Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tuần 10. Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.49 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

I. Tìm hiểu chung
Tác giả


Nguyễn Khoa Điềm sinh 15 tháng 4 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế


Năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư
phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xn.


Sau đó, ơng vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân
đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ... cho
đến năm 1975.


Ông từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ơng được giải thốt.
Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ


Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975. Sau 1975, ơng tham
gia cơng tác Đồn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường
trực Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế. Ơng có mặt trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Năm 1995, ông
được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.


Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa
Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khố X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin.Năm 2001, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy
viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001-2006).


Hiện nay, ơng nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế.
Các giải thưởng:



Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ <i>"Ngơi nhà có ngọn lửa ấm"</i>.


Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ <i>"Cõi lặng"</i> - năm 2010.
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật


- Phong cách sáng tác :


+ Giàu chất suy tư , xúc cảm dồn nén .
+ Giọng thơ trữ tình chính luận .


Tác phẩm


Tác phẩm chính của ơng: Đất ngoại ơ (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),
Ngơi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986) Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tuyển chọn, 1990), Cõi lặng (thơ,
2007)


Mặt đường khát vọng được sáng tác ở chiến khu Trị Thiên, 1971. Tác phẩm viết về sự thức
tỉnh của thế hệ trẻ thanh niên thời chống Mỹ với ý thức trách nhiệm sâu sắc với quê hương đất nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hanh. Đất nước hài hịa trong dáng hình q hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam.
Nhưng, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại
cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất nước của nhân dân.


Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến
khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực
tiếp có mặt


Ý nghĩa đọan trích


Đọan trích thâu tóm ý nghĩa của tịan bộ chương V. Chương thơ là sự cảm nhận về Đất nước


một cách cụ thể, sâu sắc mà cốt lõi trong tư tưởng là: Đất nứơc của Nhân dân. Từ đó, nhà thơ bộc
lộ lịng u q, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nứơc thân yêu. Tư tưởng chủ đạo
này được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: Địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng
hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ dậm đà sắc thái dân gian, nhưng đặc
biệt, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.


Bố cục: 2 phần


– Phần 1: từ đầu đến muôn đời: cảm nhận chung về đất nước
– Phần 2: còn lại: tư tưởng đất nước của nhân dân


II. Đọc hiểu chi tiết


Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với
cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra
vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất
Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước.


Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất
Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi
những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong
truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích,
thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta cịn nằm nơi là
nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người.


Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà
viết nên:


Tôi yêu truyện cổ nước tôi


Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người
Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:


Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng


(Hoàng Cầm)


Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ
truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre:


“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”


Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ
tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng


Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi


Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)


Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong
thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nịi. Phải chăng, đó
chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ
Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây
tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người
Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, u chuộng hồ bình nhưng cũng kiên cường bất
khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây
chơng cũng tiến cơng giặc Mỹ ", bởi:


"Nịi tre đâu chịu mọc cong


Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".


Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con
người Việt:


Tóc mẹ thì bới sau đầu


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong
tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần
hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:



Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ
được toát lên từ những câu ca dao đẹp:


“Tay bưng đĩa muối chén gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”


Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà
thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay,
muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ
chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn
Trống Mái… đi vào năm tháng.


Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt.
Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được
mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngơi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đồn tụ bên nhau; siêng năng tích góp
mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.


Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta cịn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.


Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong,
lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu
khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn
hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm
vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo


dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:


Ai ơi bưng bát cơm đầy


Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.


Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.


“Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong
tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa
“Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa
của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa
chính là Đất Nước. Thật đáng u đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của
Nguyễn Khoa Điềm.


Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch sử lâu đời
của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các triều đại phong kiến hay
các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau
(miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân mình biết trồng tre mà đánh giặc),… đến nền văn
minh lúa nước sống Hồng cùng những phong tục, tập qn có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước
được cảm nhận từ chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm


Đất Nước là nơi ta hị hẹn


Đất nước được cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, khơng gian
của tình u đơi lứa, khơng gian của nỗi nhớ thương . Hình ảnh con đường đến trường, bến sống
em tắm, nơi lứa đơi u nhau hị hẹn… như muốn nói đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức,


nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi
anh và em hị hẹn . Có thể thấy được Đất Nước là không gian sinh tồn của cả cộng đồng người Việt
qua bao nhiêu thế hệ. Rộng lớn hơn nữa, Đất Nước là không gian mênh mông của núi sống, rừng
biển:


Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi "


Khơng những thế, đất nước cịn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em
kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ
bâng khuâng :


“Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất
Mắt thương nhớ ai, mắt ngủ khơng n”,


một lần nữa lại khiến lịng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm
hồn yêu thương say đắm. Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương .
Hình ảnh con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ơng móng nước biển khơi được
lấy ý từ những bài ca dao miền Bắc và những câu hị Bình Trị Thiên, thẫm đẫm lòng yêu quê hương
cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đơi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vơ
cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc
cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội
nguồn


Ngoài ra, Đất Nước còn được tác giả cảm nhận theo nhiều chiều : khơng gian và thời gian, địa
lí và lịch sử:


Thời gian đằng đẵng


Không gian mênh mông,


Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ.
Đất là nơi chim về


Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh
mông để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao
thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng
Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam
cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .


Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất


Những ai bây giờ


Yêu nhau và sinh con đẻ cái


Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu


Cũng biết cúi đầu nhó ngày giỗ Tổ


Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận
khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng của khơng


gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa –
phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .


Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng
đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng
của nhà thơ .


Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
Trong anh và em hôm nay


Đều có một phần Đất Nước.


Như vậy, Đất Nước khơng phải là một khái niệm trừu tượng mà Đất Nước hiện diện cụ thể
trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nhân mà
còn là của Đất Nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật
chất của dân tộc, của Nhân dân. Vì thế mỗi cơng dân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển Đất
Nước và truyền lại cho các thế hệ tiếp theo:


Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ


Phải biết hóa thân cho dâng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Từ những cảm nhận toàn diện về Đất Nước, mạch suy nghĩ của nhà thơ vươn tới một tư tưởng
lớn : Đất nước của Nhân dân và Nhân dân làm nên Đất Nước. Tư tưởng này quy tụ quan điểm về
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời góp phần hồn thiện quan niệm về Đất Nước trong thơ
ca Việt Nam hiện đại.


Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu nhân văn


đồng thời là một phát hiện mới mẻ, thú vị:


Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước


Những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại


Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng vương
Những con rồng nằm im góp dịng sống xanh thẳm


Người học trị nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm


Những cảnh quan thiên nhiên kì thú mang những tên gọi nơm na bình dị gắn liền với cuộc sống
đời thường của nhân dân. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn
nhân dân, qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nếu khơng có những người vợ mỏi mịn
đợi trơng chồng qua các cuộc chiến tranh thì cũng khơng có tên gọi núi Vọng Phu. Cũng như nếu
khơng có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng khơng thể có sự cảm nhận về vẻ đẹp hùng
vĩ của vùng núi đồi trập trùng xung quanh đền Hùng, giống như chín mươi chín con voi quây quần
chầu về đất Tổ.


Khi nêu lên những địa danh từ Bắc vào Nam, tác giả có ý khẳng định Đất Nước là một khối
thống nhất có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời; con người Việt Nam sống thủy chung, tình
nghĩa. Nhà thơ đã quy nạp hàng loạt hiện tượng cụ thể để đưa đến một ý nghĩa khái quát sâu sắc:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gị bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy



Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.


Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ khơng nhắc lại các triều đại, các anh hùng
nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trị của những con người vơ danh:


Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết


Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng


Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói


Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm


Có nội thù thì vùng lên đánh bại


Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tỉnh thần và vật
chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngơn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và
truyền thống chống thù trong giặc ngoài.


Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc


trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của
Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà
tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca,
truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là
một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt
Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần
thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm hồn của
Nhân dân.


Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ
sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý
thơ gắn bó trong mạch chung của tồn bài; để từ đó khẳng định: con người Việt Nam say đắm trong
tình u:


u em từ thuở trong nơi; q trọng tình nghĩa: Q cơng cầm vàng những ngày lặn lội; nhưng
cũng thật quyết liệt trong chiến đấu: …trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu,


Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết
hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ.
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên khơng khí, giọng điệu, khơng
gian nghệ thuật riêng : vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao,
truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có
thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật
độc đáo của đoạn thơ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9></div>

<!--links-->

ĐẤT NƯỚC ( Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ) ppt
  • 5
  • 1
  • 9
  • ×