Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

DỰ BÁO TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.13 KB, 7 trang )

DỰ BÁO TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
Nhận định của các chuyên gia trong và ngoài nước về khả năng Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều
chỉnh tỷ giá USD/VND.
- Nâng tỷ giá là bước đi đúng - Nâng biên độ tỷ giá - Một mũi tên trúng hai đích - Tỷ giá sẽ về vị
trí cân bằng hơn?
Nhiều hãng tin và tờ báo lớn trên thế giới đã đăng tải quan điểm của các chuyên gia về động thái
tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 17/8.
Theo tờ Wall Street Journal (WSJ) ngày 18/8, từ tháng 11/2009 tới nay, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã giảm giá tiền VND tổng cộng 10%, nhưng điều này dường như vẫn chưa phát huy tác
dụng trong việc xoay chuyển tình hình cán cân thương mại.
Tờ báo trích số liệu thống kê cho thấy, thâm hụt thương mại tháng 7 của Việt Nam đã tăng lên mức
980 tỷ USD từ mức 742 triệu USD trong tháng 6. Trong 7 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu đã
vượt xuất khẩu 7,26 tỷ USD, cao gần gấp đôi so với mức 3,65 tỷ USD cùng kỳ năm trước, đồng
thời đang tiến tới mục tiêu giới hạn thâm hụt cả năm ở mức 12 tỷ USD mà Chính phủ đề ra.
Phát biểu trên WSJ, chuyên gia kinh tế độc lập Bùi Kiến Thành nhận xét, nhiều mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam có tỷ lệ đầu vào nhập khẩu cao, chẳng hạn như hàng dệt may và giày dép sử
dụng tới 70% nguyên liệu nhập nhẩu, nên việc tăng tỷ giá sẽ không có nhiều tác dụng trong việc
kiềm chế nhập siêu.
WSJ cũng dẫn ý kiến của các nhà phân tích Euben Paracuelles và Yougesh Khatri thuộc ngân hàng
Nomura của Nhật Bản nhận định, với tốc độ gia tăng của thâm hụt thương mại hiện nay, Việt Nam
còn có thể tiếp tục phải tính chuyện nâng tỷ giá USD/VND trong thời gian tới.
Đồng tình với quan điểm này, phát biểu trên tờ Financial Times, chuyên gia kinh tế Jonathan
Pincus, thuộc Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright ở Tp.HCM, nhận định: “Tôi không cho là
việc giảm giá đồng nội tệ 2% có thể có nhiều tác động đối với thâm hụt thương mại. Nhưng tôi
cho rằng, tiền đồng vẫn đang được định giá cao hơn so với giá trị thực và đây là một bước đi đúng
hướng”.
Trao đổi với Financial Times, ông Lê Đăng Doanh, nguyên Giám đốc Viện Quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM), cũng cho rằng, lần giảm giá VND này chưa chắc đã là lần điều chỉnh tỷ giá cuối
cùng trong năm nay. “Tôi không thấy có dấu hiệu nào về việc các công ty sẽ mua USD dễ hơn từ
các ngân hàng. Việt Nam chưa cân bằng được nhu cầu USD. Để cân bằng được, Việt Nam cần một
dòng vốn USD mới đổ vào, mà điều này chưa xảy ra”, ông Doanh nói.


Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng, thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng thông qua chính
sách giảm giá đồng nội tệ như Việt Nam đang làm có tác dụng phụ là dẫn tới nguy cơ gia tăng của
lạm phát.
Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam năm nay là kiểm soát lạm phát ở mức 8%, dù nhiều ý kiến cho
rằng, đây là mục tiêu khó đạt. Tháng 7, lạm phát so với cùng kỳ năm ngoái là 8,19%, giảm so với
mức 8,69% của tháng 6.
Nhà phân tích Prakriti Sofat thuộc Barclays Capital khẳng định, cứ 1% tăng thêm trong tỷ giá
USD/VND sẽ đóng góp chừng 0,15% vào tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, cũng theo chuyên gia này, giá
hàng hóa thế giới đang ở mức thấp, cộng với tình hình lạm phát không mấy căng thẳng ở Việt Nam
hiện nay đã giúp cho việc điều chỉnh tỷ giá vừa qua của Việt Nam được dễ dàng hơn.
Tuy vậy, bà Sofat cho rằng, ít có khả năng Việt Nam sẽ tiếp tục giảm giá đồng nội tệ trong năm
nay.
Theo hãng tin tài chính Bloomberg, từ đầu năm 2010 tới nay, tiền đồng của Việt Nam đã mất giá
5%, trở thành đồng tiền giảm giá mạnh nhất trong số 17 đồng tiền mà hãng tin này theo dõi ở khu
vực châu Á. Cùng với đó, từ đầu tháng 8 tính tới ngày 17/8, chỉ số VN-Index của thị trường chứng
khoán Việt Nam đã giảm 7,8%, mạnh nhất trong số 93 hàn thử biểu chứng khoán mà Bloomberg
theo dõi trên toàn cầu.
Hãng tin này đã dẫn một báo cáo từ ngân hàng Credit Suisse của Thụy Sỹ nhận xét, việc Ngân
hàng Nhà nước nâng mạnh tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng đã phản ánh những thách
thức mà kinh tế Việt Nam tiếp tục phải đối mặt, đồng thời cho rằng, còn quá sớm để trở nên lạc
quan về thị trường chứng khoán Việt Nam.
“Việt Nam vẫn chưa tìm ra điểm cân bằng chính xác giữa tăng trưởng và ổn định vĩ mô. Sự kém
độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm giảm niềm tin vào tiền đồng và khiến nền kinh
tế nước này thiên về tăng nhập khẩu và lạm phát”, các nhà phân tích Dan Fineman và Siriporn
Sothikul của Credit Suisses viết trong báo cáo.
Theo chuyên gia Pincus, động thái giảm giá tiền đồng là dấu hiệu mới nhất về thế “tam nan” tài
chính mà Việt Nam phải đương đầu: Việt Nam cùng lúc muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, chính
sách tiền tệ độc lập, và một tài khoản vốn mở.
Tờ WSJ thì nhận xét, động thái nâng tỷ giá USD/VND của Ngân hàng Nhà nước cũng phản ánh
sức ép đối với dự trữ ngoại hối của Việt Nam - điều mà hãng định mức tín nhiệm Fitch Ratings đã

bày tỏ lo ngại khi hạ một bậc điểm tín nhiệm nợ công của Việt Nam cách đây chưa lâu.
Chiều 17/8, Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân
hàng. Mức mới được áp dụng cho ngày 18/8/2010.
Thông báo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, ngày
17/8/2010, cơ quan này thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam
với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 VND lên mức 18.932 VND (tăng gần
2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN áp dụng từ ngày 18/08/2010 có thể coi đó là quyết định hợp lý
cả về thời điểm và mục tiêu.
- Nâng tỷ giá là bước đi đúng - Tỷ giá sẽ về vị trí cân bằng hơn? - Giới chuyên gia dự báo xu
hướng tỷ giá USD/VND
Bài viết của TS. Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội, nêu ý
kiến của ông về việc điều chỉnh tăng tỷ giá giữa đô la Mỹ và đồng Việt Nam mới đây.
Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với đô
la Mỹ áp dụng từ ngày 18-8-2010 từ mức 18.544 đồng lên mức 18.932 đồng/đô la Mỹ (tăng gần
2,1%) là động thái cần thiết và bình thường trong đời sống kinh tế thị trường. Đồng thời, có thể coi
đó là quyết định hợp lý cả về thời điểm và mục tiêu, bởi:
Trước hết, về thời điểm, sự điều chỉnh tỷ giá diễn ra khi các sức ép lạm phát ở Việt Nam dường
như đang giảm bớt, nhất là khi mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 3 tháng qua liên tiếp ở
mức thấp so với trung bình mọi năm và cả so với cảnh báo từ đầu năm; vì thế tác động của điều
chỉnh tăng tỷ giá đối với gia tăng lạm phát được giảm thiểu.
Thứ hai, sự cố định tỷ giá đồng Việt Nam với đô la Mỹ trong suốt gần nửa năm qua đã khiến đồng
Việt Nam bị định giá cao hơn đô la Mỹ tới trên 13%. Nếu cộng dồn cả những đợt điều chỉnh tỷ giá
và mức lạm phát so sánh hai nước trong 3 năm qua, thì mức đắt đỏ thực tế của đồng Việt Nam so
với đô la Mỹ còn cao hơn nhiều, kèm theo những hệ quả nhiều mặt của nó.
Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá sẽ giúp các ngân hàng cải thiện nguồn vốn ngoại tệ và từ đó cải
thiện tính thanh khoản ngoại tệ của mình.
Thứ tư, sự điều chỉnh tỷ giá, không chỉ giúp tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, mà
còn hạn chế nhập siêu, nhất là những sản phẩm trong nước có thể sản xuất thay thế.
Đặc biệt, sự điều chỉnh tỷ giá đã thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự

do, tức giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam do không phải gia tăng bán đô la Mỹ theo tỷ
giá thấp, giảm bớt kỳ vọng đầu cơ và cả hoạt động buôn bán vốn và ngoại tệ lòng vòng kiếm lời
dựa trên chênh lệch giữa 2 tỷ giá.
Điều này còn giúp tăng cường tập trung và quản lý kinh doanh ngoại tệ trên thị trường có tổ chức.
Đồng thời, nó cũng giúp cho các doanh nghiệp được tính đúng, tính đủ chi phí vốn ngoại tệ trong
bảng hạch toán kinh doanh của mình, mà trước đó thường phái che giấu, hợp lý hóa các khoản
mua đô la Mỹ trên thị trường tự do với giá cao hơn giá chính thức.
Đương nhiên, sự điều chỉnh tỷ giá lần này cũng không tránh khỏi những hệ lụy, nhất là có thể tạo
ra cái gọi là rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh và tín dụng của những doanh nghiệp vay
đồng Việt Nam lãi suất cao và phải nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào sản xuất...
Trong thời gian tới, cần tiếp tục xu hướng điều hành linh hoạt tỷ giá theo các tín hiệu và nguyên
tắc thị trường. Trong đó, lưu ý rằng, thực tế cho thấy cần tránh tín điều và kỳ vọng đầu cơ gắn với
xu hướng chỉ có điều chỉnh tăng một chiều tỷ giá và tăng với giá sốc, biên độ hẹp sau khi neo cố
định tỷ giá kéo dài.
Nói cách khác, cần điều chỉnh tỷ giá có lên, có xuống, thời gian ngắn và nhanh hơn, với mức điều
chỉnh thấp hơn và biên độ giao dich có thể rộng hơn…thì bớt tạo sốc tỷ giá và những hệ lụy mặt
trái của điều chỉnh tỷ giá hơn.
Tỷ giá hối đoái và những nhân tố ảnh hưởng
16:42 | 19/06/2009
(ĐCSVN) - Trong cuộc sống hàng ngày, trên sách báo, trong ngân hàng hay trên các phương tiện
thông tin đại chúng, cụm từ “Tỷ giá hối đoái” hẳn không còn xa lạ với mỗi người dân. Vậy tỷ giá
hối đoái là gì, nó được hình thành trên cơ sở nào và ảnh hưởng bởi các nhân tố kinh tế vĩ mô tới
nó ra sao? Bài viết này xin được trả lời phần nào những câu hỏi trên.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tỷ giá hối đoái, do cách tiếp cận vấn đề khác nhau, đôi khi do
cách diễn đạt khác nhau. Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền này được tính theo một đồng tiền khác. Tỷ
giá hối đoái cũng được hiểu là tỉ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái
xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của thương mại quốc tế, nó được giải thích bởi một
hiện tượng đơn giản, hàng hoá không có biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp nhận trên lãnh
thổ quốc gia phát hành ra nó.
Tỷ giá hối đoái, tức tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cao hay thấp đựơc quyết định bởi các lực lượng thị

trường, cung và cầu. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu
ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối
đoái cũng được xác định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại
tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái tăng. Ngược lại, khi cầu ngoại tệ
lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá giảm. ở vị trí cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác
định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành
tỷ giá được hiểu thị rừ khi cú sự khỏc nhau về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại
tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có một số
người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ trên thị trường
giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá
cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng
ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị
trường cân bằng. Chúng ta có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi. Có rất nhiều nhân tố
tác động gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái với những mức độ và cơ chế khác nhau.
Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của một nước là chênh lệch
giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ
thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua
hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá
hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán
cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng.
Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối
cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân
thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái
sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
Đầu tư ra nước ngoài, cú ảnh hưởng tới tủ giỏ hối đoỏi cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước
ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp
(mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải
có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ
tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho
cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và

luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ
hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược
lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất,
tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi
nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động
dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá
hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá
dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ
chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái
tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm
sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và
cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn.
Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản
nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều
có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc
gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối
đoái tăng.
Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái đó là tâm lý số đông.
Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp
giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều
này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu
mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá
sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách
của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt
thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên với mức độ mạnh yếu khác
nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng

của từng nhân tố là việc làm không thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể
tăng cường hay át chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng./.
Sau một tuần điều chỉnh tỷ giá: Cung - cầu ngoại tệ ổn định
12:29 | 26/08/2010

×