHÂN THEO QUY MÔ LAO ĐỘNG
Đvt: Lao động
Năm Tổng

Dưới
5 lđ
Từ 5
-9 lđ
Từ 10
-49 lđ
Từ 50
-199 lđ
Từ 200
-299 lđ
Từ 300
-499 lđ
Từ 500
-999 lđ
Từ 1000
-4999 lđ
Trên
5000

200
3
1.002 190 338 345 84 12 16 9 8 0
200
4
1.297 297 421 418 102 18 13 11 7 0
200
5
1.662 327 663 512 107 22 11 11 9 0
200
6

1792 349 685 558 129 25 19 15 12 0
200
7
1971 384 690 621 145 50 40 20 19 2
(Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Cần Thơ)
Bảng 2: SỐ LƯỢNG DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ THỐNG KÊ
TẠI THỜI ĐIỂM 31/12 PHÂN THEO QUY MÔ NGUỒN VỐN
Đvt: Tỷ đồng
Năm Tổng
Dưới
0,5 tỷ
Trên
0,5 -1
tỷ
Trên 1
– 5 tỷ
Trên 5 –
10 tỷ
Trên 10
-50 tỷ
Trên 50
-200 tỷ
Trên 200
-500 tỷ
Trên
500 tỷ
2003 1.002 301 214 305 62 80 31 9 0
2004 1.297 445 259 382 79 88 34 8 2
2005 1.662 523 353 506 113 103 46 15 3
2006 1792 540 361 532 140 136 58 20 5

2007 1971 560 452 554 162 146 65 25 7
(Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Cần Thơ)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số lượng DN N&V tại Thành phố Cần Thơ luôn tăng
nhanh qua từng năm kể cả phân theo quy mô lao động hay quy mô nguồn vốn. Đây là
một điều thuận lợi cho Ngân hàng trong việc trong việc phất triển tín dụng đối với loại
hình kinh tế này. Hơn nữa nó còn thể hiện trực tiếp sự phát triển đi lên của Thành phố
Cần Thơ trên con đường hội nhập.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn của loại hình doanh nghiệp này
2.1.2.1. Thuận lợi
Khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh, không ít doanh nghiệp nhỏ băn khoăn: nếu
mình chỉ là một doanh nghiệp nhỏ, làm sao mình có thể cạnh tranh được với những đối
thủ lớn. Nhưng sự thật là doanh nghiệp nhỏ có rất nhiều lợi thế so với các doanh nghiệp
lớn như sự linh hoạt, khả năng phản ứng nhanh nhạy với thị trường và khả năng cung
cấp các dịch vụ mang tính cá nhân
- Vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh hoạt động. Điều
này giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng mở rộng quy mô hoạt động giúp doanh
nghiệp có thể tận dụng cơ hội nhanh chóng để gia tăng lợi nhuận khi thị trường chuyển
biến tích cực. Ngược lại, khi thị trường chuyển biến tiêu cực thì doanh nghiệp nhỏ và
vừa có thể dễ dàng thu hẹp quy mô hoạt động, giúp nhanh chóng cắt giảm chi phí, giảm
bớt rủi ro thua lỗ. Hơn nữa, trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng
hiện nay thì với vốn đầu tư ban đầu không cao nên doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể
nhanh chóng tiếp cận với khoa học kỹ thuật hơn là các doanh nghiệp cồng kềnh, hoạt
động lâu năm. Điều này giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có được sự linh hoạt, khả năng
phản ứng nhanh nhạy với thị trường hơn là các doanh nghiệp lớn.
- Đối với các doanh nghiệp nhỏ, cách tốt nhất để tồn tại và phát triển là nên tìm
một chỗ đứng thích hợp cho mình vì doanh nghiệp chỉ có một nguồn lực nhất định để
thoả mãn ngách thị trường nhỏ bé đó. Đây thường là lỗ hỗng thị trường của các doanh
nghiệp lớn, vì là doanh nghiệp lớn nên họ chỉ tập trung vào phân khúc thị trường với số
đông người tiêu dùng. Hơn nữa, tập trung tất cả những gì mình có vào những gì mình
có khả năng nhất và trở thành chuyên gia về lĩnh vực đó, sự tập trung vào một ngách thị

trường hẹp giúp bạn có thể tránh được sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn. Thực
tế trên thế giới đã chứng minh, không ít các doanh nghiệp nhỏ mới thành lập nhưng đã
biết tập trung phát triển những sản phẩm riêng biệt mang tính cá nhân thì vẫn tồn tại và
phát triển rất thành công.
2.1.2.2.Khó khăn
- Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Nước ta có quy mô sản xuất nhỏ, manh
mún, vốn ít, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất lạc hậu. Trình độ quản lý,
quản trị doanh nghiệp còn yếu. Việc phân tích, đưa ra các chiến lược sản xuất kinh
doanh còn mang tính thời vụ, bóc ngắn cắn dài, thiếu một chiến lược "dài hơi".
- Trình độ tay nghề người lao động thấp dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm
còn hạn chế. Trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và
vừa chưa thực sự chú trọng đến việc nắm bắt cơ hội, khai thác thông tin về thị trường
vốn, lao động thị trường nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất
khẩu.
- Mặt khác có thể nói sự thiếu nhanh nhạy, yếu kém về tiếp cận thị trường, cải tiến
mẫu mã sản phẩm... đang bộc lộ ở hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta. Do
đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển sản xuất những gì
thị trường cần mà chủ yếu sản xuất, kinh doanh và bán những gì mình có. Đặc biệt, mặc
dù doanh nghiệp nhỏ và vừa có sự phát triển nhanh về số lượng nhưng việc liên kết,
hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp còn rất hạn chế nên các doanh nghiệp nhỏ và
vừa Việt Nam phần lớn không có khả năng tham gia sản xuất, kinh doanh ở những
ngành nghề, lĩnh vực đòi hỏi có nguồn vốn lớn và công nghệ cao.
- Một hạn chế nữa đang là điểm yếu đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta
là trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp chưa cao... Điều
này rất nguy hiểm khi Nước ta đang đẩy mạnh quá trình hội nhập, hàng loạt công ước
quốc tế được ký kết, nếu không nắm vững luật pháp nước ta nói riêng và luật pháp quốc
tế nói chung, thì các doanh nghiệp rất dễ bị thua thiệt.
- Ngoài những hạn chế trên, có một hạn chế mà nguyên nhân không phải từ bản
thân doanh nghiệp, đó là hạn chế về tiếp cận các nguồn tín dụng. Có một thực tế là
nhiều nguồn vốn Ngân hàng hiện nay đang trong tình trạng vốn chờ dự án, trong khi đó

các doanh nghiệp luôn kêu thiếu vốn. Vậy vì sao lại có tình trạng đó ? Thực tế hiện nay
đang tồn tại tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp Nhà nước trong tâm lý mỗi người dẫn đến việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa
gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ngân hàng. Hiện tại các doanh nghiệp
Nhà nước có thể vay vốn Ngân hàng mà không phải thế chấp nhưng ngược lại doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, muốn vay vốn Ngân hàng thì buộc phải có tài sản thế chấp.
Hoặc tình trạng "buông rơi doanh nghiệp ngoài quốc doanh" như trong khi về khung
pháp lý, các cơ chế, chính sách quy định khá chi tiết về chính sách tín dụng dành cho
các doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã... nhưng riêng đối tượng doanh nghiệp ngoài
quốc doanh thì vẫn bị bỏ ngỏ. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất khó có thể được

×