Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.9 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du </b>


<b>kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng </b>



<b>chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)</b>



Ho Chi Minh’s congress on the development of the multi


personal and military population of the Hai Duong province



in the longterm foreign war (1946–1954)



<b>Đặng Thị Dung</b>
<i>Email: </i>
<i>Trường Đại học Sao Đỏ</i>
Ngày nhận bài: 13/4/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/12/2018
Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018
<b>Tóm tắt</b>


Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động của mình đã để lại cho Đảng, nhân dân và quân đội
ta những tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự vô giá. Trong đó, tư tưởng về xây dựng lực lượng
dân quân du kích là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng, trở thành sức
mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng đắn
về vai trò của lực lượng dân quân du kích và chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra những chủ trương, đường lối xây dựng
lực lượng dân quân du kích phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền quốc
phịng tồn dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước
hiện nay.


<i><b>Từ khóa: Xây dựng lực lượng dân qn du kích ở Hải Dương giai đoạn 1946-1954; lực lượng dân quân </b></i>
<i>du kích; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích.</i>



<b>Abstract</b>


President Ho Chi Minh during his activities left the Party, people and army of revolutionary thoughts
and invaluable military ideals. In it, the idea of building a guerrilla militia is one of the thoughts that have
penetrated deeply in the masses, becoming great material forces, bringing our people to victory over
all invading enemies. The right understanding of the role of guerrilla militia and guerrilla warfare in the
resistance war against the French, the Party of Hai Duong province has applied Ho Chi Minh thought
to set the guidelines, guidelines for building forces guerrilla militia in line with reality, contributing to the
victory of the nation in the national resistance against the French colonial period 1946-1954. This is also
the basis for the building of the entire people’s defense in the resistance war against American salvation
and in the period of construction and protection of the country today.


<i><b>Keywords: Building guerrilla militias in Hai Duong period; guerrilla militia; Ho Chi Minh’s idea </b></i>


<i>of </i> <i>building militias.</i>


<i>Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải</i>
<i> 2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa</i>
<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>


Từ khi đất nước ta bị thực dân Pháp thống trị,
một vấn đề trọng đại đặt ra cho dân tộc ta là làm
thế nào một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đất
không rộng, người khơng đơng, kinh tế nghèo nàn,
trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, khơng có qn


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, lực
lượng vũ trang ba thứ quân đã được hình thành
trong kháng chiến chống Pháp. Xã nào, thơn nào


cũng có dân qn du kích tạo thành một tấm lưới
rộng mênh mông, bao trùm cả nước, hễ giặc Pháp
và Việt gian bước chân tới đâu là mắc phải lưới đó
ngay. Trong kháng chiến họ rất kiên cường, trong
sản xuất họ rất hăng say tăng gia sản xuất và bảo
vệ lợi ích cho quần chúng. Chính vì thế Bác đã
khẳng định: “Du kích là một lực lượng vô cùng
to lớn trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Sức
du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất
định thắng lợi. Tổ chức chặt chẽ và rộng khắp,
trong vùng địch và xung quanh vùng địch, làng
nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích thì nó
trở thành một tấm lưới sắt, một thứ “thiên la, địa
võng” mà địch khơng tài nào thốt ra được. Địch
đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Địch làm gì cũng
bị phá hoại. Du kích làm cho địch có mắt cũng
như mù, có tai cũng như điếc, có chân tay cũng
như què. Một bộ phận địch thì bị du kích tỉa dần,
tỉa mịn. Bộ phận địch cịn sống sót thì ăn khơng
n, ngủ khơng n, nghe gió thổi chim kêu cũng
hoảng sợ, rồi cũng bị tiêu diệt nốt” [7].


Như vậy, dân quân du kích giữ vai trị chiến lược,
quan trọng trong suốt quá trình đấu tranh vũ trang
giành thắng lợi cho cách mạng. Là lực lượng xây
dựng và bảo vệ hậu phương của ta. Địch luôn
phá hoại hậu phương của ta với nhiều thủ đoạn.
Nhưng bộ đội chủ lực cần tập trung tác chiến,
không thể dàn ra khắp mọi nơi. Vì vậy, dân qn
du kích và bộ đội địa phương là lực lượng quan


trọng để xây dựng và bảo vệ hậu phương một
cách hiệu quả nhằm làm tê liệt bộ máy của quân
thù, biến hậu phương địch thành tiền phương của
ta, mở rộng vùng tự do sau lưng địch… Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân quân, tự vệ
và du kích là một lực lượng của tồn dân tộc, là
một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch
hung bạo thế nào, hễ động vào lực lượng đó, bức
tường đó thì địch nào cũng phải tan rã” [5].


<b>2.2. Xây dựng lực lượng dân quân du kích </b>
<b>vững mạnh góp phần sử dụng triệt để chiến </b>
<b>thuật du kích, tạo nên thắng lợi của cách mạng </b>


Hồ Chí Minh đã khẳng định: Du kích là cách đánh
giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Mục
đích của chiến thuật du kích là đánh vào những
yếu điểm của kẻ thù địch. Lối đánh du kích bao
gồm các cuộc phục kích, phá hoại, đánh bất ngờ,
dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí


giới tốt và nhiều” [4]. Do vậy, xây dựng lực lượng
vũ trang, trong đó có lực lượng dân quân du kích
là tất yếu để phát huy sức mạnh toàn dân và thực
hiện cách đánh sáng tạo của dân tộc. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
dân quân du kích, Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong
những năm 1946-1954 đã tích cực xây dựng lực
lượng dân quân du kích phát triển về mọi mặt, đáp
ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến chống


thực dân Pháp.


<b>2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG </b>
<b>LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH </b>


<b>2.1. Dân quân du kích là lực lượng chiến lược </b>
<b>tham gia sự nghiệp đấu tranh cách mạng</b>


Dân quân du kích là lực lượng vũ trang quần
chúng gồm những công dân tình nguyện tham gia
cơng tác qn sự địa phương, có nhiệm vụ chiến
đấu chống giặc, bảo vệ chính quyền, nhân dân,
là lực lượng đơng đảo nhất được vũ trang và có
tổ chức ở cơ sở, khơng thoát ly sản xuất. Họ vừa
bám đất, bám dân, vừa đánh giặc, vừa cày ruộng,
vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa là quân, vừa là
dân. Đây là lực lượng hùng hậu để bổ sung cho
bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.


Dân quân du kích được tổ chức rất linh hoạt và
rộng rãi. Ở thành phố, họ là những người công
nhân; ở vùng nông thôn họ là những người nông
dân. Họ được tổ chức, trang bị, huấn luyện cách
sử dụng vũ khí cũng như hoạt động sáng tạo trên
địa bàn… Ngồi những đơn vị gồm những người
hăng hái cịn có các đội du kích như: “bạch đầu
qn”, “nữ du kích”, “thiếu niên du kích”… Đó là
một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam, là nịng cốt để phát động tồn
dân kháng chiến.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chớp nhoáng và rút lui nhanh. Do vậy, tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, chiến
tranh và quân đội, xuất phát từ thực tiễn dân tộc
Việt Nam bị chủ nghĩa thực dân thống trị, ngay
khi mới về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú
trọng đến việc xây dựng các đội dân quân du kích
từ tiểu tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội đến chi đội.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một lực lượng
dân quân du kích lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng: Phải phát triển và củng cố dân quân
du kích về mọi mặt: tổ chức, trang bị, huấn luyện
và tổ chức chiến đấu. Đi đôi với việc xây dựng về
chính trị tư tưởng, phải xây dựng tổ chức thích
hợp và chú ý đến vấn đề trang bị. Phương hướng
chung để giải quyết vấn đề trang bị cho dân quân
du kích là phát triển vũ khí thơ sơ. Dân qn du
kích phải sử dụng mọi loại vũ khí cổ truyền: chơng
tre, cung nỏ, lao, giáo mác, cuốc… và các vũ khí
lấy được của kẻ thù.


Người đã khẳng định, xây dựng dân quân du kích
phải dựa trên cơ sở quần chúng, cần phải có dân
chúng tham gia và giúp sức. Du kích như cá, dân
chúng như nước, cá khơng có nước thì cá chết,
du kích khơng có dân thì du kích chết. Cho nên
cần phải thu hút đơng đảo quần chúng tham gia:
Ai là người dân Việt Nam khỏe mạnh, muốn đánh
Tây - Nhật, khơng sợ khó nhọc, nguy hiểm đều có
thể thành một đội viên du kích. Do đó phải làm cho


dân tin, dân phục, dân yêu, phải tổ chức chặt chẽ,
tập huấn hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo để có giặc
là đánh. Đồng thời phải có kỷ luật nghiêm minh.
Người khẳng định: Phải đặc biệt chú ý tổ chức
thật mạnh và nghiêm ngay trong vùng địch kiểm
soát… kỷ luật phải nghiêm như sắt, tinh thần vững
như đồng, cái chí quật cường tất thắng, cái đạo
đức: trí, dũng, liêm, trung của giải phóng quân.
Để xây dựng dân quân du kích vững mạnh, trong
thư gửi Hội nghị dân qn tồn quốc (4-1948) Hồ
Chí Minh đã nêu bảy nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của dân quân du kích trong chiến tranh
cách mạng:


<i>Một là,</i> thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện


dân quân du kích từng làng, lấy dân quân du kích
làng làm nền tảng; đồng thời phải kiện tồn các
đội du kích thoát ly.


<i>Hai là</i>, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ và tin tưởng


vào lực lượng của ta, tin tưởng vào vũ khí thơ sơ
của ta.


<i>Ba là,</i> phối hợp thật chặt chẽ với Vệ quốc quân.


<i>Bốn là</i>, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ nhiệm vụ vẻ


vang của họ.



<i>Năm là,</i> làm cho họ hiểu rõ chiến thuật du kích là:


Phải ln giữ quyền chủ động, phải tìm địch mà
đánh, phải luôn khuấy rối phá hoại địch, phải cộng
những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to.


<i>Sáu là,</i> phải thực hành tự cấp, tự túc, bằng cách


thiết thực, bằng cách tăng gia sản xuất.


<i>Bảy là,</i> phải thực hành những điều đó bằng cách


thi đua.


Đồng thời, Người cũng đưa ra bốn mưu mẹo khi
đánh du kích: <i>Thứ nhất:</i> Tránh chỗ mạnh, đánh
chỗ yếu, náo phía Đơng đánh phía Tây…<i>Thứ hai: </i>


Tránh trận gay go, không sống chết giữ đất…<i>Thứ </i>
<i>ba</i>: Hóa chỉnh vi linh (nghĩa là phân tán), hóa linh
vi chỉnh (nghĩa là tập trung)…<i>Thứ tư</i>: Mình yên
đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù
mệt… [6]. Những mưu mẹo này là cơ sở để dân
quân du kích đánh bất ngờ, linh hoạt, đánh nhanh
di chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, đánh
địch mọi lúc, mọi nơi, đánh địch bằng mọi vũ khí
và bằng mọi hình thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần vào thắng


lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Như vậy, xây dựng lực lượng dân quân du kích
và phát triển chiến tranh du kích góp phần tạo
lực, lập thế, đánh địch bằng mưu mẹo, lấy ít đánh
nhiều của dân tộc ta. Chiến tranh du kích phải tiến
lên chiến tranh chính quy và kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy, thực hiện quan
điểm chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc
một cách tồn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng dân quân du kích là một trong
những nội dung quan trọng, khoa học và nghệ
thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại mới.


<b>3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI </b>
<b>DƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC </b>
<b>CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946–1954) </b>


Hải Dương - một vùng đất thuộc châu thổ sông
Hồng, là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
nối liền thủ đô Hà Nội với Hải Phòng và Quảng
Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xây dựng và phát triển lực lượng dân
qn du kích rộng khắp trong đó có lực lượng dân
qn du kích tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi mới
thành lập, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã chú trọng
lãnh đạo xây dựng lực lượng dân qn du kích từ
khơng đến có, từ yếu đến ngày càng vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống


ngoại xâm cùng cả nước đánh đuổi quân thù. Căn
cứ vào: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội, truyền thống dựng nước, giữ nước của nhân
dân cũng như nhiệm vụ quân sự của địa phương,
Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có những chủ trương,
biện pháp đúng đắn, sáng tạo trong việc xây dựng
và phát triển lực lượng dân quân du kích địa
phương, làm nên những chiến cơng oanh liệt, góp
sức vào thắng lợi chung của dân tộc và làm rạng
rỡ thêm truyền thống anh hùng bất khuất trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm của một vùng đất
“giàu của, giàu người, giàu chiến công” [2].


<b>3.1. Đảng bộ tỉnh Hải Dương xác định dân </b>
<b>quân du kích là lực lượng chiến lược của cách </b>
<b>mạng, tích cực chỉ đạo xây dựng lực lượng </b>
<b>dân quân du kích giai đoạn 1946-1950</b>


<i><b>Xây dựng và phát triển lực lượng</b></i>


Tháng 4 năm 1947, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ II họp tại Triều Dương xã Hịa Bình họp và
khẳng định: “Vừa đánh vừa bảo toàn lực lượng
và phát triển lực lượng. Phải xây dựng ba đại đội


mạnh, tiến lên thành tiểu đoàn bộ đội tỉnh. Mỗi
huyện xây dựng một đại đội, các xã phải phát
triển mạnh lực lượng dân quân du kích và lập đơn
vị du kích tập trung; đẩy mạnh huấn luyện quân
sự, thực hiện học quân sự ngay trong tác chiến…


xây dựng tinh thần sẵn sàng chiến đấu; khuyến
khích các gia đình có điều kiện đứng ra đỡ đầu lực
lượng dân quân du kích” [9].


Ngày 29 tháng 8 năm 1949, Tỉnh ủy ra Nghị quyết
Phát động chiến tranh nhân dân, Nghị quyết chỉ
rõ: “Thành lập thêm các đội vũ trang tuyên truyền,
chú trọng đặc biệt việc xây dựng bộ đội địa
phương và dân quân du kích xã cả về số lượng
và chất lượng” [1].


Thực hiện theo chủ trương của Đảng bộ, các đồn
thể như: Cơng đồn, Thanh niên, Phụ nữ và lực
lượng vũ trang được các cấp ủy Đảng chăm lo xây
dựng cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng vũ
trang Hải Dương ngày càng phát triển, trong đó
có đội nữ du kích Mê Linh. Ngồi ra mỗi huyện
cịn có một trung đội du kích thốt ly, nhiều xã có
du kích bán thốt ly hoạt động ngay tại địa bàn. Ở
một số xã trong huyện Nam Sách còn thành lập
đội lão dân quân như: Hợp Tiến, An Bình, Đồng
Lạc… vừa xây dựng lực lượng dân qn du kích
cơng khai, vừa xây dựng lực lượng dân quân du
kích bí mật để diệt ác, trừ gian, bảo vệ cán bộ. Ở
Vĩnh Bảo, Ninh Giang còn thành lập các đội “Lão
dân quân”, “Thiếu niên dân quân” và hội “Mẹ chiến
sĩ”… Tính đến cuối năm 1949, tỉnh Hải Dương có
5.875 du kích, 12.172 dân quân [9].


<i><b>Xây dựng về chính trị</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

1/3 số đảng viên vào dân quân du kích. Bí thư chi
bộ hoặc thường vụ chi ủy trực tiếp làm cơng tác
chính trị viên xã đội. Qua đó tăng thêm sức mạnh
cho dân quân du kích vừa rèn luyện đảng viên
trong thực tế đấu tranh, nâng cao vai trò của Đảng
đối với lực lượng dân quân du kích. Đồng thời,
đã khơi sâu lòng căm thù cũng như khơi dậy lòng
yêu nước, hiểu rõ nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ thành quả cách mạng của mỗi một người dân.


<i><b>Về tổ chức</b></i>


Trong tỉnh đã thành lập các tổ đội chuyên môn để
hướng dẫn dân quân du kích làm vũ khí tự tạo
và hướng dẫn cách đánh, cách dùng vũ khí. Tổ
chức huấn luyện cho cơng binh, du kích và tự vệ
chiến đấu làm nịng cốt. Các đơn vị ở vùng tự do
đã lần lượt đưa các đơn vị lên vùng có chiến sự
để tập dượt, dưới hình thức “nghe súng”, vây đồn,
quấy rối phá hoại…; một bộ phận được tổ chức
đi sản xuất nông nghiệp, các “trại dân quân thành
lập để du kích thốt ly, thay phiên nhau lao động
sản xuất”. Bên cạnh đó, các loại chơng bẫy, mìn,
tre, nứa, gỗ, sành sứ, sắt vụn… cũng là những
dụng cụ để phục vụ cho đời sống và sinh hoạt
đều có thể làm ra vũ khí để giết giặc. Ngun liệu
sản xuất ra vũ khí khơng chỉ một vài nơi có, mà từ
đồng bằng đến miền núi, từ nơng thơn đến thành
thị đều có và khơng bao giờ hết. Nhân dân tự nghĩ,


tự làm phù hợp với sở trường mỗi người, mọi địa
phương, phù hợp với lối đánh giặc độc đáo của
dân tộc ta từ bao đời nay.


Quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
dân quân du kích, Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân dân
sản xuất vũ khí, xây dựng làng chiến đấu. Tính
đến cuối năm 1949, xưởng quân khí sản xuất
được 36.800 quả lựu đạn, 19.600 quả mìn. Xây
dựng được 200 làng chiến đấu, trong đó có các
làng rất kiên cố như làng chiến đấu thôn Nhân
Kiệt, xã Hùng Thắng (Bình Giang). Trong kháng
chiến chống Pháp, du kích đường 5 dùng mìn
đánh đổ một tàu chở quân, diệt và làm bị thương
100 tên lính Pháp. Ngồi ra cịn làm tiêu hao lực
lượng địch khi dân quân du kích sử dụng vũ khí
tự làm khiến cho quân thù ở trong cứ điểm thì bị
phóng bắn, ra ngồi cổng thì sa vào chơng mìn,
cạm bẫy, đi hành quân càn quét cũng bị chông
mìn, cạm bẫy, tên phóng, ong đốt, trâu húc… từ
đó buộc phải bỏ ý đồ tấn cơng hoặc càn quét, ta
thực hiện được ý định ngăn chặn và giam chân
địch, bảo vệ được tài sản của nhân dân đồng thời
giành thế chủ động.


Như vậy, trong giai đoạn 1946-1950 Đảng bộ tỉnh
Hải Dương đã quán triệt đường lối chiến tranh
nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
xây dựng lực lượng dân quân du kích trong
kháng chiến chống Pháp từ khơng đến có, từ ít


đến ngày càng đông đảo, từ số lượng đến đảm
bảo về chất lượng. Với vũ khí tự tạo kết hợp với
lối đánh linh hoạt với từng địa hình, lực lượng
dân quân du kích đã phối hợp với bộ đội chủ lực
và bộ đội địa phương làm nên những thắng lợi
to lớn trên địa bàn tỉnh, góp phần vào thắng lợi
chung của đất nước.


<b>3.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương chỉ đạo tăng </b>
<b>cường xây dựng lực lượng dân qn du kích </b>
<b>trong giai đoạn tiến cơng chiến lược của cuộc </b>
<b>kháng chiến (1951-1954)</b>


Bước sang giai đoạn 1951-1954, cách mạng
chuyển sang tình hình mới. Trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, ở vùng địch chiếm đóng chúng sử dụng
lực lượng tại chỗ, tăng cường củng cố bộ máy
tề ngụy, tăng cường mở các cuộc càn quét xung
quanh vị trí chiếm đóng và trục đường giao thơng
để ngăn cản hoạt động của du kích nhất là trên
trục đường 186, 188. Sau 1 năm địch bắn phá,
bình định đã trở thành “vùng tạm chiếm”, “vùng
sau lưng địch”. Ở các huyện Đơng Bắc của tỉnh
(Chí - Nam - Kinh) địch hoàn tồn bình định.
Chúng chiếm đóng 191 vị trí, tổng số quân lên tới
10.987 tên. Chiếm giữ 402 làng trong tổng số 755
làng trong tỉnh. Bộ đội địa phương ở các huyện
rút vào căn cứ tránh giặc, khơng dìu dắt được dân
qn du kích. Trước tình hình trên, nhiệm vụ quân
sự của tỉnh là phải đối phó với âm mưu của địch,


đồng thời tích cực xây dựng lực lượng để chuyển
sang tổng tiến công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

bước trưởng thành của Tỉnh ủy, chuyển hướng
chỉ đạo kịp thời với tình hình những vấn đề then
chốt: Xây dựng ngay những căn cứ du kích với
mật danh A, B, C, D, E, H… gọi là kế hoạch “mở
đất”, vừa tác chiến vừa xây dựng:


A: Khu Hà Đơng (Thanh Hà) là du kích mạnh nhất
B: Khu tây nam Ninh Giang và nam Thanh Miện
C: Khu bắc Thanh Miện và nam Bình Giang
C’: Khu bắc Bình Giang, Gừng, Đọ (đường 20)
D: Khu nam Tứ Kỳ


D’: Khu cầu Ràm
E: Khu đông đường 17


H: Khu bắc Ninh Giang, nam Gia Lộc


Các chủ trương của Tỉnh ủy là cơ sở để chỉ đạo
thực tiễn xây dựng lực lượng dân quân du kích
đáp ứng nhu cầu mới của cuộc kháng chiến.


<i><b>Về phát triển lực lượng và củng cố tổ chức</b></i>


Tỉnh đã xây dựng được 1 trung đội của đại đội 75
đóng quân ở xã Trường Thành, với trang bị bao
gồm: 1 bazoka, 2 trung liên, 4 tiểu liên và một số
súng trường. Bộ đội huyện Thanh Hà ở khu Hà


Đơng cũng có 1 trung đội đóng quân ở xã Tân
Hưng, trang bị có: 1 trung liên, 2 tiểu liên và một
số súng trường, du kích có 170 đồng chí… Trong
vịng 3 tháng thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy,
dân quân du kích đã phát triển mạnh. Phong trào
thanh niên xung phong vào du kích khá sôi nổi
nhất là ở Thanh Hà và Kinh Mơn. Được trang bị
thêm vũ khí, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân du kích đã tổ chức nhiều trận đánh gây
cho địch nhiều thiệt hại. Tỉnh đã mở được 117
lớp huấn luyện với 4.190 học viên được học tập
các thao tác cơ bản trong sử dụng súng, lựu đạn,
mìn và các chiến thuật chiến đấu cơ bản. Cuối
năm 1953 tồn tỉnh có 7.812 du kích, 16.041 dân
quân [9].


Đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị,
trang bị huấn luyện.


Lực lượng dân quân du kích được tổ chức từ thơn
đến xã, có hệ thống theo dõi chặt chẽ từ tỉnh xuống
huyện. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy,
nhân dân nêu cao tinh thần đoàn kết, đội ngũ cán
bộ, đảng viên nhân dân không sợ nguy hiểm, lăn
lộn với phong trào. Nhiều đơn vị bộ đội huyện, dân
quân du kích các xã ven đường quốc lộ như xã
Ái Quốc (Nam Sách), Quyết Thắng (Thanh Hà),


Thạch Khôi, Nghĩa Hưng (Gia Lộc), Dân Chủ (Tứ
Kỳ) để bảo vệ việc đưa đón, giao nhận tài liệu


trong mọi tình huống.


Tiêu biểu cho tinh thần của dân qn du kích đó là
tấm gương của chị Mạc Thị Bưởi (người làng Mộc
Lĩnh xã Nam Tân – Nam Sách). Ngày 18 tháng 4
năm 1951 địch bắt và tra tấn chị, biết không khuất
phục được chị, chiều ngày 23 tháng 4 năm 1951,
chúng dùng dao cắt vú chị, và sau đó ném xác
xuống ao khi chị tròn 24 tuổi đời. Địch tưởng sẽ
khủng bố được tinh thần nhân dân, nhưng ngược
lại tấm gương dũng cảm của chị Bưởi đã cổ vũ
nhân dân anh dũng kháng chiến. Một trung đội
nữ du kích xã được thành lập, mang tên Mạc Thị
Bưởi. Ngày 02-9-1955, Mạc Thị Bưởi được hội
đồng Chính phủ truy tặng danh hiệu anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Nhằm tiếp tục
đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh và học
tập gương hy sinh anh dũng của nữ anh hùng
liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, Tỉnh ủy Hải Dương đã phát
động phong trào “Nữ du kích thành Đơng”. Thực
hiện chủ trương của Tỉnh ủy, huyện Thanh Miện
chỉ đạo tập trung 24 nữ du kích của một xã lên
thành lập đơn vị nữ du kích tập trung, lấy tên là
“Du kích Hồng Ngân”. Ngày 01-3-1953, đội du
kích Hồng Ngân đã hóa trang tập kích tại chợ
Chương diệt nhiều tên địch. Chiến cơng của du
kích Hồng Ngân đã cổ vũ phong trào nữ du kích
trong tỉnh phát triển mạnh mẽ và trở thành cao
trào, góp phần đưa phong trào du kích tồn tỉnh
phát triển rầm rộ.



Với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
chiến thắng”, quân và dân Hải Dương trên dưới
một lịng rầm rộ khí thế giết giặc lập cơng. Hàng
nghìn tấn lương thực được gửi ra tiền tuyến,
ngoài gạo, thóc cịn có hàng trăm kilogam đậu,
lạc, vừng, hàng nghìn bánh thuốc, hàng chục
tấn đường góp phần làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

lượng, trình độ tác chiến được nâng lên so với giai
đoạn 1946-1950. Nhân dân Hải Dương đã kiên
cường vượt lên khó khăn, gian khổ, dũng cảm
đấu tranh cách mạng, chiến đấu liên tục ròng rã
suốt 2.777 ngày đêm trên địa bàn mang tính chiến
lược, một cuộc chiến tranh du kích với đầy đủ tính
chất toàn dân, toàn diện, chiến thắng cuộc chiến
tranh tổng lực của thực dân Pháp và tay sai phản
động. Quân và dân Hải Dương đã chủ động tích
cực xây dựng lực lượng dân quân du kích dưới
sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, kết hợp chặt
chẽ với bộ đội chủ lực đánh địch bằng mọi thứ vũ
khí có trong tay, lấy vũ khí địch tiêu diệt địch, hoàn
thành nhiệm vụ mà Tỉnh ủy và Tỉnh đội giao phó.


<b>4. VẬN DỤNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN </b>
<b>QUÂN DU KÍCH Ở HẢI DƯƠNG TRONG GIAI </b>
<b>ĐOẠN HIỆN NAY</b>


Trong giai đoạn cách mạng mới, trước những diễn


biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, sự
chống phá của các thế lực bằng chiến lược “diễn
biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc đặt ra những yêu cầu cao hơn. Quán triệt
quan điểm của Đảng về đường lối quân sự, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã tích cực xây dựng lực lượng
vũ trang gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân du kích với phương
châm “vững mạnh, rộng khắp và vững chắc”. Dân
quân du kích tỉnh đã được quán triệt sâu sắc về
đường lối, quan điểm quốc phòng, quân sự của
Đảng trong tình hình mới, là lực lượng nịng cốt
trong phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở khi
có chiến tranh, góp phần tích cực vào công cuộc
lao động sản xuất, xây dựng hịa bình, ổn định
đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng và
an ninh của Tổ quốc. Dân quân du kích tỉnh cũng
quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Xây dựng
lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân
du kích, tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực
lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ
thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia trong mọi tình huống” [3]; Luật dân
quân du kích và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo
khác. Thực hiện quan điển chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh, số lượng dân quân du kích được xây dựng
hợp lý, chất lượng ngày càng cao, lấy xây dựng

chất lượng chính trị là chính, tổ chức biên chế,


tinh gọn chặt chẽ, trang bị vũ khí phù hợp. Quy mơ
tổ chức cân đối giữa các thành phần lực lượng,
giữa số lượng và chất lượng phù hợp với yêu cầu
của tỉnh. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
bồi dưỡng, tập huấn… cũng được đổi mới về nội
dung, phương pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn
và xử lý có hiệu quả các tình huống ở cơ sở. Làm
nịng cốt của tỉnh trong phong trào chống lụt bão,
tìm kiếm, cứu nạn, chữa cháy, khắc phục hậu quả
thiên tai, tăng gia sản xuất, tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia các phong trào… góp phần giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội trong
toàn tỉnh.


Thực tiễn xây dựng lực lượng dân quân du kích
ở Hải Dương trong kháng chiến tồn quốc chống
thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954 đã rút ra
những kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng
dân quân, du kích giai đoạn hiện nay như sau:


<i>Thứ nhất,</i> nhận thức đúng vị trí, vai trị lực lượng


dân qn du kích để xác định chủ trương phù hợp.


<i>Thứ hai</i>, muốn xây dựng lực lượng dân qn du


kích có số lượng và chất lượng cao, quá trình chỉ
đạo phải linh hoạt, thích hợp với hồn cảnh từng


địa phương.


<i>Thứ ba, </i>cần kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực


lượng dân quân du kích với lực lượng vũ trang
khác. Gắn xây dựng lực lượng dân quân du kích
với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.


<i>Thứ tư,</i> dựa vào dân, thông qua phong trào cách


mạng của quần chúng nhân dân để xây dựng lực
lượng dân quân, du kích.


<b>5. KẾT LUẬN</b>


</div>

<!--links-->

×