Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tích lũy chuyên môn cực hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.32 KB, 47 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CƠN TRÙNG VÀ HỮU ÍCH</b>


<i><b>Nói tới cơn trùng, người ta thường nghĩ tới mặt tiêu cực của chúng với</b></i>
<i><b>những căn bệnh nguy hiểm như sốt rét, dịch hạch... Nhưng thực tế, khơng ít</b></i>
<i><b>loại cơn trùng chính là những nguồn dược liệu quý giá đối với sức khỏe con</b></i>
<i><b>người.</b></i>


<i>Bướm vàng dùng để chữa đau dạ dày, nấc, sán khí.</i>


Theo ThS. Hoàng Khánh Toàn, Khoa Đông Y BV TW Quân đội 108, số loại
côn trùng có hại chỉ chiếm 5-7% tổng số loại côn trùng đã biết. Trong khi đó,
nhóm côn trùng có tác dụng làm thuốc chữa bệnh rất hữu hiệu:


Bướm trắng (tên khoa học Pieris rapae Linnaeus) có công dụng tiêu thũng,
chữa các vết thương do trật khớp, bong gân, gãy xương bằng cách giã nát rồi đắp
lên vết thương.


Bướm vàng (tên khoa học Papilio machaon Linnaeus) dùng để chữa đau dạ
dày, nấc, sán khí.


Cào cào (tên khoa học là Oxya chinensis Thunberg) có tác dụng chữa ho gà,
hen phế quản, trẻ em co giật, hầu họng sưng đau, viêm tai giữa, viêm da lở loét.


Mối trắng (tên khoa học Côpttermes formosanus Shiraki) là vị thuốc hữu hiệu
chữa mụn nhọt, các chứng suy nhược khí huyết ở người già hoặc người mắc bệnh
lâu ngày.


Rệp (tên khoa học Cimex lectularius Linnaeus) chữa nghẹn, rắn cắn, trẻ em
co giật, mắt sinh lông quặm, lẹo mắt, sốt rét, lở loét bắp chân.


Tò vò (tên khoa học Sphex) có tác dụng tốt khi chữa nhức đầu, mụn nhọt, đi


tả, thũng, ong châm, riết cắn, khó đẻ,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>Qua nghiên cứu của đội ngũ các nhà khoa học thuộc Trường Đại học</b></i>
<i><b>Zagreb (Croatia), các sản phẩm từ mật ong như nọc ong, mật ong, sáp ong, sữa</b></i>
<i><b>ong chúa, đều có thể ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. </b></i>


Kết quả trên được rút ra từ các cuộc thử nghiệm tiến hành trên chuột với từng
sản phẩm từ mật ong. Theo đó, mật ong có tác dụng ngăn chặn các khối u phát
triển nếu được cho uống trước khi tiêm tế bào ung thư vào chuột. Sữa ong chúa lại
giúp kiềm chế sự lan tràn của các tế bào này. Các khối u sẽ co rút khi bị tiêm thẳng
nọc ong. Sáp ong cũng có cùng công dụng và hơn nữa có thể kéo dài thời gian
sống của chuột. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết thêm nên áp dụng liệu pháp hóa
trị bên cạnh các biện pháp trên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>---Mật ong với công dụng chữa các bệnh thông thường</b></i>


Ngoài việc hấp dẫn đối với các côn trùng, mật ong còn dùng để dinh dưỡng và
trị bệnh. Mật ong là một trong những vị thuốc cổ truyền nhất . Sự sử dụng mật ong
được ghi nhận trong các tài liệu cỏ Ai Cập hàng ngàn năm trước công nguyên. Mật
ong đã được con người phát hiện và sử dụng như là một thực phẩm và vừa là một
vị thuốc quí ngay từ thời cổ xưa, do đó nghề nuôi ong để lấy mật đã có từ 700 năm
trước Tây lịch. Trải qua nhiều thế kỷ, mật ong luôn được đánh giá như loại chất
ngọt quí hiếm, được dùng phổ biến trong ngày lễ của các tôn giáo cũng như được
dùng ướp xác của những vua chúa đã qua đời. Mật ong còn dùng như nhiều loại
thuốc và vào mục đích mỹ phẩm trang điểm.


Mật ong được dùng từ xưa để trị bệnh, có tính diệt vi trùng và được dùng trị
các bệnh viêm nhiễm rất hiệu quả:


- Làm dịu cơn đau hoặc viêm họng, suy nhược cơ thể (do có cung cấp năng


lượng thông qua bổ sung đường fructose và glucose);


- Tăng cường sinh lực (mỗi buổi sáng uống một ly nước nóng pha mật ong);
ho và cảm thông thường (sử dụng mật ong uống, súc họng, ngậm);


- Đứt da và trầy da (mật ong có tính sát trùng có thể giúp giữ sạch vết đứt, vết
trầy da khỏi bị nhiễm trùng); loại mật ong ở New Zealand được tìm thấy có tính
chất sát trùng nhiều hơn các loại mật ong khác, đó là mật ong Manuka;


- Mật ong này còn đang được nghiên cứu cho trị liệu loét dạ dày, viêm tiêu
hóa và các bệnh lý đại tràng chức năng (người ta sử dụng mật ong làm thuốc nhuận
trường nhẹ, rối loạn tiêu hóa và điều ngạc nhiên là mật ong còn dùng để chữa bệnh
tiêu chảy);


- Hoặc một số phương thuốc có vị mật ong là sáp ong được chế từ tổ ong, sau
khi đã lấy hết mật và gỡ hết ong non.Theo Nam dược thần hiệu, dùng nguyên tầng
ong đốt thành than, tán nhỏ cho trẻ uống với sữa hoặc nước cơm với liều 2-4g một
ngày để chữa viêm họng, bí đại tiểu tiện;


- Tầng ong nướng lên, xác ve sầu bỏ miệng và chân, đem sao. Hai thứ lượng
bằng nhau, tán riêng, rây bột mịn, rồi trộn đều; ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g với
rượu chữa da khô nóng và ngứa ngáy. Tầng ong phối hợp với tóc rối, xác rắn lột,
lượng bằng nhau, đốt tồn tính, tán bột, uống mỗi lần 4-6g với rượu chữa miệng
lưỡi lở loét;


- Tổ ong được chế biến thành sáp theo cách làm sau: Tầng ong được cắt nhỏ,
rải đều và mỏng lên một lớp xơ mướp đặt trên vỉ tre trong nồi hoặc chõ đã có sẵn
nước. Đậy vung cho thật kín. Đun sôi nước. Hơi nước sôi bốc lên sẽ làm tầng ong
mềm và chảy thành giọt qua xơ mướp để lại những cặn bẩn. Tiếp tục đun đến khi
không còn mảnh tầng ong trên xơ mướp là được, bắt nồi ra, để nguội. Lớp váng


đóng trên mặt nước trong nồi có độ dày hoặc mỏng tùy số lượng tầng ong. Vớt
váng ra, đun cách thủy cho chảy, rồi đổ khuôn sẽ được sáp ong;


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thuốc tễ, thuốc hoàn to và dẻo như quy tỳ hoàn, hà xa đại tạo hoàn được bọc bằng
sáp ong có thể bảo quản được rất lâu. Sáp ong tham gia vào thuốc dán, thuốc mỡ
như một chất kết dính. Theo kinh nghiệm dân gian, sáp ong 20g, tán nhỏ, uống với
rượu hâm nóng, chữa băng huyết. Sáp ong 10g, rễ câu đằng 20g, sao vàng; bồ kết 2
quả cả hạt, sao giòn. Tất cả tán nhỏ, trộn đều, đốt lấy khói xông qua đường tai chữa
viêm tai. Để chữa chín mé, lấy sáp ong và nhựa thông với lượng bằng nhau, nấu
cho tan, bôi vào đầu ngón tay, ngón chân bị sưng tấy;


- Ngoài ra, sáp ong kết hợp với nha đảm tử còn có tác dụng chữa kiết lỵ có
máu mủ, rong huyết; kết hợp với phèn phi chữa ung nhọt;


- Forver Bee Propolis (FBP) là sản phẩm sáp ong của tập đoàn forever living
products, Mỹ, trong đó sáp ong chứa 22 a.a, vitamin nhóm B và được củng cố bằng
chất sữa ong chúa, FBP là một cách tuyệt vời để giúp hỗ trợ cho chức năng miễn
dịch tự nhiên của cơ thể. FBP còn là một dạng thực phẩm thiên nhiên tuyệt vời, có
chứa nhiều dưỡng chất như các loại vitamin, chất khoáng, enzyme, axít amin và
một số nguyên tố khác. Sáp ong là kháng sinh thiên nhiên ngăn ngừa nhiễm khuẩn
từ bên ngoài vào cơ thể;


- Người bị nấm (nấm da, nấm tóc, nấm bộ phận sinh dục) hoặc các bệnh ngoìa
da (mụn bọc, mụn trứng cá, vẩy nến, viêm loét da),…dùng sáp ong sẽ rất tốt;


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>---CƠNG DỤNG CỦA GIẤM</b>


Ngoài tác dụng là mợt gia vị quan trọng làm mềm thức ăn, với những khả
năng của mình, giấm còn có thể giúp các bà nợi trợ đảm đang tạo ra những bất ngờ
nho nhỏ. Xin giới thiệu với các bạn một vài công dụng của giấm trong khi chế biến


thức ăn.


* Để súp lơ giữ được màu trắng đẹp, trước khi nấu, hãy nhúng rau vào nước lạnh
có pha chút giấm (hoặc nước chanh vắt); đợi nước đun sôi già cho thêm ít muối
vào nồi nước đã đun sôi rồi mới cho súp lơ vào. Nấu mở nắp nồi 2-3 phút, hạ lửa
dần rồi mới tắt hẳn.


* Với các loại rau cải, rau muống, muốn chúng không bị nhũn mà vẫn giữ được độ
giòn của rau, khi nấu hoặc xào, hãy cho một ít giấm vào.


* Rau cần, hành tây, thì là… đã bị khơ, ḿn chúng tươi trở lại, hãy nhúng các rau
này vào nước có pha giấm để lấy lại độ tươi cho rau trước khi nấu.


* Khi hầm thịt, xương hoặc cá để làm món sốt cà chua, muốn cho nhừ, hãy cho
một ít giấm vào hầm chung. Không chỉ giúp cho thịt, cá nhanh mềm, thành phần
axit trong giấm sẽ giúp trung hoà thành phần mang tính kiềm gây mùi hôi, tanh
trong thịt, cá làm cho món ăn không còn mùi hôi, tanh khó chịu mà vẫn giữ được
mùi vị đặc trưng của các thực phẩm dùng để chế biến.


* Khi gọt khoai tây, nếu không muốn tay bị nhựa khoai làm xám đen, hãy nhúng
tay vào nước có pha chút giấm rồi để khô trước khi gọt khoai. Không chỉ khử mùi
hôi, tanh từ thịt cá, giấm còn khử được mùi hành, tỏi khó chịu bám ở tay bằng cách
sau khi bóc hành, tỏi, hãy rửa tay bằng nước pha giấm trước khi rửa lại tay bằng
nước sạch.


* Giấm có tác dụng như một vị thuốc trong những trường hợp cần thiết. Nếu trong
gia đình bạn có người bị chảy máu cam, hãy tẩm một chút giấm vào bông rồi nhét
vào lỗ mũi, máu sẽ được cầm ngay. Giấm để lâu ngày kết hợp với tỏi còn có tác
dụng chữa bệnh nấm da (lở khan). Bạn hãy lấy nước ấm rửa sạch vết lở, lau khô;
đập giập nhánh tỏi lấy nước bôi vào vết lở, để khô hãy bôi giấm lên. Mỗi ngày bôi


2 lần vào buổi sáng và buổi tối, liên tục trong 2-3 ngày vết nấm sẽ hết ngứa và
khoảng 1 tháng thì khỏi hẳn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>---MỘT SỐ TUYỆT CHIÊU BỎ TÚI</b>


* Muốn táo không bị thâm sau khi cắt, bạn ngâm chúng vào nước có hoà cùng
vài giọt chanh, hoặc thoa nước cốt chanh lên bề mặt quả. Táo trông sẽ tươi như
mới cắt.


* Muốn giữ được các loại trái cây, bạn nên bọc chúng trong một lớp giấy báo,
bạn không nên rửa và cho vào ngăn lạnh.


* Riêng dâu tây, bạn nên cho vào hộp giấy hoặc hộp nhựa có lỗ thông hơi.
* Nếu nướng bánh khoai tây, bạn phải luộc khoai trước khi chế biến. Tốt nhất
bạn nên luộc và cho chúgn vào ngăn lạnh trong một thời gian ngắn.


* Giữ rau thơm trong túi nilông trước khi cho vào tủ lạnh. Chúng sẽ tươi trong
thời gian dài.


* Ớt xanh sẽ tươi lâu hơn, nếu bạn cắt bỏ cuống trước khi giữ lạnh.


* Khi lỡ lấy bánh ga tô ra khỏi khuôn mà chưa chín kỹ, bạn đừng chần chừ,
hãy nhúng thật nhanh vào sữa lạnh rồi đặt vào trong lò hấp lại.


* Hấp cơm nguội cho ngon: Dùng tay ướt bóp cho hạt cơm rời ra. Khi nấu gần
chín, bạn cho cơm nguội vào, hấp được mợt lúc thì xới lên, trợn hai loại đều nhau.
Để một lúc, ăn sẽ ngon hơn.


* Muốn khử mùi tanh của giá đỗ, khi xào, bạn hãy cho mợt thìa dấm vào. Khi
làm dưa góp, ḿn món ăn hấp dẫn và ngon hơn, bạn hãy cho một ít rượu vào.



* Muốn xào gan ngon và trên miếng gan không bị dính các hạt cứng, bạn nên
làm theo cách sau. Sau khi thái, hãy chần gan qua nước sôi khoảng 2 phút, rồi mới
ướp gia vị. Khi xào, nhớ để to lửa và đảo nhanh tay.


* Bạn không ăn được ớt, hạt tiêu, nếu sơ ý ăn phải sẽ thấy cay rát đầu lưỡi.
Muốn hết cay, cách tốt nhất là bạn cho vào miệng ít muối ăn (chỉ ngậm thôi, không
được nuốt). Sau vài phút, hãy súc miệng.


* Khi cắt, hoặc tỉa ớt, nếu tay bạn bị dính cay, gây bỏng rát, bạn hãy lấy một ít
đường cát xoa vào, rồi rửa sạch. Cũng có thể lấy dấm thay cho đường.


* Ngâm măng khô để ăn dần: Trước tiên bạn cho măng khô vào nồi, đổ đầy
nước đun sôi khoảng 30 phút, sau đó chuyển sang lửa nhỏ, để đun tiếp một lúc rồi
vớt ra, cắt bỏ những chỗ già và rửa sạch. Tiếp đó, dùng nước gạo hoặc nước sôi để
ngâm ăn dần, 2-3 ngày thay nước một lần.


* Ngâm nấm: Cho nấm đã được rửa sạch vào trong nước ấm, pha với một chút
đường trong 1, 2 giờ. Cách này sẽ làm cho nấm vừa hấp thụ nước nhanh, vừa giữ
được hương vị, khi ăn lại thấy ngọt.


* Ốc ngon có mày nằm sát bên ngoài, khi đụng tay vào, mày khép lại. Ngược
lại, mày thụt sâu vào trong là ốc không ngon. Ốc chết, mùi xông lên rất khó chịu.


* Chọn cua: Muốn chọn cua ngon hãy lấy tay ấn vào yếm, nếu cứng là cua có
nhiều thịt. Bạn cũng có thể thử bằng cách nhìn que càng của nó, nếu thấy mọng
nước là cua xốp, không ngon.


* Mực ống ngon có màu trong suốt, da nhẵn, dính chặt vào thân. Da bên ngoài
sần là lúc mực bắt đầu ươn. Thịt loại hải sản này không dày, không có mùi tanh


khó chịu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

* Chọn gà: Cần lựa con khỏe mạnh, mào đỏ tươi, chân thẳng, nhẵn, không
đóng vảy, ức dày, hậu môn không ướt. Bạn không nên chọn con già quá cũng như
con non quá, ăn ngon nhất là gà gần đẻ. Gà tơ thường da vàng, lông mềm mại, lỗ
chân lông nhỏ, cổ và đùi to, cẳng chân nhỏ, mào đỏ chót. Gà mái già thường chân
cứng, đóng vảy, lông bù xù, không óng mềm, lỗ chân lông to, cổ nhỏ và trắng xám.
Loại gà này thường nổi nhiều gai sần, hậu môn to. Gà trống già có cựa dài.


* Chọn vịt: Lựa con béo, ức tròn, da cổ và bụng dầy, mọc đủ lơng. Bạn chớ
chọn vịt non vì ăn rất hơi, tớn nhiều cơng nhở lơng. Vịt non thì mỏ to và mềm. Vịt
già mỏ nhỏ và cứng. Vịt đã đẻ nhiều lứa, bụng dưới xệ. Khác với gà, thịt vịt đực
ngon hơn thịt vịt cái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>---Sinh lý Hơ hấp</b>
<b>4.1. Ý nghĩa và q trình phát triển</b>


<i>4.1.1. Ý nghĩa chung</i>


Đối với nhiều loài động vật và con người, nhịp thở được coi là dấu hiệu nhận
biết sự sống. Sự thở chính là biểu hiện bên ngoài của quá trình hơ hấp. Con người
có thể nhịn ăn từ 20 – 30 ngày, nhịn uống được khoảng 3 ngày, nhưng không nhịn
thở được quá 3 phút.


Hô hấp được xem là quá trình trao đởi khí liên tục giữa cơ thể và môi trường
xung quanh. Trong đó có việc vận chuyển khí oxy từ không khí tới các tế bào của
cơ thể và vận chuyển ngược lại khí carbonic từ các tế bào của cơ thể ra môi trường
bên ngoài. Các tế bào cần cung cấp oxy (oxygen) để thiêu đốt chất dinh dưỡng, tạo
thân nhiệt và năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống. Như vậy bản chất của
quá trình hơ hấp là những quá trình oxy hoá các chất hữu cơ trong tế bào để


chuyển dạng năng lượng tích trữ trong các chất dinh dưỡng (được ăn vào) thành
ATP là dạng năng lượng cho cơ thể hoạt động.


Hoạt động hô hấp còn có nhiệm vụ góp phần điều hoà độ pH của cơ thể bằng
cách làm thay đổi nồng độ khí cacrbonic hoà tan trong dịch ngoại bào.


Trong quá trình phát triển chủng loại hơ hấp có hai phương thức phổ biến đó
là:


- Ở động đơn bào và đa bào bậc thấp (thuỷ tức, đĩa phiến…), hô hấp là sự
khuếch tán khí trực tiếp qua màng tế bào.


- Ở động vật đa bào cơ quan hô hấp phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp và thích nghi với môi trường sống.


Ở môi trường nước, cơ quan hô hấp là mang và da. Ở môi trường trên cạn
(cả trên không), cơ quan hô hấp là khí quản và phổi. Tuy nhiên vẫn có một số cá
(cá heo) sống ở nước nhưng thở bằng phổi.


<i>4.1.2. Đối với nhóm động vật ở nước</i>


Đợng vật sớng ở nước hô hấp chủ yếu bằng mang. Mang là những màng mỏng
có nhiều mao mạch phân bố đến và đính vào cung mang bằng sụn hay xương,
thường nằm ở vùng phía trước ống tiêu hoá. Mang có bề mặt rộng và khoảng cách
rất ngắn nên O2 và CO2 có thể khuếch tán giữa nước và máu. O2 khuếch tán từ nước
vào biểu bì mang, rời qua thành mao mạch vào máu. CO2 (thường vận chuyển dưới
dạng HCO-<sub>3, bicarbonat) khuếch tán theo hướng ngược lại. </sub>


Mang cá có hình răng lược, có khe hở để nước chảy qua và có nắp đậy kín.
Mang cá có đặc điểm là nước và dòng máu chảy theo các hướng ngược nhau. Nhờ


vậy mà máu có thể thu nhận O2 tới 80% O2 hoà tan trong nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Ở động vật có bề mặt da mỏng, sống ở môi trường ẩm ướt, như giun đất, hoặc
ở bọn lưỡng cư (ếch nhái), O2 khuếch tán qua da rồi vào trong các mao mạch máu
nằm ngay dưới bề mặt da và CO2 theo hướng ngược lại.


<i>4.1.3. Đối với nhóm động vật trên cạn và người</i>


Động vật trên cạn (cả trên không) và người cơ quan hô hấp là khí quản
và phổi.


* Ở côn trùng, hệ thống trao đổi khí là hệ khí quản. Khí quản phân nhánh rất
nhỏ đến từng tế bào để cung cấp O2 và lấy CO2, mà không cần có máu làm trung
gian, nhờ thế mà các mô của cơ thể trao đổi khí trực tiếp với môi trường bên ngoài.
* Từ bò sát đến người sự trao đổi khí xảy ra qua bề mặt hô hấp của phổi. Bộ
máy hô hấp gồm đường dẫn khí và phổi. Đường dẫn khí gồm: khoang mũi, thanh
quản, phế quản và tận cùng của đường hô hấp là phế nang.


Ở động vật có xương sống và người cơ quan hô hấp hình thành từ ớng tiêu
hoá sơ cấp. Chở tiếp giáp giữa đường tiêu hoá và đường hô hấp ở đoạn hầu thành
ngã tư, nên nhiều khi gây tai biến (thức ăn đi nhầm đường vào khí quản, gây sặc;
giun từ thực quản đột nhập vào phổi gây ho ra máu).


Trong bào thai cơ quan hô hấp xuất hiện từ tuần thứ 4 và hình thành ở tháng
thứ 6.


1). Khoang mũi


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Dưới màng nhầy là mạng mạch máu dày có chức năng sưởi ấm không khí. Trong
khoang mũi còn có ba đôi sụn xoăn chia khoang mũi ra ba ngách: ngách thông


trên, ngách thông giữa và ngách thông dưới, các ngách này thông với xoang trán,
xoang hàm trên và xoang sàng, xoang bướm. Cấu tạo này càng làm rộng thêm cho
xoang hô hấp và còn có tác dụng như cơ quan cộng hưởng khi phát âm.


2). Thanh quản


Thanh quản là một phần của cơ quan hô hấp có chức năng phát âm. Cấu
trúc này có thể nhìn thấy ở bên ngoài như là "quả táo Ađam".Thanh quản cấu tạo
bởi các sụn như sụn giáp, sụn nhẫn, sụn phễu, sụn thanh thiệt. Sụn thanh thiết hoạt
động như cái van, đóng lại khi nuốt không cho thức ăn vào khí quản. Niêm mạc lót
mặt trong thanh quản có nhiều tuyến chùm tiết nhầy. Trên lớp tế bào thượng bì
cũng có các lơng thịt rung để đẩy vật lạ ra khỏi đường hô hấp. Trong lòng thanh
quản có khe thanh môn và dây thanh âm, dây thanh âm cấu tạo gồm hai bó mô liên
kết. Khi phát âm, không khí đi ra làm rung dây thanh âm. Mức độ căng của dây
làm tần số rung của dây thay đổi tạo thành âm cao hay âm thấp. Dây càng căng âm
càng cao. Tần số rung của dây thanh âm còn được điều khiển bởi hệ cơ trong thanh
quản. Ở người các âm thanh được tạo ở thanh quản kết hợp với mũi, miệng, hầu và
các xoang tạo thành một hệ cộng hưởng phức tạp, dưới sự điều khiển của hệ thần
kinh chúng đã tạo ra tiếng nói, ở nam các dây thanh âm rộng và dày hơn nữ, do đó
âm thanh phát ra trầm hơn. Khi phát âm còn có sự tham gia của cử động má, môi,
lưỡi.


3). Khí quản và phế quản


Khí quản là một ống gồm 16 – 20 vòng sụn hình chữ C, dài khoảng 10 cm.
Ở thú và người đó là những vòng sụn hở ở phía sau nơi tiếp giáp với thực quản, tạo
điều kiện cho sự nuốt của thực quản và làm cho khí quản cực kỳ đàn hồi, có thể
phồng lên xẹp x́ng theo hoạt đợng của phởi. Hơn nữa vì hai đầu các sụn khí quản
không liền nhau nên đường kính của khí quản tăng lên khi ho, giúp cho khí quản
có thể dễ dàng tống các vật cản ra ngoài. Thành trong của khí quản cũng có nhiều


màng nhầy và lông thịt rung.


Ngang tầm đốt sống ngực IV và V khí quản được chia đôi thành hai phế
quản trái và phải. Đến rốn phổi phế quản phải chia thành ba nhánh đi về ba thuỳ,
còn phế quản trái chia thành hai nhánh đi vào hai thuỳ. Vì tim nằm lệch về phía
trái nên lá phổi trái nhỏ hơn lá phổi phải (khoảng 10/11). Các phế quản chia nhỏ
dần để đi vào từng phế nang, mỗi lần phân chia ống phế quản nhỏ dần và thành phế
quản cũng mỏng dần cho đến khi chỉ là lớp cơ không có sụn bao quanh, đường
kính dưới 1mm. Đó là các phế quản nhỏ, chúng lại tiếp tục phân chia và cuối cùng
kết thúc ở phế nang. Các phế nang sắp xếp thành từng chùm trông giống như chùm
nho và được cung cấp rất nhiều mao mạch. Mỗi phế nang có đường kính chỉ 100
-300mm nhưng hai lá phổi có tới hơn 700 triệu phế nang nên tạo ra một diện tích bề


mặt khoảng 140m2<sub>. Ở đây diễn ra quá trình trao đởi khí qua mợt lớp màng kép</sub>
mỏng (một màng là của phế nang, một màng là của mao mạch). Đường kính mao
mạch ở đây chỉ có 5mm, nên hồng cầu đi qua đây rất chậm, càng tạo điều kiện cho


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Phổi gồm hai lá, là tập hợp của phế nang và phế quản. Phổi khi sờ vào thì
khá chắc nhưng thực tế lại rất đàn hồi. Nó có thể nở ra rất nhiều khi không khí tràn
vào. Mỗi lá phổi được bọc kín bởi màng phổi, đó là màng gồm hai lớp. Lớp phủ sát
trên bề mặt phổi gọi là lá tạng, còn lớp lót mặt trong của thành ngực gọi là lá
thành, giữa hai lá có chứa dịch làm trơn giảm ma sát khi hai màng trượt lên nhau
trong cử động hô hấp.


<b>4.2. Chức năng hô hấp của phổi</b>


<i>4.2.1. Sự thay đổi thể tích lồng ngực trong cử động hô hấp </i>
1). Khi hít vào


Khi hít vào thể tích lồng ngực tăng theo ba chiều: Chiều trên dưới do cơ


hoành co làm hạ thấp xuống 1cm và thể tích lồng ngực tăng thêm 259cm3<sub>, chiều</sub>
trước sau và trái phải do cơ liên sườn (chủ yếu là cơ liên sườn ngoài) làm kéo
xương sườn ra phía trước và đẩy sang hai bên làm tăng đường kích lồng ngực. Khi
hít vào cố sức còn có các cơ như cơ ức đòn chủm để nâng xương ức, cơ răng cưa
lớn, cơ ngực lớn và cơ ngực bé tham gia.


<i>4.2.2. Sự liên quan giữa lồng ngực và phổi – áp lực âm</i>
1). Thành lờng ngực có tính đàn hời


Trạng thái bình thường của thành lồng ngực là khi thở ra. Khi hít vào do các
cơ hô hấp co làm tăng thể tích, sau đó nhờ đàn hồi đưa nó trở về trạng thái ban đầu.
Phởi lại càng có tính đàn hời lớn. Bình thường phổi căng sát thành lồng ngực
cả khi thở ra lẫn khi hít vào. Nguyên nhân này là do áp lực không khí trong xoang
màng phổi và trong phổi tạo nên.


Phổi hoạt động thụ động theo sự tăng giảm thể tích của lồng ngực. Hãy quan
sát thí nghiệm dưới đây của Funker – Donkers:


Ơng dùng mợt bình thuỷ tinh thủng đáy và bịt đáy bằng màng cao su có núm
để kéo xuống hoặc đẩy lên (mô phỏng cho cơ hoành). Miệng bình có nút cao su
kín và cho xuyên qua hai ống thuỷ tinh: ống 1chạc đôi nối với hai lá phổi ếch
(hoặc hai bóng cao su) thông với không khí, ớng 2 có khoá đóng mở. Ở thành bình
mợt phía có lỗ thông được bịt kín bằng màng cao su, phía khác có lỗ để gắn với
một áp kế. Khi đẩy núm ở màng bịt đáy lên cao (tương tự như lúc thở ra) và đóng
khoá ống 2 làm thể tích trong bình


giảm, hai lá phởi xẹp lại, màng cao su ở thành bình phờng ra phía ngoài, đồng
thời áp lực tăng làm mức nước của áp kế ở nhánh ngoài cao hơn nhánh trong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

làm thể tích trong bình tăng, hai phởi căng ra, màng cao su ở thành bên lõm vào,


còn cột nước của áp kế ở nhánh trong cao hơn nhánh ngoài.


Qua thí nghiệm của Funker – Donkers cho thấy phổi hoạt động theo sự tăng
giảm của thể tích lồng ngực và ḿn cho phởi hoạt đợng tăng giảm bình thường đó
thì khoang màng phởi phải ln là mợt khoang kín. Khi bị thủng khoang màng
phổi hoặc trong khoang có nước (bệnh khí hung), phổi không hoạt động được.
Trong thí nghiệm trên khi mở khoá ống 2 làm không khí trong bình và bên ngoài
thơng nhau thì dù đưa lên hay hạ núm ở màng bịt đáy sẽ không có hiện tượng gì
xảy ra (hình 4.3).




2). Áp lực âm


Ở giai đoạn bào thai, hai lá (lá tạng và lá thành) màng phổi dính vào nhau,
chưa tạo khoang màng phổi, cả toàn bộ phổi là một khối không có không khí
(giống như những cơ quan khác). Khi đứa bé vừa ra khỏi bụng mẹ, do vận động
mạnh làm lồng ngực giãn rộng, và phổi cũng nở to dần. Nhưng tốc độ giãn của
lồng ngực nhanh hơn phổi và kéo theo lá thành, còn phổi lại có tính đàn hồi sau khi
giãn đã co lại kéo theo lá tạng, kết quả lá tạng tách ra khỏi lá thành để tạo khoang
màng phổi. Áp lực trong khoang luôn thấp hơn áp lực không khí nên gọi là áp lực
âm, nhờ vậy tạo điều kiện cho không khí vào phổi trong động tác hít vào. Tiếng
khóc chào đời của đứa trẻ được hình thành ngay sau đó (khi có sự tớng khí qua
thanh quản).


Lúc bình thường áp lực này thấp hơn áp lực khí quyển khoảng – 2mmHg đến
– 4mmHg; lúc hít vào khoảng – 8mmHg, khi hít vào cố sức có thể đạt – 15mmHg
đến – 30mmHg. Còn khi thở ra hết sức áp lực này có thể lên – 1mmHg hoặc bằng
0 (nghĩa là áp lực trong khoang bằng áp suất khí quyển). Khi khoang màng phổi
thủng, làm mất áp lực âm, phổi xẹp lại, mất luôn cử động hô hấp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

có như vậy mới đẩy được khí từ phổi ra bên ngoài. Bản thân phổi không phải là mô
cơ nên những thay đổi về áp lực phải đạt được bằng con đường gián tiếp. Cụ thể là
nhờ khoang màng phổi bao quanh mỗi phổi, sự giảm áp lực trong khoang màng
phổi và phổi được truyền tới phổi bởi lá tạng và vì thế mà phởi bị kéo căng ra
chiếm gần như hết khoang lồng ngực


<i>4.2.3. Sự thông khí ở phổi</i>
4.2.3.1. Nhịp thở


Chu kỳ thở gồm động tác hít vào thở ra gọi là nhịp thở. Ở người Việt nam đối
với nữ là 17 ± 3 nhịp/phút, đối với nam là 16 ± 3 nhịp/phút. Ở các loài động vật


khác nhau có nhịp thở khác nhau. Ở gà: 22 – 25; ở vịt: 15 - 18; Ở ngỗng: 9 - 10; Ở
mèo, chó, bò: 10 – 30; Ở trâu: 18 - 21; Ở lợn: 20 – 30 nhịp/ phút nhịp thở còn y
đổi theo trạng thái tâm sinh lý, khi hoạt động mạnh thở nhanh, khi cảm xúc, tăng
nhiệt độ cũng tăng nhịp thở


4.2.3.2. Các thể tích hô hấp


Trong trạng thái bình thường, ở người lớn mỗi lần hít vào cũng như khi thở ra
đo được 0,5 lít, gọi đó là khí lưu thơng. Khi thở ra bình thường, chưa hít vào, mỗi
người có thể thở ra cố sức được khoảng 1,5 lít gọi là khí dự trữ thở ra. Còn khi thở
vào bình thường, chưa thở ra, cũng có thể hít vào cố sức được thêm khoảng 1,5 –
2,5 lít, gọi là khí dự trữ hít vào. Sau khi đã thở ra cố sức vẫn còn một lượng khí tồn
trữ trong phổi khoảng 1 lít gọi là khí cặn, chức năng của khí cặn là đảm bảo cho
đường hô hấp thông suốt.


Tổng số các loại khí: lưu thông, dự trữ thở ra, dự trữ hít vào gọi là dung tích
sống (hay sinh lượng). Đó là lượng khí có thể đo của một lần thở ra cố sức sau khi


đã hít vào cố sức, khoảng 3,5 – 4,5 lít. Tổng số của dung tích sống và khí cặn gọi
là dung lượng phổi


<i>4.2.4. Sự trao đổi khí ở phổi và mô</i>
1).Sự trao đổi khí ở phổi


Trao đổi khí ở phổi diễn ra ở phế nang và máu trong hệ thống mao mạch
phân bố dày đặc đến màng các phế nang theo nguyên tắc khuếch tán do có sự
chênh lệch áp suất của từng loại khí (áp suất riêng phần) được tính theo tỉ lệ %.
Trao đổi khí ở phổi còn gọi là hô hấp ngoài.


Trong phế nang áp suất riêng phần của oxy (Po2 ) là 104mmHg và Po2trong
máu đến phổi là 40 mmHg, do đó O2 từ phế nang khuếch tán sang máu. Ở máu ra
khỏi phổi Po2 xấp xỉ bằng 104mmHg. Trong khi đó Pco2 trong máu đến phổi là
46mmHg, còn trong phế nang là 40mmHg, nên CO2 khuếch tán từ máu sang phổi.


Diện tích bề mặt các mao mạch ở một phổi của người lớn khoảng 60m2<sub>và</sub>
khoảng cách khuếch tán chỉ là 2 - 3mm, nhỏ hơn một nửa đường kính hồng cầu.


Điều này càng tạo điều kiện cho quá trình trao đởi khí giữa phế nang và máu.
Có một điều khá thú vị là, áp lực máu trong các mao mạch phổi luôn rất thấp,
nhờ vậy mà huyết tương không bị thoát ra ngoài và không tập trung lại trong phế
nang. Ngoài ra, phế nang còn có một lớp mỏng chứa phân tử các chất hoạt động bề
mặt phổi - một loại phức hợp phospholipid-protein, giúp cho phế nang không bị
xẹp xuống bằng cách giảm mạnh sức căng bề mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Sau quá trình trao đởi ở phởi, máu đổ về tim, tim co bóp đưa máu đến mô.
Tại đây sự trao đổi cũng tuân theo quy luật khuếch tán phụ thuộc vào áp suất riêng
phần của từng loại khí. Trao đổi khí ở mô còn gọi là hô hấp trong.



Trong máu động mạch đến mô Po2 khoảng 102mmHg, Po2 ở dịch gian bào là
40mmHg, nên O2 từ máu qua dịch gian bào để vào mô. Sự khuếch tán này làm cho
Po2 máu mao mạch chỉ còn 40mmHg được tập trung vào tĩnh mạch đổ về tim.
Trong dịch nợi bào do quá trình trao đởi chất mà Pco2 là 46mmHg và trong dịch
gian bào là 45mmHg. Pco2 trong máu động mạch đến mô là 40mmHg, nên CO2
khuếch tán sang máu, vì vậy máu tĩnh mạch có Pco2 là 46mmHg.


3). Nhận xét


Quá trình phân tích trên cho thấy hiệu số chênh lệch áp suất riêng phần của O2
luôn cao hơn nhiều so với CO2 là do khả năng khuếch tán của CO2 lớn hơn O2 25
lần. Người ta thấy rằng, đối với O2 chỉ cần chênh lệch 35mmHg đã có 6,7ml O2
khuếch tán qua mỗi cm2<sub> màng phế nang trong 1 phút, nghĩa là khoảng 600ml O2</sub>
thấm vào máu trên toàn bộ hai lá phổi. Trong khi đó nhu cầu của cơ thể lúc bình
thường là 256 – 400mlO2 trong 1 phút, còn khi lao động nặng thì cần 400 – 500ml.
Do vậy mức chênh lệch 64mmHg (ở phổi) của O2 luôn đảm bảo nhu cầu cho cơ
thể. Đối với CO2 chỉ cần chênh lệch 0,03mmHg cũng đủ làm khuếch tán 256ml
CO2 trong 1 phút, nên với mức chênh lệch 6mmHg (ở phổi) đã thoả mãn nhu cầu
thải CO2 ra khỏi cơ thể.


Tóm lại máu mao mạch đến phổi chứa 10 – 12% O2 (tương đương với 66%
mức bảo hoà) và 5,5 – 5,7% CO2. Còn máu đến mô chứa 18 – 20% (ngang mức
96% bảo hoà) và chỉ còn lại 5,0 – 5,2% CO2.


<i>4.2.5. Sự vận chuyển oxy và cacbonic của máu</i>
1). Sự vận chuyển Oxy


Oxy được vận chuyển theo máu dưới hai dạng: dạng hoà tan (tự do)
và dạng kết hợp.



* Dạng hoà tan: Khả năng hoà tan của O2 trong máu rất thấp và phụ thuộc vào
áp suất riêng phần của nó. Nếu ở máu động mạch Po2 là 104mmHg thì lượng O2
hoà tan là 0,3ml/100ml máu. Khi Po2 ở tĩnh mạch còn lại 40mmHg thì chỉ có
0,12ml/100ml máu. Như vậy cứ 100ml máu vận chuyển đến mô chỉ còn 0,3ml –
0,12ml = 0,18ml O2, chỉ chiếm 2 – 3% lượng O2 đưa đến mô, trong lúc đó dưới
dạng kết hợp với Hb đã cung cấp cho mô 5ml/100ml máu, chiếm 97 – 98%.


Khả năng của O2 có thể hoà tan ở mức 29ml/100ml máu khi Po2 đạt
3000mmHg, nhưng khi đó sẽ gây hiện tượng co giật gây phù phổi nặng (gọi là
trúng độc O2). Do vậy khi truyền oxy, cần chú ý để duy trì Po2 ở mức 1000mmHg.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Phân tử Hb gồm 4 chuỗi polypeptide, 2 chuỗi a và 2 chuỗi b. Mỗi chuỗi chứa


một nhóm sắc tố đặc biệt là nhóm hem. Mỗi nhân hem có chứa 1 nguyên tử sắt 2
(Fe++<sub>) ở trung tâm. Mỗi nguyên tử Fe kết hợp với 1 phân tử O</sub><sub>2, nghĩa là 1 phân tử</sub>
Hb kết hợp thuận nghịch được 4 phân tử oxy.


Phản ứng giữa Hb với oxy thường được viết tổng quát như sau:
Thực chất là phản ứng Hb kết hợp với 4 phân tử O2 như sau:


Oxy khi liên kết với nguyên tử sắt được gắn một cách lỏng lẻo để tạo thành
hợp chất oxyhemoglobin. Mỗi gam Hb có khả năng gắn tối đa là 1,34ml O2, mà
trong 100ml máu có khoảng 15g Hb, do đó thể tích O2 ở dạng liên kết là:


1,34ml ´ 15 = 20 ml O2 /100ml máu


Như vậy khi áp suất riêng phần của oxy ở mức 100mmHg (ở phổi), số lượng
O2 kết hợp với Hb là 20ml,còn khi áp suất riêng phần của O2 là 40mmHg (ở mô),
số lượng O2 kết hợp là 15ml. Nghĩa là lượng O2 được giải phóng từ 100ml máu khi
đến mô là 5ml ( 20 – 15 = 5ml).



Trong trường hợp khi hoạt động mạnh cơ thể cần nhiều oxy nên Po2 ở mơ
giảm còn 15mmHg, vì vậy mà lượng O2 kết hợp với Hb là khoảng 5ml, và như vậy
100ml máu động mạch cung cấp cho mô lượng O2 tăng gấp 3 lần (20 – 5 = 15ml
O2). Mặc dù sự phân ly hợp chất HbO2 tăng lên do áp suất riêng phần của O2 giảm
nhưng O2 vẫn không đủ cho cơ thể, khi hoạt động mạnh và kéo dài nhu cầu O2 của
cơ thể tăng lên 15 lần. Trong trường hợp này nhờ lưu lượng tim tăng lên 5 lần nên
nhu cầu O2 cơ thể vẫn được đảm bảo (3 ´ 5 = 15 lần).


2). Sự vận chuyển cacbonic


CO2 được vận chuyển trong máu cũng dưới hai dạng: dạng hoà tan và
dạng kết hợp.


* Dạng hoà tan


Ở mô, khí CO2 được sinh ra trong quá trình trao đởi chất mợt phần đã kh́ch
tán vào máu dưới dạng hoà tan, chiếm khoảng 4% toàn bộ khí CO2 về phổi.


* Dạng kết hợp


Trong máu CO2 có những dạng kết hợp sau:


- CO2 kết hợp với H2O của huyết tương tạo H2CO3 và acid này lại phân ly
ngay cho H+<sub> và HCO3</sub>-<sub>. Dạng vận chuyển CO2 dưới dạng ion bicacbonat này không</sub>
nhiều, trong 100ml máu chỉ có khoảng 0,1 – 0,2mlCO2 được vận chuyển, chiếm
khoảng 3 – 4%.


- CO2 kết hợp với H2O trong hồng cầu, phản ứng xảy ra giống như ở huyết
tương, có điều lượng CO2 được vận chuyển dưới dạng ion bicacbonát chiếm đến


70% tổng số CO2, tức là khoảng 3ml trong 100ml máu. Phản ứng kết hợp giữa CO2
với H2O trong hồng cầu nhờ một enzyme carbonicanhydrase của hồng cầu xúc tác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- CO2 kết hợp trực tiếp với Hb tạo ra carbohemoglobin (HbCO2). Đây cũng là
phản ứng thuận nghịch. Phản ứng xảy ra cũng phụ thuộc vào áp suất riêng phần
của CO2. Sự kết hợp xảy ra ở máu mao mạch của mô và phân ly ở mao mạch phổi.


Tổng số khí CO2 vận chuyển theo dạng này chiếm khoảng 23%, tức là khoảng
1,5mlCO2 trong 100ml máu. Ngoài ra còn một lượng nhỏ CO2 được vận chuyển
dưới dạng kết hợp với protein của huyết tương (hình 4.4).


<b>4.3. Sự điều hồ hơ hấp</b>
<i>4.3.1. Sự điều hồ thần kinh</i>
4.3.1.1. Các trung khu hô hấp
* Các trung khu ở tuỷ sống:


- Sừng xám của tuỷ sống ở đốt sống cổ III – IV điều khiển cơ hoành
- Sừng xám của tuỷ sống ở đốt ngực điều khiển cơ liên sườn


- Trung khu điều chỉnh hô hấp (pneumotaxic) nằm ở phía trên mặt lưng của
cầu não, có tác dụng kìm hãm trung khu hít vào ở hành tuỷ. Nếu có xung ức chế
mạnh từ trung khu này xuống hành tuỷ sẽ làm cho động tác hít vào ngắn gây tăng
nhịp thở, còn nếu xung ức chế đi x́ng ́u thì đợng tác hít vào dài, nhịp hô hấp
chậm lại.


- Trung khu “ngừng thở” (apneustic), nằm ở phía dưới mặt lưng của não cầu,
chức năng chưa rõ lắm nhưng khi kích thích thì gây động tác hít vào kéo dài, thỉnh
thoảng có phản ứng thở hắt ra nhanh, và cũng có thể gây ngừng thở khi hít vào tối
đa.



- Trung khu hít vào ở phía lưng của hành tuỷ gần cuối não thất IV. Trung khu
này có các neuron phát nhịp tự động.


- Trung khu thở ra nằm gần trung khu hít vào về phía trước hành tuỷ (hình
4.5A).


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Người ta tìm thấy các thụ quan áp lực phân bớ trong phế quản, tiểu phế quản
để cảm nhận mức căng giãn của phổi. Hering – Breuer đã làm thí nghiệm ở động
vật và cho thấy khi làm phổi căng lên sẽ gây động tác thở ra, ngược lại khi làm
phổi xẹp xuống sẽ gây hít vào. Sự căng lên của phổi đã kích thích vào các thụ quan
áp lực trong phổi , thông qua dây X gây ra phản xạ thở ra gọi là phản xạ Hering –
Breuer.


Bình thường các tế bào thần kinh của trung khu hít vào ở hành tuỷ hưng phấn
một cách tự động, các xung từ đây đi về tuỷ sống đến các cơ hít vào (cơ hoành và
cơ liên sườn ngoài)sẽ gây động tác hít vào. Và đồng thời khi trung khu hít vào
hưng phấn còn có các xung đi lên trung khu ức chế (pneumotaxic) ở não cầu, trung
khu này hưng phấn sẽ gửi xung xuống trung khu thở ra của hành tuỷ để kích thích.
Sau động tác hít vào phổi căng lên làm kích thích các thụ quan áp lực trong phổi,
từ đây xung hướng tâm theo dây X về trung khu thở ra. Khi tiếp nhận xung của
trung khu hít vào do trung khu ức chế ở não cầu đưa xuống, trung khu thở ra đã
dần chuyển sang trạng thái hưng phấn, bây giờ nhận tiếp xung do dây X đưa đến
càng làm cho trung khu thở ra hưng phấn hoàn toàn để gây ra động tác thở ra
(xung động chuyển đến gây co cơ liên sườn trong). Chính lúc này trung thở ra lại
gửi xung sang trung khu hít vào để ức chế hoạt động hít vào. Động tác hít vào
ngừng lại làm phổi bị xẹp. Các thụ quan áp lực ở phổi không hưng phấn, không có
xung theo dây X lên kích thích trung khu thở ra, trung khu thở ra không hưng phấn
làm động tác thở ra chấm dứt. Và cùng vì khơng hoạt đợng mà trung khu thở ra
khơng gửi xung ức chế sang trung khu hít vào nữa, trung khu hít vào được tự do và
lại hoạt động tự động để tạo ra động tác hít vào kế tiếp, bắt đầu một chu kỳ mới.



Như vậy phản xạ hơ hấp bình thường bao gờm đợng tác hít vào, thở ra kế tiếp
nhau thành một nhịp thở có tính chu kỳ.


* Vỏ não có thể gây ra phản xạ hô hấp tuỳ ý như nín thở, hoặc chủ động thở
liên tục, hoặc khi cảm xúc mạnh gây nín thở, thở gấp… Tuy nhiên “ý muốn” có
giới hạn nhất định


<i>4.3.2. Sự điều hoà thể dịch</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

hoá học, còn trong hành tuỷ thì có trung khu tiếp nhận xung từ các thụ quan hoá
học đó về. Trung khu này nằm phía trước hành tuỷ, ngang với trung khu hít vào.


4.3.2.1. Áp suất riêng phần của O2


Khi Po2 trong máu giảm sẽ kích thích các tế bào thụ cảm hoá học. Các xung từ
xoang động mạch cảnh qua nhánh Hering của dây số IX (dây lưỡi hầu), từ cung
động mạch chủ qua nhánh Cyon của dây số X đến trung khu ở hành tuỷ để tăng
cường hô hấp. Trong đó các xung từ xoang động mạch cảnh quan trọng hơn.


4.3.2.2. Áp suất riêng phần của CO2


Khi nồng độ CO2 trong máu cao sẽ tăng cường tạo H2CO3, hợp chất này nhanh
chóng phân ly tạo H+ <sub>và HCO3</sub>-<sub>. Ion H</sub>+<sub> tăng sẽ tác động lên tế bào thụ cảm hoá học</sub>
ở xoang động mạch chủ và nhất là ở xoang động mạch cảnh để từ đó có xung lên
trung khu hành tuỷ làm tăng cường hô hấp. Và ion H+<sub> cũng tác động đồng thời lên</sub>
trung khu tiếp nhận hoá học ở hành tuỷ, gây hưng phấn trung khu hô hấp của hành
tuỷ.


Người ta thấy rằng ngay cả khi nồng độ ion H+<sub> chỉ hơi tăng lên một ít cũng đã</sub>


kích thích các tế bào nhận cảm hoá học, chứng tỏ các tế bào thụ cảm này rất nhạy
cảm với ion H+<sub>, nên nồng khí CO2 trong máu là yếu tố chủ yếu điều hoà sự trao đổi</sub>
khí.


Sự thiếu O2 chỉ làm cho hô hấp tăng tối đa là 65%, còn khi thừa CO2 có thể
làm tăng hô hấp lên 80 lần so với bình thường (800%).


Trong thí nghiệm “tuần hoàn chéo” trên hai con chó sẽ thấy rõ tác dụng của
sự thừa CO2 đối với hô hấp. Gây mê và mổ tách hai động mạch cảnh của mỗi con.
Cắt và nối chéo một động mạch cảnh phần thân của con thứ nhất với động mạch
cảnh phần đầu của con thứ hai và ngược lại. Còn động mạch kia của mỗi con được
kẹp lại. Như vậy đầu con thứ nhất được nuôi bằng máu của con thứ hai và ngược
lại. Sau đó bịt khí quản con thứ nhất hoặc cho thở khí CO2 sẽ làm cho con thứ hai
thở gấp vì lượng CO2 trong máu con thứ nhất tăng lên được đến đầu con thứ hai,
trong khi đó con thứ nhất (bị nghẹt) vẫn thở bình thường vì nó được ni bằng máu
bình thường của con thứ hai (hình 4.6).


4.3.2.3. Các ́u tớ khác ảnh hưởng đến hô hấp


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

động truyền về trung khu hô hấp ở hành tuỷ làm tăng cường hay ức chế hoạt động
hô hấp.


* Cảm giác đau có thể gây ra trạng thái thở nhanh, hay chậm hoặc ngừng thở
phụ thuộc vào tính chất, cường độ, nguyên nhân, thời gian tác dụng của cảm giác
đau.


* Nhiệt độ cao cũng gây thở nhanh, nguyên nhân có thể do trung khu điều
nhiệt ở vùng dưới đồi (hypothalamus) bị kích thích gây hạ thân nhiệt trong đó có
hô hấp. Nhiệt độ lạnh đột ngột có thể làm ngừng thở, sau đó lại thở nhanh một thời
gian.



* Phản xạ ho và hắt hơi: khi màng nhầy khoang mũi bị kích thích sẽ gây phản
xạ co phế quản để có động tác hít vào sâu và chậm, nhưng tiếp đó là động tác thở
ra nhanh, mạnh gọi là phản xạ hắt hơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i><b>KINH DOANH (Cơng nghệ 10)</b></i>
<i><b>Ai có thể đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh ?</b></i>


Cá nhân là công dân Việt Nam có thể đăng ký kinh doanh hội kinh doanh. Cá
nhân này đủ 18 tuổi, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Một
nhóm người hoặc một hợ gia đình cũng có thể đăng ký kinh doanh loại hình doanh
nghiệp hợ kinh doanh.


<i><b>Trách nhiệm tài chính của chủ Hộ kinh doanh ?</b></i>


<i><b> Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản </b></i>
nợ của hợ kinh doanh. Điều này có nghĩa nếu việc kinh doanh thất bại, chủ hộ
kinh doanh sẽ phải sử dụng các tài sản cá nhân của mình (tiền, nhà, đất, xe ôtô,
v.v.) để trang trải các khoản nợ của hộ kinh doanh.


<i><b>Hộ kinh doanh được phép sử dụng bao nhiêu lao động ?</b></i>


<i><b> Một hộ kinh doanh được phép sử dụng không quá 10 lao động. Hộ kinh doanh </b></i>
sử dụng hơn 10 lao động phải đăng ký kinh doanh dưới mợt trong các hình thức
doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp, gồm: doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh.


<i><b>Một Hộ kinh doanh có thể có bao nhiêu địa điểm kinh doanh ?</b></i>


<i><b> Một hộ kinh doanh chỉ được phép đăng ký một địa điểm kinh doanh trên phạm vi</b></i>


toàn quốc. Hộ kinh doanh nếu muốn hoạt động kinh doanh tại hai địa điểm kinh
doanh trở lên phải đăng ký kinh doanh dưới mợt trong các hình thức doanh nghiệp
được quy định tại Luật Doanh nghiệp.


<i><b>Hộ kinh doanh có được phép sở hữu và sử dụng con dấu hay không ?</b></i>
<i><b> Không. Hộ kinh doanh không được quyền làm và sử dụng con dấu. </b></i>


<i><b>Đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh tại đâu ?</b></i>


<i><b> Bạn cần gửi hồ sơ đăng ký đến Phòng đăng ký kinh doanh cấp Huyện nơi đặt địa </b></i>
điểm kinh doanh, sau khi đã hoàn thành đầy đủ tất cả các hồ sơ đăng ký kinh
doanh theo yêu cầu.


<i><b>Hồ sơ đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh gờm các tài liệu gì ? </b></i>


Giấy đề nghị đăng ký kinh doanhHộ kinh doanh. Mẫu giấy đề nghị được
cung cấp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh.


Bản sao giấy chứng minh nhân dân của cá nhân hoặc đại diện hộ kinh doanh
<i><b>Các thông tin cần cung cấp trong Hồ sơ đăng ký kinh doanh ? </b></i>


Tên hộ kinh doanh, địa chỉ địa điểm kinh doanh
Ngành, nghề kinh doanh


Số vốn kinh doanh


Tên đầy đủ, số và ngày cấp chứng minh nhân dân của chủ hợ kinh doanh hoặc
đại diện hợ gia đình


Địa chỉ nơi cư tú của cá nhân hoặc đại diện hợ gia đình


Chữ ký


<i><b>Có nhất thiết phải đặt tên cho Hộ kinh doanh hay không ?</b></i>
<i><b> Có. Tất cả các hộ kinh doanh đều phải có tên.</b></i>


<i><b>Có quy định về việc đặt tên Hộ kinh doanh hay không ? </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Tên riêng hộ kinh doanh phải bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký
hiệu và phải phát âm được. Không được sử dụng các từ ngữ, ký hiệu vi phạm
truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.


Tên riêng hộ kinh doanh không được trùng với tên riêng của hộ kinh doanh
khác đã đăng ký trong cùng phạm vi huyện nơi bạn dự định đặt địa điểm kinh
doanh. Do đó, bạn cần kiểm tra tên đã đăng ký của tất cả các hộ kinh doanh đang
hoạt đợng trong hụn mình trước khi đặt tên. Nếu tên bạn đinh đặt cho hộ kinh
doanh của mình trùng với mợt tên hợ kinh doanh đã đăng ký, giấy xin đăng ký
kinh doanh của bạn sẽ khơng được chấp nhận.


<i><b>Có thể thành lập Hộ kinh doanh hoạt động trong các ngành, nghề theo </b></i>
<i><b>pháp luật địi hỏi phải có giấy phép hành nghề hay không ? </b></i>


Có. Trong trường hợp này, bạn cần gửi bản sao giấy phép hành nghề của cá
nhân hoặc đại diện hợ gia đình kèm theo hồ sơ đăng ký kinh doanh đến cơ quan
đăng ký kinh doanh.


<i><b>Có thể thành lập Hộ kinh doanh hoạt động trong các ngành, nghề theo </b></i>
<i><b>pháp luật đòi hỏi phải có vớn pháp định hay khơng ?</b></i>


<i><b> Có. Trong trường hợp này, bạn cần gửi bản sao hợp lệ giấy xác nhận vốn pháp </b></i>
định do cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền cấp kèm theo hồ sơ đăng ký kinh


doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh.


<i><b> Mất bao lâu để đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh ? </b></i>


Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện sẽ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho bạn trong vòng 5 ngày kể từ ngày bạn nộp giấy xin đăng ký kinh doanh
nếu: ngành, nghề kinh doanh của bạn không nằm trong danh sách các ngành, nghề
kinh doanh bị cấm (sản xuất pháo nổ, súng, v.v.); tên hộ kinh doanh của bạn thoả
mãn các yêu cầu về đặt tên doanh nghiệp; bạn đóng đầy đủ lệ phí đăng ký kinh
doanh; giấy xin đăng ký kinh doanh của bạn được điền đầy đủ và các giấy tờ kèm
theo trong hồ sơ đăng ký kinh doanh được nộp đầy đủ.


Khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu đăng kí kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh
sẽ cấp cho bạn giấy biên nhận, ghi rõ ngày nộp hồ sơ. Nếu các nội dung trong hồ
sơ yêu cầu đăng ký kinh doanh không đầy đủ theo quy định, cơ quan đăng ký kinh
doanh sẽ gửi thông báo bằng văn bản yêu cầu bạn chỉnh sửa hoặc bổ sung hồ sơ
trong vòng 5 ngày làm việc. Trong thông báo này, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ
chỉ rõ nội dung cần chỉnh sửa hoặc bở sung.


<i><b>Loại hình kinh doanh hộ gia đình nào được phép miễn trừ việc đăng ký </b></i>
<i><b>kinh doanh ?</b></i>


Hộ gia đình sản x́t nơng, lâm, ngư nghiệp, làm ḿi và những người bán
hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập
<i>thấp không phải đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề </i>
có điều kiện.


Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức thu
<i>nhập thấp trên phạm vi địa phương. Mức thu nhập thấp được quy định không </i>
được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp


luật về thuế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i><b>Các quy định áp dụng cho việc đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh ?</b></i>
Luật Doanh nghiệp 2005; Nghị định 88/2006/NÐ-CP ngày 28/8/2006 của
Chính phủ về đăng ký kinh doanh; Thông tư 03/2006/TT-BKH ngày 19/10/2006
của Bộ Kế hoạch Đầu tư hướng dẫn một số nội dung về hờ sơ, trình tự, thủ tục
đăng ký kinh doanh theo quy định tại Nghị định 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh
doanh.


<i><b>Các thơng tin hữu ích về khởi sự doanh nghiệp ? </b></i>


Nếu có kế hoạch thành lập Hộ kinh doanh, bạn nên tham khảo các phần Lời
khuyên Kinh doanh được cung cấp tại Cởng thơng tin này. Bạn có thể tìm thấy các
thông tin hữu ích như:


 Lập kế hoạch kinh doanh


 Một số lỗi thường gặp mà doanh nhân mới lập nghiệp nên tránh
 Quản lý các nghĩa vụ về thuế


 Marketing


 Quản lý nhân công
 Quản lý chất lượng




</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>Em có một tình huống kinh doanh thế này :</b>


1.Điều kiện nơi kinh doanh : Thị trấn khá fát triển, sát thành phố lớn. Cách


biển 30km. Nơi kinh doanh sát trung tâm thị trấn, gần chợ


2.Vốn kinh doanh <50 tr
3. Nhân lực : 2 vợ chồng >50t


4.Mặt bằng quán rộng 30m2 sát đường lớn.


5.Một số thông tin khác :dân cư chủ yếu là KD nhỏ, viên chức...Trong thị trấn
có 1 trường CI,CII và CIII, có khoảng 3-4 cửa hàng KD điện tử , xe máy khá lớn,
có hai hiệu sách+tạp phẩm khá lớn. Có sông và ngoài ra một số nhà máy : khí công
nghiệp, gia công, may mặc....Gần một Khu cơng nghiệp tầm cỡ...\


Với những đk trên thì người KD sẽ bắt đầu thế nào và sẽ chọn gì để KD?
Hướng fát triển ra sao?


<b>1 kiểu kinh doanh điển hình:</b>


Mua bàn ghế, lắp mạng, mua thêm 7 cái máy vi tính loại bình thường ( 6 triệu
1 cái), lắp thêm cái biển, tổng cộng chắc cũng chỉ đến 45 triệu thôi. Còn dư tiền,
đầu tư 1 cái quầy hàng nho nhỏ, bán mấy cái đồ ăn lặt vặt như snack, nước ngọt...


Tính trung bình, mỗi máy chạy khoảng 7 tiếng 1 ngày thôi, mỗi tiếng kiếm 3
ngàn từ 1 máy, vậy là 1 tháng, có khoảng 3x7x7x30= 4,4 triệu. Trừ tiền điện, thuê
bao net, cũng còn dư khoảng 2 - 2,5 triệu.


Tất nhiên, đấy chỉ là trwonfg hợp quá bình thường, với 1 lượng khách cũng
bình thường. Còn nếu đơng hơn, 1 máy chạy 10 tiếng 1 ngày, thì mọi chuyện sẽ
khác.. Còn chưa tính đên skhoản bán mấy đồ lặt vặt kia.


Nói chung, em xét thấy, đây là công việc khá nhàn nhã, phù hợp với các bác


lớn tuổi. Thu nhập cũng ổn, lại khống pahỉ lo nghĩ, tính toán nhiều. Thêm vào đó,
nếu 1 thừoi gian sau, các bác mệt, hay con cháu muốn xin lại mặt bằng để kinh
doanh j đó, thì các bác cũng có thể thanh lý số máy tính đó. Sau 2 năm, giá 1 chiếc
máy của các bác có thể bán được khaỏng 2,5 triệu. 7 máy, vị chi thu về gần 20
triệu, thế là ngon rồi...




</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i><b>1.</b></i> <i><b>Chế biến chè xanh </b></i>


Nguyên liệu để chế biến chè xanh là những giống chè lá to, búp mập, hái đúng
tiêu chuẩn 1 tôm 2 lá, 1 cá 2 chừa, thủy phần cao, thu hái vào buổi sáng sớm, phía
ngoài mặt lá có nước. Sau khi thu hái, lá chè được cần để tự nhiên trong khoảng
4-6 giờ.


Diệt men: trước tiên bà con nhúng lá chè vào nước sôi (chần chè) trong 1-2
phút rồi vớt ra, để ráo nước và làm nguội nhanh, ép nước cho bớt lượng nước ở lá
chè. Bà con có thể sao diệt men chè bằng thùng quay tay.


Việc sao chè được tiến hành bằng thiết bị thùng quay hoặc chảo có nhiệt độ
dưới 220oC. Ở điều kiện này chỉ sau 4 phút là enzim bị triệt tiêu hoàn toàn trong lá
chè. Khi sao diệt men cần đốt to lửa, dùng tay quay trống với tốc độ 25-30
vòng/phút trong khoảng 3-5 phút cho trống nóng đều tới 250-280oC rồi cho nhanh
chè vào trống, vừa cho chè vào vừa quay cho trống đảo chè, mỗi mẻ sao cho 5-7kg
chè tươi từ 7-10 phút. Khi sao xong cần quay nhanh trống theo ngược chiều lại để
lấy chè ra và rải đều trên sàn làm nguội nhanh chè.


Vò chè xanh: Có thể vò chè bằng thủ công hoặc máy chuyên dùng. Sau khi
chè được sao diệt men và làm nguội sẽ được cho vào thùng vò. Bà con chỉ cần
đóng động cơ điện là thùng vò sẽ quay theo chiều kim đồng hồ, khi đó khối chè


trong thùng sẽ được chà xát với gân và đảo trộn liên tục, các lá chè bị vò giập và
cuộn lại. Khi chè vò xong, hứng thúng dưới mâm vò rồi mở nắp ở giữa mâm phía
dưới trong khi vẫn cho mát chạy để chè rơi ra. Bà con không quên sàng lại cho tơi
các cục lá chè vón và làm nguội chè. Sau khi vò chè, cánh chè phải thật xoắn và độ
dập của lá chè đạt tỷ lệ 45-55%.


Chè vò xong được chuyển qua chảo để sao khô hoặc có thể cho vào máy sấy,
lò sấy. Giai đoạn đầu có thể sấy hoặc sao khô ở nhiệt độ 85-90oC trong 10-15 phút
để độ ẩm còn lại trong chè khoảng 20%. Giai đoạn sau sao khô hoặc sấy ở nhiệt độ
60-70oC trong hơn 1 giờ hoặc hạ thấp nhiệt độ, kéo dài thời gian lâu hơn để đảm
bảo hương vị của chè và giữ độ xoắn của cánh chè, độ ẩm cuối cùng của lá chè
xanh từ 4-6%.


<i><b>2.</b></i> <i><b>Chế biến chè đen truyền thống. </b></i>


Để tạo điều kiện cho quá trình lên men của chè đen thuận lợi, quá trình bay
hơi nước của lá chè phải được tiến hành ở nhiệt độ thấp. Lá chè sau khi thu hoạch
về được trải thành những lớp mỏng có độ dày 1,5-2kg/m2 để làm héo tự nhiên
trong khoảng 10-12 giờ, tùy thuộc vào độ ẩm không khí, sao cho độ ẩm còn lại
trong lá chè 62-63% (với chè non) và 64-67% (với chè già).


Vò chè đen được tiến hành 3 lần, mỗi lần khoảng 45 phút. Sau mỗi lần vò,
sàng phân loại chè để tách những phần chè nhỏ lọt sàng đưa lên men trước, phần
chè to không lọt qua sàng tiếp tục vò, khi lá chè đã xoắn chặt là được. Vò chè thực
chất là giai đoạn đầu của quá trình lên men vì ngay khi tế bào lá bị vò dập, men
trong lá chè đã tiếp xúc với oxy khơng khí và diễn ra quá trình ngưng tụ các hợp
chất phenol.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Lên men xong, chè được sấy khô (không được phơi hoặc sao) trong các máy sấy ở
nhiệt độ 90oC trong 15 phút đầu, sau đó hạ nhiệt độ xuống 80oC sấy thêm 15 phút


nữa. Độ ẩm cuối cùng của chè đen đạt 4-6% là đạt chất lượng cà phê


Mỗi quốc gia có cách thu hoạch riêng và cho đến nay vẫn chưa có cách
nào hái trái bằng máy vì cà phê khơng cùng chín một lượt nên phải hái làm
nhiều đợt. Về việc chế biết người ta phân biệt hai cách Ướt và Khô. Cà phê chế
biến theo kiểu Ướt thơm ngon hơn cách làm Khô.


Về cách Ướt người ta rửa trái cà phê, sau đó bỏ vào máy để chà cho hết
lớp thịt bên ngoài. Sau đó hột cà phê được ngâm trong nước cho tróc vỏ và để
cho lên men trong khoảng 12 đến 24 giờ. Trái cà phê lại được rửa bằng nước
sạch cho đến lúc trôi hết lớp vỏ để nước thành trong. Trái cà phê khi đó mới
được đem ra phơi dưới nắng hay cho vào máy sấy. Sau cùng được đưa vào máy
xay cho tróc lớp vỏ cứng bên ngoài để chỉ còn hạt màu xanh. Những loại cà phê
của Columbia, Costa Rica và Kenya làm theo lối Ướt.


Cách Khô là cách thông dụng hơn và cũng cổ điển hơn. Sáu mươi phần
trăm cà phê trên thế giới điều chế theo cách này. Cà phê được rửa rồi trải ra
phơi nắng từ 2 đến 3 tuần, hàng ngày phải cào cho khô đều. Sau khi khô hẳn, cà
phê được đưa vào máy xay cho tróc vỏ cứng và lớp da mỏng bao quanh hột ra.
Riêng tại Yemen và Ethiopia, trái cà phê để khô trên cây cho tới khi rụng xuống
những tấm bạt trải dưới gớc. Cũng có khi vì nóng lòng, người ta rung cây cho
mau rụng. Sau đó họ theo phương pháp Khô như ở trên. Người sành điệu chỉ
cần nhấp môi là biết cà phê được chế biến theo cách nào.


Sau khi đã có được hột cà phê xanh, lúc ấy người ta mới phân loại và vô
bao, đóng dấu nơi trồng, hãng sản xuất và sẵn sàng chở đến những nơi đặt mua
trên thế giới.





</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Ruột già, nơi chứa các cặn bã thối rữa là một nguồn gây nhiễm độc dần dần và
liên tục cho cơ thể. Các vi khuẩn gây thối trong ruột cần môi trường kiềm để tồn
tại và phát triển. Metchnikoff đã dùng sữa chua để acid hóa môi trường ruột, hạn
chế các vi khuẩn có hại này. Mặt khác lợi dụng được quy luật đấu tranh sinh tồn
của tự nhiên - các vi khuẩn lên men lactic được đưa vào ruột sẽ cạnh tranh với vi
khuẩn gây thối và lấn át các vi khuẩn này. Bởi vậy theo "thút sớng lâu" của ơng
thì sữa chua có tác dụng chống lão hóa.


<i> Giảm Cholesterol, hạn chế rối loạn đường ruột </i>


Mấy năm trước đây ông Stelli Hililen, nhà nghiên cứu người Mỹ đã thí
nghiệm cho những con lợn ăn thực phẩm chứa hàm lượng cholesterol cao, rồi cho
chúng ăn sữa chua thì thấy cholesterol trong máu chúng giảm 2 lần so với những
con lợn đối chứng chỉ ăn sữa thường. Các nhà khoa học Pháp ở trường đại học
Tổng hợp Lille thì nghiên cứu thấy các trường hợp rới loạn đường ruột giảm nhiều
ở những bệnh nhân được ăn sữa chua. Và họ khuyên những người mắc bệnh đường
ruột đang phải điều trị bằng kháng sinh, nên ăn sữa chua suốt thời gian điều trị để
bảo vệ hệ vi khuẩn có ích, qua đó làm giảm tác dụng phụ do sử dụng thuốc kháng
sinh.


<i> Làm tăng interferon </i>


Theo BS. David Kessler viết trong cuốn "Chỉ dẫn về thức ăn chữa bệnh" thì
Lactobacillus acidophilus - những vi khuẩn đã biến sữa thành yaourt dường như có
thể làm tăng số interferon gamma giúp hệ miễn dịch đấu tranh chống lại bệnh tật.
Những phụ nữ đang mắc bệnh nấm Candida tái phát liên tục, nếu thường xuyên ăn
sữa chua có chứa những men vi sinh hoạt động, có thể làm giảm đáng kể những vi
nấm bất trị này. Ngoài ra, nó còn có tác dụng làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng trong
điều trị bệnh viêm âm đạo do vi khuẩn.



<i> Giảm viêm loét dạ dày </i>


Thông thường người ta cho rằng những thức ăn chua có hại cho người bệnh
loét dạ dày - hành tá tràng, vì nó làm tăng lượng acid dễ gây viêm loét nặng hơn.
Thế nhưng nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh dùng sữa chua lại có ích
trong việc phòng và chữa bệnh dạ dày:


- Thứ nhất là số lượng và nồng độ acid có trong sữa chua là không đáng kể, so
với lượng acid trong dịch vị; ngược lại acid lactic trong sữa chua lại có tác dụng
kìm hãm sự phát triển của Helicobacter pylori (vi khuẩn thủ phạm gây viêm loét dạ
dày).


- Thứ hai là tác dụng cạnh tranh sinh tồn, những vi khuẩn lên men chua
(Lactobacteriacae) sẽ bám vào niêm mạc đường tiêu hóa cạnh tranh thức ăn và chỗ
bám, tiết ra chất kháng sinh tự nhiên, tăng cường miễn dịch tại chỗ, qua đó kìm
hãm sự phát triển của H.Pylori, giúp cơ thể người loại trừ được vi khuẩn có hại
này.


<i> Ngăn ngừa lỗng xương</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

mợt nửa khẩu phần canxi hàng ngày. Ngoài ra, sữa chua còn có thể dùng cho người
bệnh tiểu đường vì nó có ít chất glucid và làm giảm được cơn khát.


Ngày nay ở Nga, các nước SNG, Pháp, Mỹ, Bungari và nhiều nước khác, sữa
chua là món ăn ngon hợp vệ sinh được nhiều người ưa chuộng, ăn hàng ngày vào
buổi trưa, tối. Sữa chua cũng đang phổ biến ở nước ta. Nhưng có điều cần lưu ý là
dùng loại sữa chua không qua tiệt trùng mới bảo vệ được các vi khuẩn họ
Lactobacteriace còn sống, nhằm phát huy được đầy đủ các tác dụng hữu ích.


Về mặt kỹ thuật, có nhiều cách chế biến, nhưng tất cả đều phải từ sữa. Sau


khi pha chế theo một tỷ lệ nhất định sao cho vừa bảo đảm độ đặc của sữa, an toàn
về mặt vệ sinh; người ta cho vào trong hộp, lọ hoặc bọc nylon và từ đó còn phải
trải qua nhiều công đoạn khác sữa mới trở thành sữa chua thật sự. Sau đó người ta
cho vào tủ lạnh để vừa bảo quản vừa tạo thêm cảm giác dễ chịu khi ăn. Những hũ,
bọc sữa chua cứng quá sẽ khó ăn; còn nếu lỏng quá cũng sẽ mất ngon. Do đó, ăn
sữa chua vừa đông tới là ngon nhất. Ðiều chúng tôi lưu ý, là ngày nay nhiều cơ sở
chế biến sữa chua theo cách thủ công, thô sơ có thể không đảm bảo vệ sinh. Do
vậy khi mua sữa chua chúng ta cần và nên mua những hũ, bọc sữa chua có nhãn
mác để tránh hậu quả xấu cho sức khỏe.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>---ĐẶT VẤN ĐỀ</b>


<i><b>I.</b></i> <i><b>LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b></i>


Bùng nở dân sớ đang là mối nguy hiểm đe dọa thế giới, vấn đề kế hoạch hóa gia
đình đang được các q́c gia khuyến khích. Nhưng chứng vô sinh cũng đang là nỗi
bất hạnh lớn của khơng ít gia đình. Trừ những người khơng thích lập gia đình,
ḿn có c̣c sớng tự do tự tại, còn thì tất cả những ai đã lập gia đình đều ḿn có
ít nhất mợt đứa con. Bệnh vô sinh không những mang đến cho bệnh nhân gánh
nặng tinh thần, mà còn ảnh hưởng rất lớn cho gia đình và xã hợi. Có nhiều ngun
nhân dẫn đến vơ sinh, trong đó có vô sinh nguyên nhân do nam. Do đó tơi chọn đề
tài đi sâu về “Tìm hiểu về bệnh vô sinh ở nam giới”.


 <i><b>PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b></i>


Nghiên cứu thông qua tra cứu:


- Các tài liệu, bài giảng, giáo trình về sinh lý sinh sản ngườI
- Các Website có nội dung liên quan


<b>TỔNG QUAN TÀI LIỆU</b>




<i><b>I.</b></i> <i><b>BỆNH VƠ SINH</b></i>


Ta nói là mợt cặp vợ chờng mắc chứng vô sinh nếu sau 18 tháng( có người nói
là 2 năm) sớng cùng nhau mợt cách bình thường và đều đặn mà không có thai, tuy
rằng cả hai đều mong muốn có thai


Việc chửa đẻ một đứa con là cả mợt chũi biến cớ sinh học và tâm lý. Cấu tạo
của bộ máy sinh đẻ, hệ thống hormon và tuyến nội tiết, cùng sự ăn khớp qua thời
điểm rụng trứng và thời kỳ giao hợp… phải đông thời tốt cả ở người đàn ông và
người đàn bà. Về những lí do kể trên và một số nguyên nhân khác, số cặp vợ
chồng hẩm hiu không có con cái nói chung khá đông: ở Australia chẳng hạn cứ 10
cặp vợ chồng lại có một cặp không có con cái. Ở Việt Nam, theo số liệu điều tra
năm 1992 của Viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, tỉ lệ vô sinh trên ba miền của nước
ta là 13%.


Có hai dạng vô sinh:


1. Vô sinh sơ cấp: Chỉ những trường hợp chưa hề có thai nghén
lần nào


2. Vô sinh thứ cấp: Chỉ những trường hợp trước đây đã có mợt
hoặc nhiều lần thai nghén, nhưng nay thì khơng có chửa đẻ nữa.


Nếu sau một năm đi lạI một cách thường xuyên và không dùng các phương
pháp tránh thai mà vẫn khơng thấy chửa đẻ thì có thể dẫn tớI vơ sinh.


<i><b>II. BỆNH VƠ SINH Ở NAM GIỚI</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

tinh trùng, đợ di đợng và hình dạng tinh trùng là nguyên nhân chủ yếu của vô sinh


do nam giới, chiếm trên 90% vô sinh nam.


<b>KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU</b>



<i><b>I.</b></i> <i><b>NGUYÊN NHÂN GÂY RA BỆNH VÔ SINH Ở NAM GIỚI</b></i>
1. Rới loạn về tình dục và phóng tinh


2. Miễn dịch


3. Bất thường tinh dịch
4. Bệnh lí toàn thân
5. Dị tật bẩm sinh


6. Tổn thương tinh hoàn mắc phải
7. Dãn tĩnh mạch thừng tinh


8. Nhiễm trùng tuyến sinh dục phụ
9. Nội tiết


10. Tinh trùng ít


11. Tinh trùng di động yếu
12. Tinh trùng dị dạng


13. Không có tinh trùng do tắc nghẽn


14. Không có tinh trùng không rõ nguyên nhân
<i><b>II.</b></i> <i><b>PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ</b></i>


<b>1.</b> <b>Điều trị nội khoa</b>



Không có phác đồ điều trị nội khoa nào có hiệu quả trong trường hợp suy
chức năng tinh hoàn, testosterone giảm, FSH, LH tăng (hypergonadotropic
hypogonadism). Các trường hợp suy tinh hoàn thứ phát do hypogonadotropic
hypogonadism có thể đáp ứng tốt với điều trị nội khoa. Trong trường hợp suy
tuyến sinh dục giảm gonadotropin này, (thiếu gonadotropin) có thể điều trị khá
hiệu quả bằng cách sử dụng GnRH theo nhịp, FSH phối hợp LH, hoặc hMG và
hCG. (Liu and Handelsman, 2003; Speroff & Fritz, 2005)


Suy tuyến sinh dục do giảm gonadotropin đồng thời có prolatin máu cao có thể
sử dụng Bromocriptine và gần đây là Carbergoline. Sau 3-6 tháng, có thể thấy tăng
testosterone máu và sau 6 tháng quá trình sinh tinh trùng sẽ bắt đầu tăng. (De Rosa
et al, 1998)


Mặc dù rất nhiều phác đồ điều trị nội khoa đã được giới thiệu và áp dụng để
điều trị rối loạn chức năng tinh trùng không rõ nguyên nhân (vd. Androgens,


gonadotropins, kháng estrogen, các chất chống oxi-hóa …), không có phương pháp
nào chứng minh được hiệu quả một các đáng tin cậy trên cải thiện chất lượng tinh
trùng và khả năng sinh sản của nam giới.


<i><b>1.1. Gonadotropins</b></i>


Các dạng chế phẩm gonadotropins được sử dụng để điều trị thiểu năng itnh
trùng không rõ nguyên nhân gồm hMG, hCG và FSH. Không có dạng nào trên đây
chứng minh được hiệu quả điều trị qua các thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có
chứng. (Liu and Handelsman, 2003)


<i><b>1.2. Androgens</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

sinh tinh trùng tạm thời và sau đó sẽ có hiệu ứng bật sau khi ngưng thuốc. Tuy
nhiên gia thuyết này được chứng minh là sai, tất cả các trường hợp sử dụng


androgens liều cao đều bị ức chế sinh tinh trùng mạnh và nhiều trường hợp không
phục hồi hoặc phục hồi không hoàn toàn.


Cơ chế sinh lý của việc sử dụng androgen liều thấp là không rõ ràng vì nờng đợ
androgens tại tinh hoàn cần thiết cho quá trình sinh tinh cao gấp hàng trăm lần so
với nồng độ androgens trong máu. Các dạng androgens thường được sử dụng là
Mesterolone và Testosterone undecanoate. Một nghiên cứu meta-analysis phân tích
số liệu từ 10 nghiên cứu với 1022 bệnh nhân. Phác đồ điều trị là Mesterolone
(75-150mg/ngày) hoặc Testosterone undecanoate (120-240mg/ngày), > 3 tháng. Kết
quả dựa trên tỉ lệ có thai so với placebo. Nghiên cứu kết luận là androgens không
có hiệu quả trong điều trị thiểu năng tinh trùng không rõ nguyên nhân, OR=1,07
(95% CI 0,75-1,53). Ngoài ra nghiên cứu còn báo cáo một số trường hợp ức chế
tinh trùng không hồi phục. (Liu and Handelsman, 2003)


<i><b>1.3. Kháng estrogen</b></i>


Cơ chế sinh lý của việc sử dụng thuốc kháng estrogen trong điều trị vô sinh
nam cũng chưa rõ ràng. Người ta thấy sử dụng kháng estrogen có thể làm tăng nhẹ
gonadotropins nội sinh. Tuy nhiên, điều này không giải thích được hiệu quả vì bở
sung gonadotropins ngọai sinh liều cao, kéo dài khơng cải thiện sinh tinh cũng
nhưng kết quả có thai. Thuốc thường được sử dụng là Clomiphene citrate hoặc
Tamoxifen. Một nghiên cứu meta-analysis, phân tích số liệu của 10 nghiên cứu
thực nghiệm ngẫu nhiên, có chứng (placebo) với 738 bệnh nhân được điều trị
Clomiphene Citrate (25-50mg/ngày) hoặc Tamoxifen undecanoate (20-30mg/ngày)
từ 3 đến 9 tháng. Kết quả đánh giá là tỉ lệ có thai so với nhóm sử dụng placebo.
Nghiên cứu cho thấy kết quả ở mức ranh giới, OR=1,51 (95% CI 0,99-2,44). Nói
cách khác là kháng estrogen có thể có hiệu quả trong điều trị thiểu năng tinh trùng,


nhưng không rõ ràng. Nghiên cứu cũng nêu lên vấn đề nếu kháng estrogen thật sự
có hiệu quả thì phải chăng kháng estrogen có thể có một cơ chế tác dụng khác lên
quá trình sinh tinh. (Liu and Handelsman, 2003)


<i><b>1.4. Androgen phới hợp kháng estrogen</b></i>


Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có chứng thực hiện trên 212 bệnh nhân.
106 bệnh nhân được điều trị với phác đồ Testosterone undecanoate (120mg/ngày)
và Tamoxifen (20mg/ngày) trong 6 tháng; nhóm còn lại sử dụng placebo. Kết quả
đánh giá là các chỉ số về tinh trùng và kết quả có thai. Kết quả khá khả quan.
Nhóm điều trị có cải thiện có ý nghĩa thống kê về mật độ, độ di động, tỉ lệ dị dạng
của itnh trùng, trong khi nhóm chứng (plcacebo) các chỉ số này không có thai đổi.
Tỉ lệ có thai ở nhóm nghiên cứu tăng hơn 3 lần, OR = 3.20 (95% CI 2.62 – 3.77),
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu kết luận Testosterone Undecanoate phối
hợp Tamoxifen cải thiện các chỉ số về tinh trùng và tăng khả năng có thai trên các
trường hợp thiểu năng tinh trùng không rõ nguyên nhân. (Adamopoulos, 2003)
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào khác cho kết quả tương tự, đồng thời cơ chế tác
dụng của thuốc chưa được chứng minh rõ ràng.


<i><b>1.5. Chất chống oxy hóa (antioxidants)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Vit. C, Vit. E, Glutathione, Carnitine … Tuy nhiên, cho đến hiện nay, dữ liệu từ
các nghiên cứu không đầy đủ và không đồng nhất, cũng như kết quả điều trị rất
thay đổi theo các báo cáo. Do đó, chưa đủ số liệu để có thể đưa ra kết luận về hiệu
quả của các thuốc chống oxy hóa đối với vô sinh nam không rõ nguyên nhân. Hiện
nay, người ta cho rằng antioxidants có thể là điều trị đầu tay đối với các trường
hợp có dấu hiệu của tăng OS. (Agarwal, 2004)


<b>2.</b> <b>Điều trị phẫu thuật</b>



<i><b>2.1. Điều trị dãn tĩnh mạch thừng tinh </b></i>


Tỉ lệ dãn tĩnh mạch thừng tinh là khá cao trong dân số vô sinh nam. Dãn tĩnh
mạch thừng tinh xuất hiện ở 40% trường hợp VS nam (Nagler et al., 2002). Hiệu
quả của thắt giãn tĩnh mạch thừng tinh trong các trường hợp vô sinh nam có giãn
tĩnh mạch thừng tinh vẫn còn được bàn cãi. Một số nghiên cứu cho thấy điều trị
phẫu thuật dãn tĩnh mạch thừng tinh có cải thiện chất lượng tinh trùng nhưng
không cải thiện khả năng có thai. Một nghiên cứu meta-analysis (Evers and
Collins, 2004) dựa trên số liệu từ 8 nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng cho
thấy điều trị phẫu thuật không làm tăng khả năng có thai so với không điều trị (OR
= 1,10 ; 95% CI 0,73 - 1,68). Kết quả điều trị cũng có thể phụ thuộc mức độ dãn
tĩnh mạch thừng tinh và phương pháp phẫu thuật. Thắt dãn tĩnh mạch thừng tinh
kết hợp với IUI giúp cải thiện khả năng có thai và tỉ lệ sinh sống (Daitcch et al.,
2001).


Khuyến cáo của Hội Y học sinh sản Hoa kỳ (ASRM) cho rằng nên điều trị phẫu
thuật dãn TM thừng tinh vì (1) giúp cải thiện chất lượng tinh trùng; (2) vẫn có thể
có tác dụng cải thiện khả năng có thai trong một số trường hợp và khi kết hợp với
các phương pháp điều trị khác; (3) nguy cơ tai biến, biến chứng của phẫu thuật
thấp (AUA and ASRM, 2004)


2.2. Lỗ niệu đạo lạc chỗ, hẹp bao quy đầu
2.3. Bất lực do tổn thương thực thể


2.4. Không có tinh trùng do tắc đường dẫn tinh
<b>3.</b> <b>Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản</b>


<i><b>3.1 Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

chỉ định IUI cho vô sinh nam. Đây là các giới hạn thấp nhất được ghi nhận qua y


văn. Tại Bệnh viện từ Dũ, chúng tôi ghi nhận gần như không có trường hợp nào có
thai nếu tổng số tinh trùng di động trong mẫu tinh dịch dưới 10 triệu hoặc mật độ
tinh trùng di động trong mẫu bơm dưới 2 triệu. Mỗi trung tâm, tùy theo phác đồ và
kết quả cụ thể, có thể sẽ có các dữ liệu khác nhau về các ngưỡng này. Các dữ liệu
này rất cần thiết để tư vấn và cho bệnh nhân và chọn lựa các điều trị phù hợp
(Voorhis et al, 2001; Duran et al., 2002; Ombelet et al., 2003; Van Weert et al.,
2004).


Việc trữ lạnh tinh trùng nhiều lần rồi gộp lại để bơm tinh trùng nhằm gia tăng số
lượng tinh trùng là khơng hiệu quả vì tinh chất lượng càng kém thì tỉ lệ sống sau
trữ lạnh càng thấp và khả năg thụ tinh của tinh trùng sau trữ lạnh cũng bị ảnh
hưởng. Đối với tinh trùng chất lượng và số lượng bình thường, tỉ lệ sớng sau trữ
lạnh là vào khoảng 50% (HM Tường và CS., 1999).


<i><b>3.2. Thụ tinh trong ống nghiệm( In vitro fertilisation- IVF</b></i>


Bình thường cần phảI có 50.000 – 100.000 tinh trùng di động để có thể thụ
tinh một noãn trong môi trường nhân tạo. NgườI ta thấy rằng số lượng tinh trùng di
động có được sau khi lọc rữa dướI 0,1-1 triệu thì tỷ lệ thụ tinh cũa noãn khi thực
hiện IVF rất thấp, đồng thờI tỷ lệ không có thụ tinh hoàn toàn và không có phôi
chuyển rất cao. Để có được 0,5-1 triệu tinh trùng di động trong mẫu tinh dịch ban
đàu phảI đạt tốI thiểu 5 triệu. Do đó, IVF thường chỉ được áp dụng cho những
trường hợp thiểu năng tinh trùng nặng hay thiểu năng tinh trùng nhẹ đã thất bạI vớI
nhiều chu kỳ IUI


<i><b>3.3. Bơm tinh trùng vào bào tương ( Intracyto-plasmic sperm injection</b></i>
<i><b>ICSI)</b></i>


Kỹ thuật ICSI ra đời được xem là một cuộc cách mạng trong điều trị vô sinh
nam. ICSI sử dụng tinh trùng từ tinh dịch, mào tinh hoặc tinh hoàn là một kỹ thuật


hiệu quả với tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ có thai cao. Với kỹ thuật này, chỉ cần 1 tinh trùng
để thụ tinh cho 1 trứng.


ICSI có thể được chỉ định cho nhiều dạng vô sinh nam như tinh trùng ít, tinh
trùng di động yếu, tinh trùng dị dạng nhiều, không có tinh trùng do tắc hoặc không
tắc, tinh trùng không có cực đầu, kháng thể kháng tinh trùng, bất thường gắn kết
giữa tinh trùng và màng trong suốt, bất thường phản ứng cực đầu.


Kể từ khi ra đời, ICSI được đón nhận và nhanh chóng phát triển thành kỹ
thuật cơ bản và tiêu chuẩn trong điều trị vô sinh nam. ICSI được xem là điều trị
tiêu chuẩn cho bất thường tinh trùng nặng. (Palermo et al, 1993; Van Steirteghem
et al., 1993; Payne et al., 1994, Mansour et al., 1995). Sau đó, ICSI cũng được
đánh giá là điều trị tiêu chuẩn cho các trường hợp sinh thiết tinh trùng ở những
trường hợp azoospermia do tắc hay không do tắc (PESA, MESA, TESE, TESA)
(Silber et al, 1994; Tournaye et al., 1994; Craft et al., 1995; Hovatta et al., 1995,
Mansour et al.,1996).


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

những trường hợp vơ sinh khơng rõ ngun nhân, chiến lược ½ IVF + ½ ICSI hiện
nay được áp dụng khá phở biến (Bungum et al., 2004).


Các trường hợp thiểu năng tinht rùng, khả năng gắn kết giữa tinh trùng với
màng trong śt của trứng giảm. Tình trạng này càng nặng nếu nếu tinh trùng bất
thường càng nhiều (Liu et al, 2003). Do đó nên ICSI thay vì thử IVF cho trường
hợp tinh trùng ít sẽ giúp cải thiện tỉ lệ thụ tinh, tăng số phôi có được và giảm nguy
cơ không có phôi (Liu and Baker, 2004).


Cho đến nay, người ta thấy rằng tỉ lệ dị tật của các em bé sinh ra từ kỹ thuật ICSI
khơng cao hơn so với dân sớ bình thường. Tuy nhiên cần tư vấn bệnh nhân rằng có
thể có nguy cơ tăng tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể và nguy cơ truyền một số bệnh
lý gây vô sinh có liên quan đến di truyền cho con.



<b>KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ</b>



<i><b>I.</b></i> <i><b>KẾT LUẬN </b></i>


Vô sinh nam chiếm muộn tỉ lệ lớn trong vô sinh. Vai trò của điều trị nội khoa
torng vô sinh nam là rất hạn chế, ngọai trừ những trường hợp bệnh lý chuyên biệt.
Tỉ lệ thành công của điều trị vô sinh nam phụ thuộc nhiều vào khả năng sinh sản
của vợ, đặc biệt là tuổi của người vợ. Do đó, thời gian đóng vai trò quan trọng
nhất, đặc biệt nếu người vợ trên 35 tuổi, đừng lãng phí thời gian với các phương
pháp điều trị hiệu quả thấp. Chiến lược điều trị do đó, tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
tuổi, nhu cầu của bệnh nhân, điều kiện kinh tế, kinh nghiệm bác sĩ, kỹ thuật hiện
có.


Hiện nay, ICSI được đánh giá là phương pháp điều trị vô sinh nam hiệu quả
nhất. Trong bối cảnh chưa có phương pháp điều trị nội khoa và ngọai khoa nào
chứng minh được rõ ràng hiệu quả trong điều trị rối loạn chức năng tinh trùng,
ICSI thường được áp dụng thường qui cho các trường hợp bất thường tinh dịch đồ.
Trong đa số các trường hợp, người ta không thể biết rõ nguyên nhân cụ thể của các
bất thường tinh dịch đồ. Điều này có nghĩa là với các phương pháp điều trị hiện có,
nam giới bị vô sinh có thể có con của chính mình mà khơng cần biết nguyên nhân
thực sự gây vô sinh. Tuy nhiên, với tình hình này, chúng ta có thể sẽ khó hiểu được
rõ ràng toàn bộ các vấn đề liên quan đến ngun nhân vơ sinh nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>CƠNG DỤNG CỦA CÀ PHÊ</b>


<b>Ngoài tác dụng mang lại sự tỉnh táo khi uống, cafe còn giúp bạn rất nhiều</b>
<b>trong cuộc sống thường nhật.</b>


<i><b>Sữa tươi thêm thơm ngon: Cho cà phê vào khay làm nước đá, đặt vào ngăn </b></i>


đông lạnh. Khi dùng sữa tươi, bạn cho thêm vài viên đá cà phê này vào.


<i><b>Quay thịt thỏ: Thêm 3 thìa cà phê vào rượu, dùng ướp thịt thỏ. Khi quay, thịt </b></i>
sẽ có mùi vị thơm ngon hơn.


<i><b>Lau chùi đồ gỗ: Bàn, ghế bằng gỗ có đánh véc-ni bị dính nước ngọt hoặc chất</b></i>
đường, bạn có thể xử lý bằng cách dùng xác cà phê nóng lau qua. Sau đó, lau sạch
lại bằng khăn mềm.


<i><b>Xoá vết ố trên thiếc: Xác cà phê có thể xoá vết ố của những vật dụng bằng </b></i>
thiếc. Sau đó, bạn dùng một chiếc khăn sạch lau lại cho bóng.


<i><b>Rửa sạch bồn rửa chén: Rải xác cà phê vào bồn rửa, ngâm trong khoảng 15 </b></i>
phút. Sau đó, bạn xả nước cho sạch bồn. Cà phê sẽ giúp khử mùi hôi và chất nhờn
trong ống thoát nước.


<i><b>Khử mùi khét: Nồi, chảo bị khét khi nấu nướng, bạn có thể khử mùi bằng xác</b></i>
cà phê. Sau đó chỉ cần rửa lại bằng nước sạch.


<i><b>Khi uống bia: Pha chút cà phê vào rồi thêm ít đường. Bia sẽ vừa đắng, vừa có</b></i>
vị thơm dịu, rất ngon miêng.


<i><b>Đánh bóng ngà voi: Ngâm ngà vào cà phê được pha thật đậm. Sau đó, bạn </b></i>
vớt ngà ra, lau khô và chùi thật bóng.


<i><b>Xoá vết nứt: Đồ gia dụng màu sậm bị nứt, hãy lau bằng cà phê. Chờ khô, lau </b></i>
sạch bằng vải ướt rồi lặp lại thao tác trên, vết nứt sẽ mất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>---HỌC THUYẾT TIẾN HÓA</b>



Trong các chương trước chúng ta đã đề cập đến việc tất cả các sinh vật đều
được cấu tạo từ các đơn vị cơ bản là tế bào. Chúng đều có chứa vật liệu di truyền
là ADN, đều có các quá trình biến dưỡng, sinh sản.... Nói chung là chúng giống
nhau về một số mặt nhất định. Bên cạnh đó các sinh vật lại có nhiều điểm khác
nhau. Sự đa dạng của sinh vật cho thấy có mợt quá trình tiến hóa đã và đang xảy
ra. Nói đơn giản, sự tiến hóa là sự thay đổi theo thời gian. Học thuyết tiến hóa
giải thích về mối quan hệ giữa các dạng sinh vật khác nhau trên trái đất.


I. CÁC QUAN NIỆM TIẾN HÓA TRƯỚC DARWIN


Các nhà triết học cổ Hy lạp đã cố gắng giải thích tính đa dạng của sinh vật
trên trái đất.


Ðáng lưu ý nhất là Aristote (384-322 trước cơng ngun). Ơng cho rằng tất
cả các sinh vật giớng như mợt chuỗi hình dạng, mỗi hình dạng tượng trưng cho
một mắt xích đi từ ít hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh nhất. Ông gọi chuỗi đó là nấc
thang của tạo hóa (scale of nature). Theo quan điểm này, các loài là cố định và
không có sự tiến hóa.


Những thành kiến chống lại sự tiến hóa đã được củng cố trong nền văn hóa
Cơ đốc giáo bởi Kinh Cựu ước về đấng sáng tạo. Những giáo điều về việc các loài
được Chúa tạo ra và bất biến đã ăn sâu vào các quan niệm phương Tây thời bấy
giờ. Ngay cả khi học thuyết Darwin xuất hiện, ở Châu Âu và Châu Mỹ vẫn nổi lên
thuyết tự nhiên thần luận (natural theology), một thuyết tìm cách khám phá
<b>chương trình của đấng sáng tạo bằng cách nghiên cứu tự nhiên. Các nhà tự nhiên</b>
thần luận thấy rằng sự thích nghi của sinh vật là bằng chứng cho thấy đấng sáng
tạo đã tạo ra mỗi loài theo một mục đích riêng. Mục tiêu chính của tự nhiên thần
<i>luận là sắp xếp các loài để phát hiện ra các bước trong bậc thang của sự sống mà</i>
Chúa đã sáng tạo ra.



Ðến thế kỷ XVIII, Carolus Linnaeus (1707-1778) là người đã sáng lập ra
cách phân loại hiện đại cùng cách mô tả mỗi loài và là người đề xuất ra cách đặt
tên đôi cho mỗi sinh vật. Dùng tên loài là đơn vị phân loại Linnaeus đã tìm kiếm
mới quan hệ tự nhiên và sắp xếp các dạng sinh vật theo các mức phân loại khác
nhau: loài, giống, họ, bô, lớpü. Sự đóng góp của ông về phân loại cho thấy các
loài có quan hệ với nhau nhưng ông vẫn giữ quan niệm như một nhà tự nhiên thần
luận cho rằng chúa đã sáng tạo ra tất cả các dạng sinh vật và chúng không thay đổi.
<b>Buffon (1707-1788) một nhà Tự nhiên học người Pháp đã lưu ý rằng các</b>
<b>hóa thạch cở ít giớng với các dạng hiện nay hơn các hóa thạch mới. Ông đề xuất</b>
hai nguyên lý.


Một là những thay đổi của môi trường đã tạo ra những thay đổi của sinh vật.
Hai là những nhóm loài giống nhau phải có cùng một tổ tiên. Buffon cũng cho
rằng mỗi loài không bất biến mà có thể thay đổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

tự thời gian từ các hóa thạch cổ đến các hóa thạch trẻ hơn dẫn đến các loài hiện tại
(các dạng phức tạp hơn xuất phát từ các dạng đơn giản). Lamarck công bố học
thuyết tiến hóa của ông vào năm 1809: không còn nghi ngờ gì nữa, tạo hóa tạo ra
mọi vật từng tí mợt và nối tiếp nhau trong thời gian vô hạn định.


Giống như Aristote, Lamarck cũng sắp xếp các sinh vật thành các bậc thang,
mỗi bậc gồm các dạng giống nhau. Ở dưới cùng là những sinh vật hiển vi mà ông
tin rằng chúng được tạo ra liên tục bằng cách tự sinh từ các vật liệu vô cơ. Ở trên
cùng của bậc thang tiến hóa là các động vật và thực vật phức tạp nhất. Sự tiến hóa
phát sinh do xu hướng nội tại vươn tới sự hoàn thiện. Khi một sinh vật hoàn thiện,
chúng thích nghi ngày càng tốt hơn với môi trường sống.


Lamarck cũng đã đưa ra cơ chế để giải thích làm thế nào sự thích nghi xảy
ra. Chúng hợp thành từ hai quan niệm phổ biến vào thời Lamarck. Thứ nhất là
việc sử dụng và không sử dụng, là quan niệm cho rằng những phần nào của cơ thể


được sử dụng thường xuyên sẽ trở nên lớn hơn và mạnh hơn, trong khi những phần
không được sử dụng sẽ bị thoái hoá. Thứ hai là quan niệm về sự di truyền các tính
trạng tập nhiễm (inheritance of acquired characteristics). Theo quan niệm nầy,
những biến đổi mà sinh vật thu nhận được trong suốt đời sống của chúng có thể di
truyền được cho thế hệ sau. Thí dụ kinh điển là sự tiến hóa chiều dài cổ của hưu
cao cổ. Theo quan điểm của Lamarck, tổ tiên của loài hươu nầy có cổ ngắn, có xu
hướng vươn dài cổ ra để có thể chạm đến những tán lá cây là nguồn thức ăn chính
của chúng. Sự thường xuyên vươn dài cổ nầy làm cho con cháu của chúng có cở
dài hơn. Vì các cá thể nầy có cổ vươn dài nên thế hệ kế tiếp sẽ có cổ dài hơn. Cứ
tiếp tục như thế, mỗi thế hệ có cổ hơi dài hơn thế hệ trước đó.


Những quan niệm của Lamarck về nguyên nhân tiến hóa có thể tóm tắt như
sau:


Một tính trạng có thể thu nhận được thông qua việc sử dụng thường xuyên,
và có thể mất đi khi không được sử dụng.


Một tính trạng tập nhiễm (tính trạng thu được do thường xuyên sử dụng) có
thể di truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Sự mất đi một tính trạng cũng vậy.


Trong quá trình tiến hóa, các dạng sinh vật phát triển theo hướng ngày càng
phức tạp.


Mợt lực siêu hình trong tự nhiên ln ln thúc đẩy quá trình tiến hóa hướng
tới sự hoàn thiện.


Về cơ bản, quan niệm tiến hóa của Lamarck là đúng nhưng ông thường
không được nhớ đến vì những sự kiện tiến hóa khơng được chứng minh đầy đủ.
Nhiều thí nghiệm cho thấy các tính trạng tập nhiễm không thể di truyền được. Chỉ
những thay đổi trong cấu trúc di truyền của các tế bào sinh dục mới có thể truyền


từ bố mẹ đến con cái.


II. HỌC THUYẾT DARWIN


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

ra các sinh vật đa dạng trên trái đất. Một trong các đặc tính chung của sinh vật là
khả năng biến dị di truyền. Những biến dị nầy cung cấp nguyên liệu cho sự tiến
hóa


Học thuyết tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên của Darwin bao gồm ba sự kiện
và hai kết luận. Sự kiện thứ nhất là khả năng sinh sản to lớn trong tự nhiên. Thí
dụ: một con cá hồi đẻ từ 3 đến 5 triệu trứng, một con sò đẻ 60 triệu trứng. Thậm
chí voi là một động vật sinh đẻ chậm cũng có khả năng sinh sản khổng lồ. Darwin
đã nêu rõ:


<i>Voi là một động vật sinh sản chậm nhất trong tất cả các động vật đã biết, và</i>
<i>tôi đã gặp khó khăn để ước lượng tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp nhất của nó; an tồn</i>
<i>nhất là giả định rằng nó bắt đầu sinh sản khi 30 tuổi và tiếp tục sinh sản đến 90</i>
<i>tuổi; nếu như thế, sau một thời kỳ từ 740 đến 750 năm, sẽ có khoảng 19 triệu voi</i>
<i>con cháu của cặp ban đầu nầy. Sau khoảng 1200 năm, quần thể voi giả thiết nầy</i>
<i>có thể vai kề vai, nối đi nhau bao phủ toàn bộ bề mặt trái đất. </i>


Nguyên sinh vật Paramecium sinh sản với tốc độ ba lần phân chia mỗi ngày,
nếu có đủ thức ăn và các cá thể con sinh ra đều sớng sót thì chỉ trong vòng 5 năm
sẽ tạo ra một khối lượng gấp 10 lần khối lượng của trái đất. Từ nhiều quan sát,
Darwin đã kết luận rằng mỗi sinh vật có khuynh hướng sinh ra nhiều cá thể con
hơn là nhu cầu để thay thế cho số cá thể bố mẹ.


Sự kiện thứ hai là mặc dù số lượng cá thể của mỗi loài có xu hướng gia tăng
theo cấp số nhân, sớ lượng cá thể của loài được duy trì tương đối ổn định. Ở nhiều
loài, có sự tăng và giảm số lượng cá thể có chu kỳ liên quan đến các mùa trong


năm, thức ăn, mật độ của quần thể thú ăn thịt và con mồi... nhưng nói chung sớ
lượng của mỗi loài vẫn duy trì ởn định.


Từ hai sự kiện trên đã đưa đến một kết luận mà Darwin gọi là đấu tranh sinh
<b>tồn (struggle for existence) bao gồm khơng chỉ sự sống sót của cá thể mà cả</b>
<b>của loài. Như vậy, có một sự đấu tranh để sinh tồn giữa hàng triệu cá thể con</b>
được sinh ra từ một loài cá (giữa cá lớn và cá bé cùng loài) và giữa các loài cá khác
nhau sống trong cùng một vùng cư trú.


Sự kiện thứ ba liên quan đến những biến dị cá thể xảy ra trong loài. Thật vậy,
có vô số biến dị giữa các cá thể trong cùng một loài. Mặc dù thoạt nhìn thì tất cả
các con bò trong một đàn đều giống nhau, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ có thể nhận
thấy những biến dị cá thể về hình dạng, kích thước, màu lơng, nết na...


Từ sự kiện nầy, Darwin đã đưa ra một kết ḷn thứ hai quan trọng hơn: sự
sớng sót của các dạng thích nghi nhất dưới tác dụng của chọn lọc tự nhiên.
<b>Trong các cá thể biến dị của một quần thể, những cá thể nào có các tính trạng</b>
thích nghi nhất với môi trường sẽ có nhiều cơ hội sống sót và sinh sản, con cái
cũng mang những đặc điểm biến dị đó.


Ngoài ra Darwin còn cho rằng: tất cả các động vật tương tự nhau phải tiến
hóa từ một tổ tiên chung và tất cả các sinh vật phải tiến hóa từ một vài hoặc một tổ
tiên chung đã sống cách đây nhiều triệu năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Số lượng cá thể sinh ra trong mỗi thế hệ nhiều hơn số cá thể được sống sót và
sinh sản.


Có sự biến dị trong các cá thể làm cho chúng không hoàn toàn giống nhau về
tất cả các đặc tính



Trong đấu tranh sinh tồn, những cá thể mang các tính trạng có lợi sẽ có nhiều
cơ hội sống sót và sinh sản hơn là các cá thể mang các tính trạng không có lợi


Một số đặc điểm kết quả của sự sống sót và sinh sản có thể di truyền
Tất cả các loài sinh vật đều tiến hoá từ một vài tổ tiên chung


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>VĂN HĨA NƠNG NGHIỆP QUA CA DAO, TỤC NGỮ</b>


Nền văn hóa nông nghiệp, sản xuất lúa nước truyền thống của dân tộc ta đã
để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa, sinh hoạt, lao động. Trải qua bao thế
hệ cha ông ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và dự báo những
hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió rét, bão lụt có ảnh hưởng đến mùa màng,
thời vụ. Những kinh nghiệm máu xương của bao đời được tích tụ trong những câu
tục ngữ, ca dao về trồng lúa, trồng cây, chăn nuôi… Đây chính là bài học quý giá
mà người nông dân Việt Nam xưa kia truyền lại cho các thế hệ cháu con.


Khi chưa có khoa học khí tượng, cha ơng ta đã biết dựa vào quá trình quan
sát thời tiết, sự vật và rút ra được những quy luật ngắn gọn, cụ thể về những biến
đợng mưa, nắng:


“Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa”
“Mây kéo x́ng biển thì nắng chang chang,


Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút”


“Mớng đơng vờng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật”
“Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa”


“Tháng bảy heo may, ch̀n ch̀n bay thì bão”
“Én bay thấp mưa ngập cầu ao,



Én bay cao mưa rào lại tạnh”
“Chuồn ch̀n bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
“Ếch kêu m m, ao chm đầy nước”…


Nếu như người dân đờng bằng nhìn chim én bay, ch̀n ch̀n lượn để dự
đoán thời tiết thì người dân trung du lại dựa vào chú ong để đoán định:


“Ong về mần nhiều, liệu chiều kiếm củi”
“Ong vàng làm thấp, bão sấp bão ngửa”


Về khí hậu nóng, lạnh trong các tháng cũng được đánh dấu mốc trong ca
dao, tục ngữ:


“Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét”


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

“Tháng tám nắng rám trái bưởi”
“Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”.


Các nét đặc biệt của các tháng trong năm được truyền qua bao đời
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng”


“Ngày tháng mười chưa cười đã tối”
“Buồn về một nỗi tháng giêng,
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài.


Buồn về một nỗi tháng hai,


Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.


Buồn về một nỗi tháng ba,


Mưa dầm, nắng lửa, người ta lừ đừ.
Buồn về một nỗi tháng tư,
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.


Buồn về một nỗi tháng năm,
Chửa đặt mình nằm, gà gáy chim kêu”


Sự luân chuyển của thời gian cũng được miêu tả chính xác, sinh động:
“Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”


“Nắng chóng trưa, mưa chóng tối”
“Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa.
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liễm giật, mùng sáu thật trăng…”


“Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo”
“Gió nam đưa xuân sang hè”


Để gieo cấy thành công, đúng thời vụ và bội thu người dân phảI quan sát tỉ
mỉ các hiện tượng tự nhiên trong một quá trình nhất định, ghi nhớ các kỹ thuật
canh tác để rút thành cẩm nang kinh nghiệm sản xuất cho bao thế hệ.


Muốn gieo trồng, cày bừa không phải cứ tùy tiện thích trồng lúc nào là
trồng. Mà phải dựa vào các điều kiện thuân lợi của tự nhiên:


“Mồng chín tháng chín có mưa,
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn.
Mồng chín tháng chín không mưa,



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên”


“Phân tro không bằng no nước”
“Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hơm rằm thì được lúa chiêm”


“Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư,


Thiếu tháng tư mất hoa cốc”


Dựa vào tự nhiên, tuân thủ theo nguyên tắc “mùa nào thức nấy” đã ăn sâu
trong suy nghĩ, kinh nghiệm lao động:


“Anh ơi! Cố chí canh nông,
Chín phần ta cũng dự trong tám phần.


Hay gì để ṛng mà ngăn,
Làm ṛng cấy lúa, chăn tằm lấy tơ.


Tằm có lứa, ruộng có mùa.
Chăm làm trời cũng đền bù có khi…”


“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trờng đậu, trờng khoai, trờng cà


Tháng ba thì đậu đã già


Ta đi ta hái về nhà phơi khô


Tháng tư đi tậu trâu bò


Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…”
“Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua, bằng mặt, cất bát cơm chăm”
“Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau”


”Thưa ao tốt cá”


“Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”
“Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”


“Năm trước được cau, năm sau được lúa”
“Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu”


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

“Nhờ trời mưa gió thuận hoà.
Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau.


Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê”


“Làm ruộng ăn cơm nằm,
Chăn tằm ăn cơm đứng”
“Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.


Ai ơi nên nhớ lấy lời.



Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn”


Các giống vật nuôi gắn liền với đời sống nông nghiệp cũng được người dân
Việt lựa chọn, chăm sóc kĩ càng để chúng đem lại lợi ích cao nhất, thiết thực nhất,
đặc biệt là hình ảnh con trâu, biểu tượng gắn liền với nhà nông được nhắc đến một
cách rất quí trọng:


“Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.


Cấy cày giữ nghiệp nông gia.
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!


Bao giờ cây lúa còn bơng, thì còn ngọn cỏ ngoài đờng trâu ăn”.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”


“Trâu gầy cũng tày bò giống”
“Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,


Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!”


“Nuôi gà phải chọn giống gà,
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau


Nhất to là giống gà nâu,
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều”


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

“Làm ruộng có năm, nuôi tằm có lứa”


“Dâu non ngon miệng tằm”…


Với những câu ca dao, tục ngữ có vần có điệu, duyên dáng, sinh động, dễ
nhớ…cha ông ta đã gửi gắm tình cảm gắn bó, hòa mình với thiên nhiên, đồng thời
ấp ủ khát vọng chinh phục, cải tạo thiên nhiên, đó là những cách nghĩ, nếp sinh
hoạt, lao động sản xuất của người dân nông nghiệp. Người Việt xưa ln có ý thức
về việc đúc rút, gìn giữ, lưu truyền những kinh nghiệm quí báu cho các thế hệ nối
tiếp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b>TỤC NGỮ - CA DAO HAY CHO GIẢNG DẠY PHẦN TRỒNG TRỌT</b>
"Lúa chiêm lấp ló đầu bờ


Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên"
"Phân tro không bằng no nước"


" Thiếu tháng 2 mất cà
Thiếu tháng 3 mất đỗ
Thiếu tháng 8 mất hoa ngư
Thiếu tháng 4 mất hoa cốc".


Anh ơi cố chí canh nông
9 phần ta cũng dự trơng 8 phần


Hay gì để ṛng mà ngăn
Làm ruộng lấy lúa, chăn tằm lấy tơ


Tằm có lứa, ruộng có mùa
Chăm làm trời cũng đền bù có khi
- Ruộng chờ mạ, ruộng kĩ càng tốt,
Mạ chờ ruộng, mạ muộn chẳng được hạt nào.



( muốn lúa đạt năng suất cao phải cày bừa sớm để cấy kịp thời vụ )
- Ṛng khơng ải thì rải thêm phân.


- Cày ṛng tháng năm,
Xem trăng rằm tháng tháng tám;


Cày ruộng tháng mười ,
Xem trăng mờng tám tháng tư.


- Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.


( nghĩa là thứ nhất nuôi cá ao, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ṛng.
- Làm ṛng tháng năm, coi chăm tháng mười.


- Nhất nước, nhì phân, ba cần, bốn giống.
- Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân.


- Làm ṛng thì phải đắp đìa, vừa dễ giữ nước khi về dễ ăn.
- Ruộng không phân như thân không của.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

- Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa.
- Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau.


- Cấy bằng mặt, gật bằng đầu.


- Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn.
Tháng sáu, tháng bảy, khi vừa


Vừa trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh


Tháng tám lúa trổ đã đành


Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người
Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng thất thời khổ trông !


Cắt rồi nộp thuế nhà công
Từ rày mới được yên lòng ấm no.


Bởi anh chăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài


Ngày mùa tưới đậu trồng khoai
Ngày ba tháng tám mới ngồi mà ăn.


Trồng trầu đắp nấm cho cao
Che cho sương nắng khỏi vào gốc cây


Nửa năm bén rể bén dây
Khôn dầu bã đậu bón tay cho liền.


Ai ơi nhớ lấy lời này


Nuôi tằm ba lứa, ruộng cày ba năm
Nhờ trời hoà cốc phong đăng
Cấy lúa lúa tốt, nuôi tằm tằm tươi


Được mùa dù có tại trời
Chớ thấy sóng cả mà rời tay co.



Cơm ăn một bát sao no


Ruộng cày một vụ sao cho đành lòng
Sâu cấy lúa, cạn gieo bông


Chẳng ươm được đỗ thì trờng ngơ khoai.
- Dưa gang mợt, chạp thì trờng
Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

- Gỗ kiền anh để đóng cày
Gỗ lim gỗ sến anh nay đóng bừa


Răng bừa tám cái còn thưa
Lưỡi cày tám tấc đã vừa luống tơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>TỤC NGỮ - CA DAO HAY CHO GIẢNG DẠY PHẦN CHĂN NI</b>
Trâu năm sáu t̉i còn xanh


Bò năm sáu t̉i đã tranh về già
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò
Mùa đông tháng giá bò dò làm sao.


...


Nuôi gà phải chọn giống gà
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau


Nhất to là giống gà nâu
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều.



...


Chó khôn tứ túc huyền đề
tai hơi cúp, đi thì hơi cong
giớng nào mõm nhọn đít vồng
ăn càn cắn bậy ấy không ra gì.


...


Giàu ni lợn nái, lụi bại ni bờ câu
...


Lợn đói một năm không bằng tằm đói một bữa.
...


Ao to ta thả cá chơi


Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà
Quanh năm khách khứa trong nhà


Ao vườn sẵn có lọ là tìm đâu.
...


Gà nâu chân thấp mình top
Đẻ nhiều, trứng lớn con vừa khéo nuôi


</div>

<!--links-->

×