Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

van khan gia tien mung 1 va ngay ram hang thang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.51 KB, 74 trang )

NGHI THỨC TỤNG KINH
(Thắp 3 cây hương quì ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn
bài cúng hương)
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lịng thành kính
Gởi theo đám mây hướng
Phương-phất khắp mười phương
Cúng-dường ngôi Tam-bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng-sanh
Cầu Phát-từ gia-hộ


Tàm Bồ-de kiên-có
Xa bể khổ vịng mê
Chóng quay về bờ giác
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
KỲ NGUYỆN
Nay chính là ngày chư tăng kiết-hạ, đem đức lành chú-nguyện
chúng- sanh, chúng con một dạ chí-thành, cúng-dường trì-tụng,
đem cơng-đức này, nguyện khắp mười phương ba ngơi Tam-bảo ,
đức Thích-ca Mầu-ni Phật, đức Tiếp-Dẫn Đạo-sư A Di-Đà Phật, cùng
các vị Bồ-tát, tịnh-đức chúng tăng, từ-bi gia-hộ cho cửu huyền thất
tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ-tử, cùng tất cả chúng-sanh sớm rõ
đường lành, thốt vịng mê muội, ra khỏi u-đồ, siêu sanh lạc-quốc.


Ngưỡng mong oai-đức vơ cùng xót thương tiếp độ. Nam-mơ Thậpphương thường trú Tam-bảo.
(3 lần, rồi đứng dậy cắm hương và đọc bài kệ tán thán Phật)
TÁN THÁN PHẬT


Đáng Pháp-vương Vô-thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn lồi
Qui-y trịn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán-thán
Ức kiếp không cùng tận


QUÁN TƯỞNG
Phật,chúng-sanh tánh thường rộng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế-châu ví đạo-tràng
Mười phương Phật bảo hào- quang sáng ngời
Trước bảo-tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thề nguyện qui-y.


ĐẢNH LỄ
(Xá 3 xá rồi hướng lậy)
Chi tâm đảnh lễ: Nam-mô tận hư không, biến pháp giới, qúa, hiện,
vị- Tại Thập-phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường
trú Tam-bào.(1 lạy)
chí Tâm đảnh lễ: Nam-mơ Ta-bà Giáo. Chủ Điều – Ngự Bổn – Sư
thích Ca Mâu Ni Phật , Dương lai hạ sanh Di-Lặc Tơn – phật, Đại Trí
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát ,Oai-hạnh Phô-Hiền Bồ-tát, Linh-Son HộiThượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam-mơ Tây phương Cực-lạc thế-giới đại từ đạibi A-Di-đà Phật, đại-bi Quán-Thế-âm Bồ-tát, Đại- Thế-Chí Bồ-tát,
Đại-nguyện Địa-Tạng- Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Đại-Hài Chúng Bồtát. (1 lay)
(đứng hay ngồi tụng tùy ý )



TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông kháp-giới đạo-tràng Pháp, Hien-Thánh-Tăng, thưởng trú
phật, mười phương
Hiện thành mây báu kiết-tường
Các Phật rõ biết ngọn hương chi thành.
Pháp-thân toàn thể hiện-tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho
Nam-mô hương-vân-cái - Bồ-tát (3 lần)
CHÚ ĐẠI BỊ
Nam-Mô đai-Bi Hội Thượng Phật Bồ-Tát
Thiên-thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.


Nam mô hắc ra đát na da ra dạ da.
Nam-mô a di da, bà lô kiết đế thước bác rada, Bo-dè tát đỏa bà da,
ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da,án tát bàn ra phạt đuệ số
dát na dát tỏa. Nam-mô tất kiết lật dỏa y mịng a ri da, bà lơ kiết dế
thắt Phật ra lăng dà bà Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn da sa
mế, tát bà a tha dâu thâu bằng, a the dung, tát bà tát da, na ma bà
dà ma phạt dạt dậu, đất diệt tha. Ấn a bà lồ hê, lô ca dế, ca ra đế, di
hè ri, ma ha bò-dè tát dỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê,
rị dà dựng, cu lô cu iô yết mông, dộ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da dế, dà ra dà ra dịa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Ma
ma phạt ma ra, mục de lệ, y hè di hè, thất na thất na, a ra sâm Phật
ra xã- lợi, phạt sa phạt sâm, Phât ra xá đa hỏ lỗ hô lô ma ra, hỗ lộ hô
lô hệ ri, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tỏ rơ tơ ró, bỏ dể da bò đề dạ bò dà
da, bò dà da, di de



rị dạ, na ra cản trì dịa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta
bà ha. Ma ha tất dà dạ ta bà ha. Tất dà dủ nghệ thước bàng ra da, ta
bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục
khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất dà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất
dà dạ, ta bà ha. Ba dà ma yết tất dà dạ, ta bà ha. na da cẩn chì bàng
già ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra da, ta bà ha. Nam mô hắc
ra dát na, da ra dạ da. Nam mỏ a rị da bà lô kiết dế, thước bàng ra
da, ta bà ha, Ấn tất diện đô mạn da ra bat dà dạ, ta bà ha. Mammo
Bón - Sư Thích - CaMâu- Ni Phật.
(3 lần)


KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bát thiên vạn kiếp nan tạo
ngộ,
Ngà kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như-Lai chân thật
Nghìa.
PHẬT NĨI KINH NHẤT-THẾ NHƯ-LAI KIM-CANG THỌMẠNG ĐÀ-LA-NI
(Nước Nam-Thiên-Trúc, Ngài Tam-Tạng Kim Cang-Trí
cùng Ngài Sa-Mơn Tri-Tạng vâng chiếu dịch)
Ta nghe như vầy:
Một thuở Phật ở bên sông Căn già, vô-lượng đại chúng trời
người đến hỏi.


Lúc bấy giờ, Đức Thế-Tôn bảo bốn vị Thiên Vương hàng Tỳsa-mơn rằng: Có bốn pháp, rát đáng ghê sợ, dù nam, dù nữ,
đồng nam, đồng nữ, tất cả hữu tình khơng ai tránh khỏi. Bốn
pháp ấy là : Sanh, già, bệnh, chết. Trong đó một pháp rất tức

tối đau khổ, khó bề đối trị, gọi là sợ chết.
Vì vậy ta thường nói pháp đối trị. Khi ấy, bốn vị Thiên-Vương
bạch Phật rằng:
"Kinh thưa đức Thế-Tôn, Chúng con ngày nay, mong được lợi
lớn, xin Đức Thế-Tơn, vì tất cả chúng sanh tun nói pháp
ấy".
Bấy giờ, Đức Thế-Tơn quay mặt hướng Đơng, Ngài búng
ngón tay, triệu-tập tất cả các đức Như-Lai nói lời thệ rằng:
"Khấp cả mười phương, các đấng Như-Lai, thành ChánhĐẳng-Giác, vì độ chúng sanh, chứng đạo Bồ-đề thảy đều giúp


ta, đem sức oai thần tất cả Nhu Lai, khiến cho tất cả chúngsanh, đổi nghiệp phi-mạng, tăng thêm thọ mạng.
Từ trước, ta chưa vì chúng sanh, chuyển pháp luân này, đến
nay mới
chuyển có thể khiến cho sắc-lực và tho mạng của chúngsanh, đều được thành-tựu khỏi sợ chết yểu".
Lại hướng qua các phương Tây, Nam, Bắc bốn góc (2) trên
dưới đức thế Tôn, cũng đều triệu tập, kỉnh cáo như thế.
" Lúc ấy bao nhiêu thế giới mười phương, tột chỗ mắt Phật
thấu tới, họp, đầy cả hu không, như số vi-trần.
Bấy giờ, tất cả các Phật, vì cớ gia trì, khác miệng đồng lời
đều nói Đà- ra – ni: "Nhất-Thế Kim-Cang Tho-Mạng" rằng:
"Dát nẻ giả tha, giả lê, giả là, giả lê vỉ nồ chi tát phạ, tát để
khể chiết ngật lång nghiệt nẩm, bát ra, xá mản đô, tát phạ lộ,


nga tát phạ, tát đát phạ, nảm a nô lai, cu nô lai, ma ha no jai,
giả mê giả mê, hệ mạ nghiếu rí, hệ mạ sản ni hệ mạ thi khí,
kiểu ra ví, kiêu ra thoan, hệ cu ra vi, cu ra lê, cu mạ dẻ, vi xá
mạ ní ma ní, thú thú tỳ, phạ a giả lê, di giả lé, ma vi làm ma,
hộ mộ, hộ mộ, án phạ rạ, tát phạ hạ". " Bấy giờ, tất cả các vị

Chấp-kim- cang Bò tát, ở chỗ các Phật mười phương, cùng
khác miệng đồng lời, đều nói Đà-Ra-Ni Diện thọ rằng:
" Hồng hồng thi khí tát phạ hạ".
Như vậy, tất cả các Đức Như-Lai và các vị Chấp-Kim-Cang
Bồ-Tát trong mười phương đều nói, Đà-Ra-Ni này rồi thì
khơng thị hiện ra nữa.
Lúc đó, Vị Tỳ-Sa-Mơn Thiện Vương bảo với Phật rằng :
nương thần lực của Phật, để gia trì hộ niệm, trừ nghiệp-phi
mạng cho tất cả chúng sanh, con xin nói Đà-Ra-Ni rằng:
"Thỉ-vỉ đế, thỉ vỉ, đát ly, lật ly".


Lúc đó, Vị Ty-Lâu Lặc-xoa Thiên Vương cùng bạch Phật rằng
: nương thần lực của Phật, để trừ nghiệp Phi- mạng cho
nhiều chúng-sanh, con xin nói Đà-Ra-Ni rằng:
"Ma đắng nghể, ma đắng nghê ni. du ma du mưu".
Lúc dó vị Đề-Đầu Lại Cha Thiên- Vương cũng bạch Phật
rằng: cũng để trừ nghiệp Sợ Chết cho các chúng sanh, con
xin nói Đà-Ra-Ni rằng: "Giả rể giả rể, giả ra rí".
Lúc đó Vị Tỳ-Lâu Bát-xoa Thiên Vương cũng bạch Phật rằng:
nương thần-lực của Phật, để trừ nghiệp Phi- mạng cho tất cả
chúng-sanh, nói Đà-Ra-Ni rằng:
"Mat lam. pha pha pha pha".
Phật bảo bốn vị Thiên-Vương rằng: "Nếu ai đọc tụng kinh
này ngày thọ - trì, dù cho một biến phải nên cung kính các trai
lành gái lành ấy, nên tưởng như Phật, sau không doa ba
đường dữ, quyết được tăng thêm thọ mạng.


Nếu người nào thường, ngày vì tất cả chúng sanh ln

chuyển tụng kinh này, thi sau khơng cịn sợ mộng thấy điềm
dữ. u tinh nguyền rủa, và hình bóng hung ác. la sát qủy
thần, cùng không bị tai nạn: nước, lửa và độc họa binh đao.
Sẽ được tất cả các phật, Bồ tát, nhiếp thọ hộ niệm, xứ sở đó
cùng được chư Phật hộ -trì".
Khi Đức Thế-Tơsn nói kinh này xong, các vị Tỷ Sa Môn ThiênVương cùng tất cả đại chúng đều rất vui mừng, tin chịu vâng
làm.
Phật nói kinh "Như-Lai Kim-Cang Thọ-Mạng Đà Ra-Ni".


TÁN
Kim-Cang Thọ-Mạng,
lời Phật thân tuyên
Đà-Ra-Môn tỏ nghĩa u huyền.
Tụng chú đức Kim tiên
Pháp lực vô biên.
Tuổi thọ được tăng diên.
Nam-mô tăng thọ toán Bồ-tát ma ha tát (3 lần)
TÁN
Phật từ rộng lớn,
Cảm ứng khơng ngoa,
Tịch-quan hánh-định khắp hà-sa
Nguyện chắng lìa Già gia,


Tế độ trai gia,
Đất báu trổ liên hoa.
Nam-mô tiêu tai tăng phước thọ
Bồ tát ma ha tát (3 lần)
Nam mô Bổn sư Thích-Ca Mâu- ni Phật. (3 lần)

KHAI KINH KỆ
Vơ thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải,Như-Lai chơn thiệt nghĩa.
PHẬT NÓI KINH
THIÊN-DỊA BẤT DƯƠNG
(Dời Diêu-Tần, pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch)


PHẦN THỨ NHấT
TRONG PHÁP HỘI THÀNH TỰU
Như vầy ta nghe, thời kỳ đó Phật ở tại thành Tỳ-Gia Ly-ĐạtMạ, khai hội thuyết pháp.
Có tịnh tín nam nữ, mười phương đàn-việt đều tụ hội nghe
pháp, bốn chúng đều vây quanh.
PHẦN THỨ NHÌ
KHAI BÀY VIỆC CHÁNH KIẾN
Khi ấy ơng Vơ-Ngai Bồ-Tát, ở trước đại chúng , từ chỗ ngồi
đứng dậy, qùy gối chắp tay trước Phật mà bạch như vậy:
"Ngưỡng bạch đức Thế -Tôn, chúng sanh ở trong cõi Nam
Diệm-Phù-Đề này, thay đổi sanh sản nhau, từ đời vơ-thi đến
nay nối hồi chẳng dứt, nhưng mà trong nhân loại ấy, xem lai


cho kỹ, thì hạng người có học thức thời ít qúa, cịn người vơtri thì nhiều, người tu hành niệm Phật thời ít; hạng mê-tín cầu
lay tà-thần giả quỉ thì nhièu; người tu niệm trì trai giữ giới thời
ít; chúng lợi-đường phá giới hủy luật thì nhiều, bậc tinh tấn tu
hành thời ít, người biếng-nhác dài dày thì nhiều; trang thơng
minh trí-tuệ thời ít; đứa ngu si độn trược thì nhiều; hạng
trường thọ trăm năm thời ít; chúng đoản mạng yểu vong thì

nhiều; người tịnh tậm thiền-định thời ít; kẻ tán loạn rối động
thì nhiều; phần giàu sang no ấm thời ít, chúng nghèo đói khốn
nạn thì nhiều; người dịu dàng nho nhã thời ít, chúng cangcường hung tợn thì nhiều, người chơn chánh ngay thắng thời
ít, bọn dua vay hồ đồ thì nhiều; người tinh-hạnh thanh bạch
thời ít, chúng tham lam ơ-trược thì nhiều; người có tâm quảng
đại bố-thí thời ít, chúng gian-giảo bịn rút thì nhiều; người chỉ
tín thành thật thời ít, kẻ dối gian quỉ quyệt thì nhiều.


Bởi vậy khiến nên cuộc đời gay gắt, đồng bào cọng nhủ, nỡ
lòng tàn hại lẫn nhau, thêm phép quan khổ khắc sưu cao thuế
nặng, bá tánh chịu bể nghèo khổ, thời kỳ khuẩn bách, công
làm đổ mồ hôi chỉ đủ ni miệng ăn, có dư đâu mà bảo tồn
con vợ.
Nguyên do vì dâu ? Vì tâm tà vay, tin theo việc hoang đàng,
sở kiến ngược ngạo, nên nhân loại phải bị cái khổ nguy
dường ấy: "Cúi xin đức Thế-Tôn, vì lịng từ-bi thương xót kẻ
tà-kín diễn nói các pháp chánh-kiến cho chúng nghe, khiến
đặng tỏ ngộ, phản tà qui chánh, mà thốt khỏi các nan khổ kia
vậy."
Phật khen nói: "Người luận nói như vậy hay lắm. Này VơNgai Bồ-Tát, ngươi có tâm từ-bi thương đời lớn lắm, nay
ngươi muốn giúp các người tà-kiến kia mà cầu hỏi ta về cái
pháp chánh-kiến, thiệt là phước đức ngươi to tát biết bao.


Người nay phải định thần nghe rõ, ghi nhớ vào lịng, ta nay
thương giúp ngươi mà phân tỏ diễn nói kinh Thiên-Địa BátDương này.
Kinh này khơng phải một mình ta mới nói thơi, chăng những
đời q- khứ các đức Phật đã nói rồi, và đời vi-lai chư Phật
sẽ nói, mà đời hiện tại nay chư Phật cũng đang nói nữa. Luận

như trong trời đất đây, những hình tướng vạn-hữu, thì duy có
con người tối linh trên mn vật; luận chủ Nhơn là Chơn, ấy
là làm con người, phải có chơn tâm, không tưởng quấy, thân
này thi hành mỗi việc đều chánh trực. Cho nên chiết tự chủ
Nhơn đó coi thì chữ Phúc bên tả gọi là Chơn, con chủ Vệ bên
hữu kêu là Chánh, mình thường làm việc chánh chơn nên
kêu là chữ Nhơn.
Cho nên có câu: Vi nhơn mạt thuyết thành chơn dị, nghĩa là :
"Ở đời đừng nói làm nên được con người là dễ, làm sao cho


tư-cách mình nó phù hợp với nghĩa lý chủ Nhơn này mới
được". Phải biết, người kia muốn dựng mối dạo, thì trước
phải dùng chánh đạo mà sửa mình làm y theo chánh-đạo, y
theo nhơn luân, thì đều nên quả Phật.
Phật lại kêu ơng Vơ-Ngai Bồ Tát nói: "Chơn thân khó đặng mà
nay hết thảy người đời đã đặng chơn thân rồi. sao không chịu
tu đường phước thiện, lại bỏ việc chánh chơn làm điều dối
giả, gây các điều ác nghiệp đến khi thân mang chết rồi, thầnhồn sa đọa trong biển khổ đau đớn trăm bề. Bằng hết thảy
người đời, đặng nghe kinh này sanh tâm tín kinh khơng trái
nghịch, thì đặng thốt khỏi nạn hết tội khổ, đặng ra khỏi biển
khổ, có các vị thiện thần thầm giúp, khơng việc chi ngăn trở,
lại đặng trường thọ không bao giờ chết yểu.
Mà vì sao đặng vậy ? Là do noi sức chánh-tín, mới đặng
phước như vậy. Nếu ai biên chép thọ trì đọc tụng, y theo


chánh pháp mà tu hành thì cơng-đức của người đó vơ-lượng
vơ- biên khơng biết đâu tính kể cho xiết, đến ngày mãn thọ
lâm chung người ấy chắc chúng đặng quả Phật.

Phật kêu: Này ơng Vơ-Ngại Bồ -Tát lớn. Bằng có người nào:
tính tà, kiến thức ngược ngạo, tức phải bị nạn, tà ma ngoại
đạo, quỉ ly-mỵ quỉ vọng-lượng, chim mèo chim ut chim cú
chim heo, kêu trăm điềm dữ lạ, thêm loài ác qủy ác thần, đến
làm náo loạn trong nhà, vợ chồng cắng dắng, cha con xào
xáo, hoặc sanh các bịnh phi thường, chịu đủ hết các chúng
bịnh khổ, không ngày giờ nào hở ngớt. Bằng người ấy, muốn
cho hết tai nạn vừa nói đó, thì thinh ơng thầy chơn tu (nghĩa
là ăn chay và đừng dâm dục), giúp tụng kinh này ba biến, thì
các vị quỷ thần độc ác, đều tiêu diệt hết, các binh dữ cũng
tiêu trừ thân thể lành mạnh, phục sức như xưa, ấy là nhờ


công đức đọc kinh Bát Dương này mà chuyển đổi họa ra
phước vậy.
Phàm có người nào, ưa muốn dâm dục, sâu độc, ngu si, gian
tham, tật đố, nhưng khi thấy nghe đặng kinh này mà phát tâm,
chánh tín cúng dường nguyện tụng kinh này ba biến thì các
việc dữ kể trước, thảy đều tiêu diệt, đặng phát tâm từ bi hi xả,
sau đặng quả Phật.
Phật kêu ơng Vơ-Ngại nói : Phàm có trai lành, gái tín muốn
làm việc hữu-vi (tức là các việc kế sau dây), trước phải tụng
kinh này ba biến, rồi, sau sẽ đắp nền xây tường dựng làm
nhà cửa, hoặc làm nam đường, bắc đường, đông lang, tây
lang nhà bếp, nhà khách, cửa ngỏ, đào giếng, cối xay, cối giã,
kho tàng, chuồng trại nuôi đồ lục súc v.v... hoặc rủi nhằm
phường nhựt du, phương nguyệt sát, tướng quân Thái-Tế
cùng trúng sao Huỳnh-Phan, sao Báo-Dỉ, ngũ thổ (1) địa kỳ,



Thanh long Bạch hổ, hoặc nhằm phương Châu-tước Huyền
Võ, Lục giáp (2) cấm kỵ mười hai chi cang, xâm phạm
phương thổ qủy thần phục long, nhất thiết loài quỷ mỵ, vì
trước khi mình làm các việc hữu-vi thì mình đâu có hiểu
phương hướng và sao trạm mà lựa chọn thì cứ tụng kinh BátDương này nhờ oai thần của Phật hộ-trì thì nhất thiết quỉ mỵ
thảy đều ẩn mất tránh xa đi bốn phương, hình tiêu bóng mất,
chẳng dám làm" hại tới mình, việc đặng lành, tốt phước báu
vơ-lượng.
Nay trai lành gái tín, ai y theo lời Phật dạy tụng kinh BátDương này, khi khỏi công làm rồi, hoặc nhà của lâu-dài thì gia
đạo đặng bình an lâu dài, thêm giàu sang vinh hiển, chẳng
nhọc sức mưu cầu, mà tự nhiên cổ của tới.
Như có người nào đi phương xa, hoặc làm quan đi phó
nhậm, hoặc tùng trong quân thứ, mà tụng kinh Bát-Dương


này thì đều đặng lợi lành, nhà cửa đặng hưng thạnh bực
người cũng cao sang, con cháu vinh-diệu cha lành con thảo,
trung-bình chánh trực, gái trinh liệt hiền lương, anh em cùng
thuận, phu xướng phụ tùy, gia đình hịa hảo, lịng tín nghĩa
thị đơi thân, chỗ sở nguyện chi đều thành tựu cả, ấy là nhờ
oai lực tụng kinh Bát-Dương vậy.
Phàm có người nào, bị quan quyền bắt buộc hoặc án trộm
cướp liên luy tới mình, khi ấy tĩnh tâm tụng kinh Bát-Dương
này ba biến liền đặng thoát khỏi tai nạn kia.
Phàm có ngườịi trai lành gái tín, thường thọ trì đọc tụng,
giúp người biên tà kinh Bát-Dương này thì người ấy dầu rùi
sa trong nước lửa cùng nhỏ oai lực Phật, khỏi bị cháy chìm,
bằng ở trong núi rừng có nhiều hùm sói thú dữ, mà nó thấy
người thọ trì kinh Bát-Dương này thì đọc trùng ác-thú thảy
đều lánh xa khơng bao giờ dám giết hại mạng, là vì người



×