Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SÂN KHẤU HÓA TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.78 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn biện pháp:
Hiện nay, có một thực tế vơ cùng đáng buồn nhưng khơng thể phủ nhận được
đó là học sinh ngày càng thơ ờ với môn Ngữ văn. Điều này phần lớn thuộc về xã
hội. Khi xã hội ngày càng phát triển q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh kéo theo đó
là sự phát triển của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người như bị cuốn vào cơn
cuồng phong của vật chất hay xu hướng việc làm, văn chương lúc này chỉ được
xem là thứ yếu. Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh quay lưng
với văn chương thuộc về chúng ta – những thầy cô giáo đang trực tiếp truyền đạt
kiến thức cho học sinh, không phải ai cũng đủ năng lực để truyền đến cho học sinh
tình u, sự say mê với mơn học nặng nề về tư duy hình tượng này. Chúng ta cần
nhận ra được giá trị của văn chương để đưa ra những cách thức phát huy hiệu quả
việc dạy – học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông sao cho hay, hiệu quả
cao, tạo được sự hứng thú cho học sinh.
Trong những năm gần đây, những người làm công tác giảng dạy ở các cơ sở
giáo dục đặc biệt là các trường phổ thông trung học rất chú trọng đến việc đổi mới
phương pháp dạy – học Văn, nhằm khơi dậy tình yêu văn chương đối với học sinh.
Ngày trước, giáo viên còn nặng nề phương pháp truyền thống, chưa có sự đổi mới
sáng tạo trong cách dạy do đó vơ tình chúng ta biến học sinh thành những kẻ “ăn
theo nói leo”. Ngày nay, các thầy cơ cần phải tìm đủ mọi cách nhằm làm sao phát
huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, giúp học sinh phát huy được tư duy,
óc sáng tạo cũng như các kĩ năng của mình.
Với vai trị tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh,
hơn ai hết giáo viên phải tìm ra biện pháp giảng dạy mới. Trong một tiết dạy, nếu
giáo viên cứ dùng lời giảng của mình truyền đạt kiến thức cho học sinh mà khơng
có gì mới mẻ để khuấy động tâm hồn các em thì sẽ rất dễ nhàm chán. Chính vì
vậy, tơi muốn đề xuất một biện pháp mà bản thân đã từng ứng dụng trong trường
học nơi tôi công tác đó là: “Sân khấu hóa trong q trình dạy và học môn Ngữ
văn cấp Trung học phổ thông” để nâng cao chất lượng cũng như sự hứng thú của


học sinh.

NỘI DUNG

1. Thực trạng công tác dạy và học trong nhà trường
1.1. Ưu điểm
Mặc dù cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế nhưng tập thể, cán bộ
giáo viên nhà trường đã không ngừng phấn đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
đặc biệt chú trọng nhất là nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong nhà
trường. Một số giáo viên đã tham gia bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do Sở


Giáo Dục Đào Tạo và trường tổ chức nên đã nắm vũng được việc thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học, dạy theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, cách kiểm tra đánh
giá học sinh, coi trọng sự tiến bộ của học sinh.
Ngồi nắm vững về chun mơn, giáo viên cịn nghiên cứu, tìm hiểu về đối
tượng học sinh, chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nội dung, chương trình
mơn Ngữ văn, mạnh dạn đăng kí chỉ tiêu phấn đấu trên đối tượng học sinh của
mình.
Việc đổi mới phương pháp dạy học, đa phần đã giúp giáo viên cải tiến được
phương pháp, áp dụng hiệu quả thiết bị, phương tiện và đồ dùng dạy học vào bài
giảng. Bên cạnh đó, giáo viên cịn tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm ở đồng
nghiệp, vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động
sáng tạo của học sinh đã được tất cả giáo viên quan tâm và mạnh dạn áp dụng.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy theo nhóm…lối dạy ấy đã thu hút sự chú ý,
óc tị mị, hứng thú học tập cho học sinh tạo điều kiện cho các em động não phát
hiện ra kiến thức và chiếm lĩnh kiến thức, tạo niềm tin học tập cho các em. Thực tế
qua đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại kết quả khả quan về chất lượng giáo
dục trong nhà trường.
Ngày nay, cơng tác xã hội hóa giáo dục đã có sự chuyển biến tích cực. Đa số

cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học của con em mình. Đồng thời đã đóng góp
khơng nhỏ về vật chất để mua sắm trang thiết bị dạy học trong nhà trường, nâng
cấp cơ sở vật chất, tạo điều kiện tốt cho việc học tập vui chơi, giải trí.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
Mặc dù giáo viên của trường đã tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về
dạy học theo phương pháp dạy học tích cực một cách kĩ lưỡng nhưng khi đi vào
thực tế giảng dạy vẫn còn giáo viên lung túng trong khâu đổi mới phương pháp
dạy học, dưới sự ảnh hưởng của phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ
lo tập trung vào phần việc của mình, cứ lo sợ dạy khơng hết bài, học sinh không
biết…, cứ như thế vào tiết học giáo viên thao giảng bài, truyền đạt cho học sinh
những nội dung cần ghi nhớ, yêu cầu các em về học thuộc lịng. Có những giáo
viên nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, dưới sự hướng dẫn nêu vấn đề của người dạy, người học động não tìm
cách giải quyết vấn đề chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức mới vào thực
tiễn.
Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học, là việc sử dụng thiết bị đồ dùng
dạy học. Thế nhưng vẫn cịn giáo viên ít sử dụng, chưa khai thác triệt để thiết bị,
đồ dùng vào các tiết dạy mà cịn dạy chay hoặc sử dụng khi có người dự giờ. Khi
sử dụng giáo viên sử dụng chưa linh hoạt hoặc khai thác một cách qua loa, máy
móc làm cho tiết học trở nên rời rạc, nhàm chán không phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh, khơng có thiết bị để ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào giảng
dạy.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch bài dạy, giáo viên hầu như chưa thoát li
được sách giáo viên, sách tham khảo, mà cịn có những giáo viên coi sách giáo
viên là một pháp lệnh, không được xê dịch, hay sửa đổi. Chép nguyên mục tiêu và
các hoạt động trong sách mà khơng cần biết bài dạy đó có phù hợp với học sinh
của mình hay khơng, họ ít khi bỏ thời gian ra nghiên cứu nội dung bài học sách


giáo khoa, liên hệ từng đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch dạy học cho từng

môn học, hay thiết kế bài dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Một
số giáo viên không nghiên cứu nội dung sách giáo khoa để xác định mảng kiến
thức trọng tâm của bài, liên hệ sự tiếp thu của học sinh rồi lựa chọn phương pháp
dạy học để phát huy tính tích cực, sự vận động suy nghĩ của từng đối tượng học
sinh, tránh nhàm chán ở học sinh vì trong lớp học có tới ba khả năng tiếp thu và ba
khả năng nhận thức cụ thể: học sinh năng khiếu, học sinh hồn thành kiến thức, kĩ
năng mơn học, học sinh chưa hoàn thành kiến thức kĩ năng mơn học. Ngồi ra
trong kế hoạch lập bài dạy, do không nghiên cứu kĩ lưỡng nội dung bài nên việc
chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy học khơng có hoặc khơng phù hợp, thậm chí
có xác định ở phần chuẩn bị giáo án nhưng qua tiết dạy không thấy giáo viên sử
dụng ở hoạt động nào.
Bên cạnh những việc tồn tại ở khâu soạn giảng thì cũng khơng thể không đề
cập đến vấn đề kiểm tra đánh giá, xếp loại học sinh. Một số giáo viên đánh giá dựa
vào cảm tính, quan sát chung chung, thiếu căn cứ, thiếu chính xác. Thậm chí việc
kiểm tra đánh giá cịn dựa trên tình cảm, cả nể mà đánh giá khơng đúng thực lực
của học sinh chính vì thế việc đánh giá xếp loại khen thưởng thi đua cuối năm còn
nhiều sai lệch. Đến đầu năm học mới, có rất nhiều học sinh bị hụt hẫng về kiến
thức nên rất khó cho việc giảng dạy của giáo viên, ngồi ra cịn ảnh hưởng đến
chất lượng giáo dục. Mặt khác, giáo viên chưa nghiên cứu sâu về tâm lí từng học
sinh để có biện pháp giảng dạy tốt hơn. Đa số học sinh cịn phụ thuộc vào khn
mẫu, bắt chước, chưa có ý thức tự giác học tập lại được cha mẹ học sinh đồng
thuận mua sắm sách giải, sách tham khảo, văn mẫu…để các em sao chép lại. Một
số cha mẹ học sinh thiếu trách nhiệm, khơng có sự phối hợp trong giáo dục học
sinh, gây sức ép không nhỏ đối với giáo viên.
2. Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
Có thể khẳng định rằng, không phải một bộ môn nào cũng có thể sử dụng cách
dạy – học như thế này, văn học là một bộ mơn nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ
với sân khấu, điện ảnh. Từ tác phẩm văn học đến sân khấu điện ảnh là rất gần.
Thực tế đã chứng minh, nhiều tác phẩm sân khấu, điện ảnh rất thành công vốn
được chuyển thể từ tác phẩm văn học như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Rô mê

ô và Juliet”…và điều này đã giúp cho tác phẩm văn học ở lại sâu sắc hơn trong
lòng công chúng gần đây nhất là bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” hay
“Mắt biếc” của đạo diễn Victor Vũ được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên
của nhà văn Nguyễn Ngọc Ánh đã gây nên được những dấu ấn sâu sắc trong lịng
cơng chúng. Sau đây, tơi xin giới thiệu một số giải pháp, hình thức sân khấu hóa
tác phẩm văn chương trong nhà trường.
2.1. Biện pháp thứ nhất: Hát múa
Ở biện pháp này văn bản văn học được đến với học sinh và thẩm thấu tâm hồn
các em qua các giai điệu cũng như qua một hình thức ngơn ngữ khác: ngơn ngữ cơ
thể.
Chúng ta vẫn thường quan niệm rằng âm nhạc là thứ có thể dễ dàng đánh thức
trái tim và tâm hồn con người một cách kì diệu nhất, rằng khi mọi thứ ngơn ngữ đã
trở nên bất lực chính là lúc âm nhạc lên tiếng…Chính vì thế, việc đưa các giai điệu


âm nhạc vào giờ dạy văn là một điều vô cùng cần thiết góp phần đánh thức những
rung động có thể còn ngủ sâu trong tâm hồn các em.
Chẳng hạn, khi dạy về ca dao dân ca giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hát một
vài làn điệu dân ca:
Ví dụ: Bài ca dao: “Bơng xanh, bơng trắng, bông vàng
Bông lê, bông lựu, đố nàng mấy bông?”
Chuyển thành dân ca:
“Bông xanh, bông trắng rồi lại vàng bông ơ rượn ơ
Bông lê cho bằng bông lựu ơ rượn ơ
Là đơ í a đơ rằng, bơng rồi lại mấy bơng
Là đơ í a đơ rằng bơng rồi lại mầy bơng”
Hay bài ca dao: Hơm qua tát nước đầu đình các nhạc sĩ đã phổ nhạc cho nó và
biến chúng thành nhạc phẩm làm xao xuyến lòng người và đi vào tâm hồn các em.
Hơm qua tát nước đầu đình
Bỏ qn chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng,
Khâu rồi anh sẽ trả cơng,
Ít nữa lấy chồng, anh lại giúp cho
Giúp em năm thúng xơi vị
Ba con lợn béo, một vị rượu tăm
Giúp cho đơi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau.
Cứ như thế, những câu ca dao sẽ dễ dàng đi sâu vào tâm hồn các em, tưới mát
tâm hồn các em, đưa các em chìm đắm vào thế giới của cây đa, giếng nước, sân
đình, con đị…một cách tự nhiên nhất, ngọt ngào nhất và sâu lắng nhất. Đồng thời
qua đó học sinh sẽ hiểu về ca dao, dân ca một cách dễ dàng so với những giáo viên
chỉ truyền đạt những tri thức lí thuyết một cách khơ khan, cứng nhắc. Chỉ bằng
việc diễn xướng bằng một vài câu ca như vậy các em sẽ dễ dàng nhận thức được
rằng với phần lời là ca dao kết hợp giai điệu sẽ trở thành dân ca.
Có khá nhiều tác phẩm văn học trong nhà trường (chủ yếu là thơ ca) rất giàu tính
nhạc. Các nhạc sĩ đã phổ nhạc cho các tác phẩm thơ ca đó và biến chúng thành
nhạc phẩm làm xao xuyến lòng người. Chẳng hạn như bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc.
Tương tự như thế, những học sinh có năng khiếu múa có thể chuyển tải một tác
phẩm văn học vốn được thực hiện bằng nghệ thuật ngôn từ sang một hình thức
ngơn ngữ mới: Ngơn ngữ của cơ thể. Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, chuyên
đề hay trong cuộc thi văn nghệ…nên khuyến khích học sinh đến với văn chương
bằng loại hình nghệ thuật này. Các em sẽ được đến với câu chuyện của nhân vật



thông qua một thứ ngôn ngữ khác: ngôn ngữ không lời, rất đặc biệt và có khả năng
khơi gợi cảm xúc.
Ví dụ: Múa minh họa cảnh “Chí phèo gặp Thị Nở” dưới đêm trăng hay cô Tấm
đi trẩy hội,…
2.2. Giải pháp thứ hai: Ngâm thơ
Người ta thường nói: “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, nghĩa là trong
thơ có họa, trong thơ có nhạc. Bản thân các bài thơ đã chứa đựng phần nhạc điệu:
lúc trầm, lúc bổng, lúc khoan, lúc nhặt, lúc bay bổng, du dương.
Dạy một bài thơ bên cạnh cho học sinh đọc diễn cảm thì giáo viên cũng nên
cho học sinh thể hiện giọng ngâm của mình. Giáo viên cũng có thể hồn tồn có
thể tự mình ngâm thơ để học sinh thưởng thức hoặc sử dụng máy móc, băng đĩa
cho học sinh nghe giọng ngâm của các nghệ sĩ. Cách này, chắc chắn sẽ giúp các em
thêm yêu những câu thơ, những bài thơ – vốn là những gì tinh túy nhất mà “con
tằm” nhà thơ rút ruột ra.
Ví dụ: Bài thơ “Đây thơn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được thể hiện bằng một
giọng ngâm rất Huế sẽ đưa các em trở về với khu vườn thôn Vĩ, đến với con người
Vĩ Dạ dễ dàng hơn, bài thơ cũng sẽ ở lại lâu hơn trong tâm hồn các em
Hay bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với giọng ngâm tha thiết, trìu
mến, nhẹ nhàng… mang âm hưởng ca dao dân ca sẽ giúp các em dễ dàng cảm
nhận về đất nước bắt nguồn từ những thứ đơn sơ bình dị nhất.
2.4. Giải pháp thứ ba: Diễn kịch
Có thể khẳng định rằng, việc chuyển hóa một tác phẩm văn học thành một tiểu
phẩm, một vở kịch là một sân chơi vô cùng bổ ích và được đa số học sinh hương
ứng một cách tích cực. Thực hiện sân khấu hóa tác phẩm văn học trong nhà trường
nghĩa là chúng ta dựng nên một sân khấu biểu diễn mà người diễn viên tham gia
diễn xuất là các em học sinh – những đối tượng tiếp nhận tác phẩm văn học đó.
Các em khơng phải chỉ đến với tác phẩm bằng ngôn từ chết trong sách giáo khoa
mà các em đã trực tiếp hóa thân vào nhân vật với những tính cách, diện mạo,

những số phận khác nhau…, được trực tiếp tham gia vào câu chuyện đó, được thực
hiện những hành động đó. Nói cách khác các em được trải nghiệm và được sống
thật sự với tác phẩm, các em sẽ khóc, sẽ cười, sẽ đau khổ, sẽ hạnh phúc, hân
hoan…với chính những nhân vật của mình. Nghĩa là các em có cơ hội trải nghiệm
với những cảm xúc mà các em đã từng trải qua, các em dường như đã trở thành
những con người khác.
Một sự thật mà chúng ta thường thấy rằng, nhiều khi hàng ngàn, hàng vạn lời
giảng của thầy cô trên bục giảng đã đánh thức được tâm hồn các em, khuấy động
được cảm xúc của các em bằng những giây phút các em được trải nghiệm với câu
chuyện đó. Muốn nhập vai thành cơng các em phải tìm hiểu rất kĩ về nhân vật đó,
và khi hóa thân vào nhân vật của mình thành cơng các diễn viên khơng chun đó
sẽ đem lại những cảm xúc vơ cùng mới mẻ.
Ví dụ: Minh họa điển hình phần kịch bản sân khấu hóa cho truyện cười: “Nhưng
nó phải bằng hai mày”
Nhân vật: Cải, Ngơ, Lý Trưởng, tên lính và người dẫn chuyện


Dẫn chuyện: Làng kia có một viên Lý trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi. Một hôm nọ,
Cải với Ngô đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy
Lí năm đồng, Ngơ biện chè lá những mười đồng. Khi xử kiện thầy Lí nói:
Thầy Lí: (Vẻ mặt nghiêm nghị)
- Ta nghe chuyện của hai người, các người đã biết đã phạm tội gì khơng?
Cải: (Kể tội và đổ lỗi cho Ngô)
- Bẩm quan con đang đi trên đường thì thằng Ngơ nó va vào con và cịn đánh con
xt ngã ra đường.
Ngơ: (Ngơ chen vào và cả hai cãi vã)
- Bẩm quan, thằng Cải nó đâm vào con trước
Lí trưởng: (Vẻ mặt tức giận)
- Trật tự, chuyện này ta đã tra ra. Ai đúng ai sai ắt sẽ rõ.
Dẫn chuyện: Bỗng tên lính ghé vào tai Lí Trưởng nói thầm.

Lí trưởng:
- Bổn quan tun án: Thằng Cải đánh thằng Ngô đau hơn phạt một chục roi.
Dẫn chuyện: Cải vội xịe năm ngón tay, ngẩng mặt lên nhìn thầy khẽ bẩm :
Cải: (Hoảng, lo)
- Xin xét lại, lẽ phải thuộc về con mà
Dẫn chuyện: Thầy Lí cũng xịe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt nói :
Thầy Lí:(Khẽ cười)
- Tao biết mày phải… nhưng nó phải bằng hai mày. Bay đâu, lơi nó ra ngồi phạt.
Dẫn chuyện: Mọi người ra về cịn Cải thì bị phạt, lịng căm phẫn.
Vở diễn của nhóm thể hiện khá thành công và học sinh trong lớp rất hứng thú
khi tìm hiểu tác phẩm :
- Em có nhận xét gì về cách xử kiện của thầy Lí ?
- Em rút ra được bài học gì sau khi học xong câu chuyện trên ?
- Nếu mai sau có cơ hội được làm lãnh đạo, em sẽ đề ra những biện pháp gì để
phịng chống tham nhũng ?
3. Cách thức tiến hành
3.1. Cách thứ nhất: Lồng vào từng tiết dạy, bài dạy cụ thể.
Với cách thức này giáo viên cần lựa chọn những hình thức sân khấu hóa phù
hợp, khơng mất nhiều thời gian rồi lồng vào những thời điểm sao cho phù hợp
nhất.
Ví dụ : Sau khi dạy xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi sĩ Hàn Mặc Tử giáo
viên có thể tổ chức cho học sinh ngâm lại bài thơ để một lần nữa thấy được tính
nhạc cũng như chất Huế hay hồn thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Hay giáo viên có thể
cho học sinh hát lại bài này dựa trên ca từ mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ
nhạc.
3.2. Cách thứ hai: Đưa vào các hoạt động chuyên đề, ngoại khóa.
Việc sân khấu hóa tác phẩm văn học thường mất rất nhiều thời gian và sự
chuẩn bị vô cùng công phu, đặc biệt là đối với hình thức diễn kịch hay tiểu phẩm.
Vì vậy để đảm bảo được hiệu quả chúng ta sẽ tổ chức những buổi chuyên đề hay
sinh hoạt ngoại khóa đồng thời đưa ra hình thức thi đua giữa các lớp, các đội.

Ví dụ 1: Tổ chức chuyên đề về Văn học dân gian cho học sinh khối 10 nói
chung chúng ta có thể đưa hoạt động sân khấu hóa vào như sau :


Chia học sinh ra thành các đội, mỗi đội sẽ xây dựng thành một tiết mục tương ứng
với mỗi thể loại của văn học dân gian, đội nào thắng sẽ nhận được phần quà có giá
trị từ ban tổ chức.
Đội 1 : Diễn tác phẩm truyền thuyết “An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy”
Đội 2 : Diễn trích đoạn Chiến thắng “Mtao Mxây” trích Sử thi Đăm Săn của Tây
Nguyên
Đội 3 : Diễn tác phẩm Truyện cổ tích “Tấm Cám”
Đội 4 : Diễn trích đoạn “Uy lit xơ trở về” trích Sử thi Ơ – đi – Xê của Hi Lạp
Đội 5 : Diễn truyện cười “Tam đại con gà”
Bằng việc diễn các tác phẩm hay những trích đoạn như thế, học sinh sẽ hứng thú
hơn trong việc tiếp nhận tác phẩm bất hủ này.
Ví dụ 2 : Tổ chức chuyên đề về văn học Việt Nam 1930 – 1945 cho học sinh
khối 11 chúng ta cũng tiến hành như trên.
Đội 1 : Sân khấu hóa tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam
Đội 2 : Sân khấu hóa tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Đội 3 : Sân khấu hóa tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
Đội 4 : Sân khấu hóa đoạn trích “ Hạnh phúc của một tan gia” trích Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng.
Ví dụ 3: Tổ chức cuộc thi sân khấu hóa các tác phẩm văn học trong nhà
trường. Học sinh được tự do chọn lựa tác phẩm và hình thức biểu diễn.

3. Kết quả khảo nghiệm.
Trước khi thực hiện biện pháp mới mà tôi đã nêu ở trên trong dạy và học môn
Ngữ văn, kết quả các em đạt được rất thấp. Cụ thể là:
Kết quả khảo sát chất lượng hiểu và u thích mơn Ngữ văn ở các lớp 10B,
10C, 11B ở những tiết học đầu năm 2019 -2020 được thống kê ở bảng sau :

Phân loại
Giỏi/Khá
Trung bình
Yếu/ kém
Lớp
Số lượng
%
Số
%
Số
%
lượng
lượng
10B = 30
5
16,67
20
66,67
5
16,67
10C = 28
3
10,71
18
64,28
7
25
11B = 32
4
12,5

21
65,63
7
21,87
Với một số giải pháp mà tôi đã áp dụng lên trực tiếp các lớp tôi giảng dạy, kết quả
khảo sát của học sinh đạt được cuối năm học như sau:


Phân loại
Giỏi/Khá
Số lượng
%

Trung bình
Yếu/ kém
Lớp
Số
%
Số
%
lượng
lượng
10B = 30
14
46,67
12
40
4
13,33
10C = 28

15
53,57
9
32,14
4
14,28
11B = 32
16
50
13
40,63
3
9,38
Qua kết quả trên cho thấy chất lượng của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, số
học sinh chưa nắm vững được kiến thức giảm rõ rệt, số học sinh nắm chắc được
được kiến thức và nắm vững được kiến thức cơ bản tăng lên một cách rõ rệt.
Để có được kết quả trên, trong mỗi giờ dạy mơn Ngữ văn, việc đưa các biện
pháp mà tơi đã trình bày ở trên, giúp chất lượng học tập của bộ môn tăng lên rõ rệt
đạt được những yêu cầu, mục tiêu của mơn học. Ngồi ra trong mỗi tiết dạy giáo
viên cần tạo khơng khí thi đua sơi nổi, động viên kịp thời để học sinh tự tin hơn,
phấn khởi hơn với kết quả học tập và rèn luyện của mình.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Trong bức tranh chung ảm đạm của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay
thì bất kì một cách thức hay biện pháp nào nhằm đổi mới việc dạy và học môn Ngữ
văn thiết nghĩ cũng nên được cổ xúy một cách tích cực. Biện pháp này có tính khả
thi cao khi được áp dụng rộng rãi ở tất cả các khối lớp. Việc sân khấu hóa tác phẩm
1.



văn học là một sáng tạo trong phương pháp dạy học môn Ngữ văn mà tôi nghĩ
không chỉ tạo được hứng thú trong học tập mà còn đem đến hiệu quả trong việc tự
học của học sinh.
Học văn bằng diễn kịch, bằng múa, bằng âm nhạc…giúp học sinh có thêm
nhiều cơ hội để tiếp cận và cảm thụ văn bản theo nhiều cách khác nhau. Cách học
này khơi dậy lòng u thích mơn Ngữ văn, phát huy khả năng tổ chức, biên kịch,
diễn xuất…của học sinh.
Áp dụng biện pháp này vào cơng tác giảng dạy, nó đã mang lại những lợi ích
vơ cùng thiết thực và hiệu quả, học sinh nắm bắt được nội dung bài học nhanh hơn,
hứng thú và say mê hơn trong giờ học khơng cịn cảm giác uể oải và chán nản như
lúc chưa áp dụng biện pháp …. Bên cạnh đó, số lượng giáo viên Ngữ văn hiện tại
họ cũng rất tài năng, nhiệt huyết nên gánh nặng cơng việc có thể dễ dàng chia sẻ
một cách hợp lí.
Việc dạy – học Ngữ văn bằng hoạt động sân khấu hóa bên cạnh những ưu điểm
dễ dàng nhìn thấy thì cũng có những hạn chế nhất định. Việc ứng dụng hoạt động
này vào dạy học Ngữ văn cần xem xét, lựa chọn để làm sao phù hợp với từng điều
kiện nơi mình cơng tác.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Sở Giáo dục Đào tạo
Trong các kì bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, đề nghị Sở Giáo Dục và Đào
Tạo khuyến khích, mở rộng việc bồi dưỡng các kĩ năng sư phạm liên quan đến
biện pháp sân khấu hóa hoạt động dạy học song song với việc bồi dưỡng các kĩ
năng và phương pháp dạy học khác nhau trong nhà trường.
Biên soạn và cung cấp tài liệu tham khảo liên quan đến biện pháp sân khấu hóa
trong dạy học môn Ngữ văn cấp THPT.
2.2. Đối với Nhà trường.
Ban lãnh đạo Nhà trường cần quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho giáo viên
dạy Ngữ văn có thể ứng dụng thành cơng hoạt động dạy học này nói riêng, các
hoạt động đổi mới phương pháp dạy học khác nói chung để làm cho bức tranh Văn

học trong nhà trường ngày càng có thêm nhiều gam màu sắc tươi mới.
Đề nghị nhà trường, tổ chuyên môn tạo điều kiện tổ chức các hoạt động ngoại
khóa nhiều hơn nữa để các em có một sân chơi văn học bổ ích.
Hỗ trợ kinh phí học tập cho các buổi sinh hoạt chyên đề, trải nghiệm sáng tạo…
2.3. Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy
Đầu tư thời gian ở những tiết dạy sân khấu hóa về kiến thức cũng như kĩ năng
để củng cố nâng cao nội dung kiến thức cho các em học sinh.
Trên đây là biện pháp Sân khấu hóa trong dạy học mơn Ngữ văn cấp trung học
phổ thơng. Vì thời gian có hạn nên khơng tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Rất
mong được sự đóng góp của bạn bè đồng nghiệp và BGK để biện pháp của tơi
được hồn thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn biện pháp:
Hiện nay, có một thực tế vơ cùng đáng buồn nhưng khơng thể phủ nhận được
đó là học sinh ngày càng thơ ờ với môn Ngữ văn. Điều này phần lớn thuộc về xã
hội. Khi xã hội ngày càng phát triển q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh kéo theo đó
là sự phát triển của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người như bị cuốn vào cơn
cuồng phong của vật chất hay xu hướng việc làm, văn chương lúc này chỉ được
xem là thứ yếu. Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh quay lưng
với văn chương thuộc về chúng ta – những thầy cô giáo đang trực tiếp truyền đạt
kiến thức cho học sinh, không phải ai cũng đủ năng lực để truyền đến cho học sinh
tình u, sự say mê với mơn học nặng nề về tư duy hình tượng này. Chúng ta cần
nhận ra được giá trị của văn chương để đưa ra những cách thức phát huy hiệu quả
việc dạy – học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông sao cho hay, hiệu quả
cao, tạo được sự hứng thú cho học sinh.



Trong những năm gần đây, những người làm công tác giảng dạy ở các cơ sở
giáo dục đặc biệt là các trường phổ thông trung học rất chú trọng đến việc đổi mới
phương pháp dạy – học Văn, nhằm khơi dậy tình yêu văn chương đối với học sinh.
Ngày trước, giáo viên còn nặng nề phương pháp truyền thống, chưa có sự đổi mới
sáng tạo trong cách dạy do đó vơ tình chúng ta biến học sinh thành những kẻ “ăn
theo nói leo”. Ngày nay, các thầy cơ cần phải tìm đủ mọi cách nhằm làm sao phát
huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, giúp học sinh phát huy được tư duy,
óc sáng tạo cũng như các kĩ năng của mình.
Với vai trị tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh,
hơn ai hết giáo viên phải tìm ra biện pháp giảng dạy mới. Trong một tiết dạy, nếu
giáo viên cứ dùng lời giảng của mình truyền đạt kiến thức cho học sinh mà khơng
có gì mới mẻ để khuấy động tâm hồn các em thì sẽ rất dễ nhàm chán. Chính vì
vậy, tơi muốn đề xuất một biện pháp mà bản thân đã từng ứng dụng trong trường
học nơi tôi công tác đó là: “Sân khấu hóa trong q trình dạy và học môn Ngữ
văn cấp Trung học phổ thông” để nâng cao chất lượng cũng như sự hứng thú của
học sinh.


NỘI DUNG

1. Thực trạng công tác dạy và học trong nhà trường
1.1. Ưu điểm
Với phương châm tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy gắn với nhu cầu
thực tế của học sinh, những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hình thức sân khấu hóa đã gần như quen thuộc đối với học sinh trường THPT Chu
Văn An. Ngữ văn là bộ môn mang đến cho học sinh nhiều kiến thức, giúp các em
bồi đắp tình cảm tốt đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng. Để tạo hứng thú cho học
sinh với môn học này, Đảng Ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã không ngừng trang

bị cơ sở vật chất ,thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho học sinh cũng như
giáo viên tổ chức các tiết dạy theo hình thức sân khấu hóa. Biện pháp này giúp học
sinh chủ động tiếp cận văn bản, thâm nhập vào thế giới của tác phẩm để cảm nhận
nhân vật và chi tiết tác phẩm. Ngồi ra học sinh cịn được tự mình sáng tạo trong
diễn xuất hay thể hiện các năng khiếu khác của mình thơng qua các hoạt động múa
hát hoặc ngâm thơ từ đó đã thu hút được sự quan tâm, hào hứng của các em trong
các tiết Ngữ văn. Sau các hoạt động như diễn xuất, hát, múa, ngâm thơ…các em đã
thấy bớt chản nản trước mơn Văn, khơng cịn cảm giác ngủ gật trong giờ Văn. Mặt
khác sân khấu hóa trong dạy học mơn Ngữ văn cũng làm tăng tính đồn kết và hợp
tác giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Các em biết tự phân cơng nhiệm vụ, có trách
nhiệm với mỗi phân được giao, bên cạnh đó biện pháp này cịn mở ra một cách tiếp
cận mới cho học sinh, trả lại các em vai trị tự chủ trong việc học, khơng bị giới
hạn bởi những điều cho sẵn của giáo viên đồng thời góp phần phát hiện những
nhân tố có năng khiếu nghệ thuật để phát triển phong trào văn nghệ trong nhà
trường và địa phương.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
Trường THPT nằm trên địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số, trong
đó tỉ lệ học sinh người đồng bào chiếm hơn 40%, tâm lí đối tượng rụt rè, nhút nhát,
ít thể hiện nơi đơng người nên khó khăn trong việc vận động các em tham gia diễn
xuất hay biểu diễn trước đám đơng. Ngồi ra, học sinh còn lúng túng trong việc
chuyển tải tác phẩm thành kịch bản hay các kĩ năng trình diễn như hát, múa, ngâm
thơ.
Một số giáo viên không được đào tạo một cách bài bản về chuyên ngành sân
khấu trình diễn, lại ít có điều kiện tiếp xúc với chun ngành này nên kĩ năng còn
nhiều hạn chế, chưa phát huy hết sức hấp dẫn để các em thâm nhập sâu hơn vào tác
phẩm.
Bên cạnh đó, nhiều học sinh cịn hờ hững với mơn Ngữ văn nhiều bạn cịn lúng
túng trong cách học hay cịn phụ thuộc vào khn mẫu, bắt chước, chưa có ý thức
tự giác học tập lại được cha mẹ học sinh đồng thuận mua sắm sách giải, sách tham



khảo, văn mẫu…để các em sao chép lại. Một số cha mẹ học sinh thiếu trách
nhiệm, khơng có sự phối hợp trong giáo dục học sinh, gây sức ép không nhỏ đối
với giáo viên.
2. Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
Có thể khẳng định rằng, khơng phải một bộ mơn nào cũng có thể sử dụng cách
dạy – học như thế này, văn học là một bộ môn nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ
với sân khấu, điện ảnh. Từ tác phẩm văn học đến sân khấu điện ảnh là rất gần.
Thực tế đã chứng minh, nhiều tác phẩm sân khấu, điện ảnh rất thành công vốn
được chuyển thể từ tác phẩm văn học như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Rô mê
ô và Juliet”…và điều này đã giúp cho tác phẩm văn học ở lại sâu sắc hơn trong
lịng cơng chúng gần đây nhất là bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” hay
“Mắt biếc” của đạo diễn Victor Vũ được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên
của nhà văn Nguyễn Ngọc Ánh đã gây nên được những dấu ấn sâu sắc trong lịng
cơng chúng. Sau đây, tôi xin giới thiệu một số giải pháp, hình thức sân khấu hóa
tác phẩm văn chương trong nhà trường.
2.1. Biện pháp thứ nhất: Hát múa
Ở biện pháp này văn bản văn học được đến với học sinh và thẩm thấu tâm hồn
các em qua các giai điệu cũng như qua một hình thức ngơn ngữ khác: ngơn ngữ cơ
thể.
Chúng ta vẫn thường quan niệm rằng âm nhạc là thứ có thể dễ dàng đánh thức
trái tim và tâm hồn con người một cách kì diệu nhất, rằng khi mọi thứ ngơn ngữ đã
trở nên bất lực chính là lúc âm nhạc lên tiếng…Chính vì thế, việc đưa các giai điệu
âm nhạc vào giờ dạy văn là một điều vơ cùng cần thiết góp phần đánh thức những
rung động có thể cịn ngủ sâu trong tâm hồn các em.
Chẳng hạn, khi dạy về ca dao dân ca giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hát một
vài làn điệu dân ca:
Ví dụ: Bài ca dao: “Bơng xanh, bông trắng, bông vàng
Bông lê, bông lựu, đố nàng mấy bông?”
Chuyển thành dân ca:

“Bông xanh, bông trắng rồi lại vàng bông ơ rượn ơ
Bông lê cho bằng bông lựu ơ rượn ơ
Là đơ í a đơ rằng, bơng rồi lại mấy bơng
Là đơ í a đơ rằng bơng rồi lại mầy bông”
Hay bài ca dao: Hôm qua tát nước đầu đình các nhạc sĩ đã phổ nhạc cho nó và
biến chúng thành nhạc phẩm làm xao xuyến lòng người và đi vào tâm hồn các em.
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen


Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng,
Khâu rồi anh sẽ trả cơng,
Ít nữa lấy chồng, anh lại giúp cho
Giúp em năm thúng xơi vị
Ba con lợn béo, một vị rượu tăm
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau.
Cứ như thế, những câu ca dao sẽ dễ dàng đi sâu vào tâm hồn các em, tưới mát
tâm hồn các em, đưa các em chìm đắm vào thế giới của cây đa, giếng nước, sân
đình, con đò…một cách tự nhiên nhất, ngọt ngào nhất và sâu lắng nhất. Đồng thời
qua đó học sinh sẽ hiểu về ca dao, dân ca một cách dễ dàng so với những giáo viên
chỉ truyền đạt những tri thức lí thuyết một cách khô khan, cứng nhắc. Chỉ bằng
việc diễn xướng bằng một vài câu ca như vậy các em sẽ dễ dàng nhận thức được

rằng với phần lời là ca dao kết hợp giai điệu sẽ trở thành dân ca.
Có khá nhiều tác phẩm văn học trong nhà trường (chủ yếu là thơ ca) rất giàu tính
nhạc. Các nhạc sĩ đã phổ nhạc cho các tác phẩm thơ ca đó và biến chúng thành
nhạc phẩm làm xao xuyến lịng người. Chẳng hạn như bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc.
Tương tự như thế, những học sinh có năng khiếu múa có thể chuyển tải một tác
phẩm văn học vốn được thực hiện bằng nghệ thuật ngơn từ sang một hình thức
ngơn ngữ mới: Ngôn ngữ của cơ thể. Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, chuyên
đề hay trong cuộc thi văn nghệ…nên khuyến khích học sinh đến với văn chương
bằng loại hình nghệ thuật này. Các em sẽ được đến với câu chuyện của nhân vật
thông qua một thứ ngôn ngữ khác: ngơn ngữ khơng lời, rất đặc biệt và có khả năng
khơi gợi cảm xúc.
Ví dụ: Múa minh họa cảnh “Chí phèo gặp Thị Nở” dưới đêm trăng hay cô Tấm
đi trẩy hội,…
2.2. Giải pháp thứ hai: Ngâm thơ
Người ta thường nói: “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, nghĩa là trong
thơ có họa, trong thơ có nhạc. Bản thân các bài thơ đã chứa đựng phần nhạc điệu:
lúc trầm, lúc bổng, lúc khoan, lúc nhặt, lúc bay bổng, du dương.


Dạy một bài thơ bên cạnh cho học sinh đọc diễn cảm thì giáo viên cũng nên
cho học sinh thể hiện giọng ngâm của mình. Giáo viên cũng có thể hồn tồn có
thể tự mình ngâm thơ để học sinh thưởng thức hoặc sử dụng máy móc, băng đĩa
cho học sinh nghe giọng ngâm của các nghệ sĩ. Cách này, chắc chắn sẽ giúp các em
thêm yêu những câu thơ, những bài thơ – vốn là những gì tinh túy nhất mà “con
tằm” nhà thơ rút ruột ra.
Ví dụ: Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được thể hiện bằng một
giọng ngâm rất Huế sẽ đưa các em trở về với khu vườn thôn Vĩ, đến với con người
Vĩ Dạ dễ dàng hơn, bài thơ cũng sẽ ở lại lâu hơn trong tâm hồn các em
Hay bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm với giọng ngâm tha thiết, trìu

mến, nhẹ nhàng… mang âm hưởng ca dao dân ca sẽ giúp các em dễ dàng cảm
nhận về đất nước bắt nguồn từ những thứ đơn sơ bình dị nhất.
2.4. Giải pháp thứ ba: Diễn kịch
Có thể khẳng định rằng, việc chuyển hóa một tác phẩm văn học thành một tiểu
phẩm, một vở kịch là một sân chơi vơ cùng bổ ích và được đa số học sinh hương
ứng một cách tích cực. Thực hiện sân khấu hóa tác phẩm văn học trong nhà trường
nghĩa là chúng ta dựng nên một sân khấu biểu diễn mà người diễn viên tham gia
diễn xuất là các em học sinh – những đối tượng tiếp nhận tác phẩm văn học đó.
Các em không phải chỉ đến với tác phẩm bằng ngôn từ chết trong sách giáo khoa
mà các em đã trực tiếp hóa thân vào nhân vật với những tính cách, diện mạo,
những số phận khác nhau…, được trực tiếp tham gia vào câu chuyện đó, được thực
hiện những hành động đó. Nói cách khác các em được trải nghiệm và được sống
thật sự với tác phẩm, các em sẽ khóc, sẽ cười, sẽ đau khổ, sẽ hạnh phúc, hân
hoan…với chính những nhân vật của mình. Nghĩa là các em có cơ hội trải nghiệm
với những cảm xúc mà các em đã từng trải qua, các em dường như đã trở thành
những con người khác.
Một sự thật mà chúng ta thường thấy rằng, nhiều khi hàng ngàn, hàng vạn lời
giảng của thầy cô trên bục giảng đã đánh thức được tâm hồn các em, khuấy động
được cảm xúc của các em bằng những giây phút các em được trải nghiệm với câu
chuyện đó. Muốn nhập vai thành cơng các em phải tìm hiểu rất kĩ về nhân vật đó,
và khi hóa thân vào nhân vật của mình thành cơng các diễn viên khơng chun đó
sẽ đem lại những cảm xúc vơ cùng mới mẻ.
Ví dụ: Minh họa điển hình phần kịch bản sân khấu hóa cho truyện cười:
“Nhưng nó phải bằng hai mày”
Nhân vật: Cải, Ngơ, Lý Trưởng, tên lính và người dẫn chuyện
Dẫn chuyện: Làng kia có một viên Lý trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi. Một hôm nọ,
Cải với Ngô đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy
Lí năm đồng, Ngơ biện chè lá những mười đồng. Khi xử kiện thầy Lí nói:
Thầy Lí: (Vẻ mặt nghiêm nghị)



- Ta nghe chuyện của hai người, các người đã biết đã phạm tội gì khơng?
Cải: (Kể tội và đổ lỗi cho Ngô)
- Bẩm quan con đang đi trên đường thì thằng Ngơ nó va vào con và cịn đánh con
xuýt ngã ra đường.
Ngô: (Ngô chen vào và cả hai cãi vã)
- Bẩm quan, thằng Cải nó đâm vào con trước
Lí trưởng: (Vẻ mặt tức giận)
- Trật tự, chuyện này ta đã tra ra. Ai đúng ai sai ắt sẽ rõ.
Dẫn chuyện: Bỗng tên lính ghé vào tai Lí Trưởng nói thầm.
Lí trưởng:
- Bổn quan tun án: Thằng Cải đánh thằng Ngô đau hơn phạt một chục roi.
Dẫn chuyện: Cải vội xịe năm ngón tay, ngẩng mặt lên nhìn thầy khẽ bẩm :
Cải: (Hoảng, lo)
- Xin xét lại, lẽ phải thuộc về con mà
Dẫn chuyện: Thầy Lí cũng xịe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt nói :
Thầy Lí:(Khẽ cười)
- Tao biết mày phải… nhưng nó phải bằng hai mày. Bay đâu, lơi nó ra ngồi phạt.
Dẫn chuyện: Mọi người ra về cịn Cải thì bị phạt, lịng căm phẫn.
Vở diễn của nhóm thể hiện khá thành cơng và học sinh trong lớp rất hứng thú
khi tìm hiểu tác phẩm :
- Em có nhận xét gì về cách xử kiện của thầy Lí ?
- Em rút ra được bài học gì sau khi học xong câu chuyện trên ?
- Nếu mai sau có cơ hội được làm lãnh đạo, em sẽ đề ra những biện pháp gì để
phòng chống tham nhũng ?
3. Cách thức tiến hành
3.1. Cách thứ nhất: Lồng vào từng tiết dạy, bài dạy cụ thể.
Với cách thức này giáo viên cần lựa chọn những hình thức sân khấu hóa phù
hợp, khơng mất nhiều thời gian rồi lồng vào những thời điểm sao cho phù hợp
nhất.

Ví dụ : Sau khi dạy xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi sĩ Hàn Mặc Tử giáo
viên có thể tổ chức cho học sinh ngâm lại bài thơ để một lần nữa thấy được tính
nhạc cũng như chất Huế hay hồn thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Hay giáo viên có thể
cho học sinh hát lại bài này dựa trên ca từ mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ
nhạc.
3.2. Cách thứ hai: Đưa vào các hoạt động chuyên đề, ngoại khóa.
Việc sân khấu hóa tác phẩm văn học thường mất rất nhiều thời gian và sự
chuẩn bị vô cùng công phu, đặc biệt là đối với hình thức diễn kịch hay tiểu phẩm.
Vì vậy để đảm bảo được hiệu quả chúng ta sẽ tổ chức những buổi chuyên đề hay
sinh hoạt ngoại khóa đồng thời đưa ra hình thức thi đua giữa các lớp, các đội.


Ví dụ 1: Tổ chức chuyên đề về Văn học dân gian cho học sinh khối 10 nói
chung chúng ta có thể đưa hoạt động sân khấu hóa vào như sau :
Chia học sinh ra thành các đội, mỗi đội sẽ xây dựng thành một tiết mục tương ứng
với mỗi thể loại của văn học dân gian, đội nào thắng sẽ nhận được phần quà có giá
trị từ ban tổ chức.
Đội 1 : Diễn tác phẩm truyền thuyết “An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy”
Đội 2 : Diễn trích đoạn Chiến thắng “Mtao Mxây” trích Sử thi Đăm Săn của Tây
Nguyên
Đội 3 : Diễn tác phẩm Truyện cổ tích “Tấm Cám”
Đội 4 : Diễn trích đoạn “Uy lit xơ trở về” trích Sử thi Ơ – đi – Xê của Hi Lạp
Đội 5 : Diễn truyện cười “Tam đại con gà”
Bằng việc diễn các tác phẩm hay những trích đoạn như thế, học sinh sẽ hứng thú
hơn trong việc tiếp nhận tác phẩm bất hủ này.
Ví dụ 2 : Tổ chức chuyên đề về văn học Việt Nam 1930 – 1945 cho học sinh
khối 11 chúng ta cũng tiến hành như trên.
Đội 1 : Sân khấu hóa tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam
Đội 2 : Sân khấu hóa tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Đội 3 : Sân khấu hóa tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân

Đội 4 : Sân khấu hóa đoạn trích “ Hạnh phúc của một tan gia” trích Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng.
Ví dụ 3: Tổ chức cuộc thi sân khấu hóa các tác phẩm văn học trong nhà
trường. Học sinh được tự do chọn lựa tác phẩm và hình thức biểu diễn.
3. Kết quả khảo nghiệm.
Qua thực tiễn khảo sát các lớp 10B, 10C, 11B ở trường THPT Chu Văn An
năm học 2018 – 2019 khi chưa áp dụng đề tài này, kết quả khảo sát học sinh hiểu
và u thích mơn Ngữ văn theo số liệu thống kê ở các mức sau :
Phân loại
Giỏi/Khá
Trung bình
Yếu/ kém
Lớp
Số lượng
%
Số
%
Số
%
lượng
lượng
10B = 30
5
16,67
20
66,67
5
16,67
10C = 28
3

10,71
18
64,28
7
25
11B = 32
4
12,5
21
65,63
7
21,87
Sau khi áp dụng biện pháp vào năm học tiếp theo 2019 – 2020 , kết quả của học
sinh đạt được như sau:
Phân loại
Giỏi/Khá
Trung bình
Yếu/ kém
Lớp
Số lượng
%
Số
%
Số
%
lượng
lượng


10B = 30

14
46,67
12
40
4
13,33
10C = 28
15
53,57
9
32,14
4
14,28
11B = 32
16
50
13
40,63
3
9,38%
Qua kết quả trên cho thấy chất lượng của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, số
học sinh chưa nắm vững được kiến thức giảm rõ rệt, số học sinh nắm chắc được
được kiến thức và nắm vững được kiến thức cơ bản tăng lên một cách rõ rệt.
Để có được kết quả trên, trong mỗi giờ dạy môn Ngữ văn, việc đưa các biện
pháp mà tơi đã trình bày ở trên, giúp chất lượng học tập của bộ môn tăng lên rõ rệt
đạt được những yêu cầu, mục tiêu của môn học. Ngồi ra trong mỗi tiết dạy giáo
viên cần tạo khơng khí thi đua sơi nổi, động viên kịp thời để học sinh tự tin hơn,
phấn khởi hơn với kết quả học tập và rèn luyện của mình.




KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong bức tranh chung ảm đạm của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay
thì bất kì một cách thức hay biện pháp nào nhằm đổi mới việc dạy và học môn Ngữ
văn thiết nghĩ cũng nên được cổ xúy một cách tích cực. Biện pháp này có tính khả
thi cao khi được áp dụng rộng rãi ở tất cả các khối lớp. Việc sân khấu hóa tác phẩm
văn học là một sáng tạo trong phương pháp dạy học môn Ngữ văn mà tôi nghĩ
không chỉ tạo được hứng thú trong học tập mà còn đem đến hiệu quả trong việc tự
học của học sinh.
Học văn bằng diễn kịch, bằng múa, bằng âm nhạc…giúp học sinh có thêm
nhiều cơ hội để tiếp cận và cảm thụ văn bản theo nhiều cách khác nhau. Cách học
này khơi dậy lịng u thích mơn Ngữ văn, phát huy khả năng tổ chức, biên kịch,
diễn xuất…của học sinh.
Áp dụng biện pháp này vào công tác giảng dạy, nó đã mang lại những lợi ích
vơ cùng thiết thực và hiệu quả, học sinh nắm bắt được nội dung bài học nhanh hơn,
hứng thú và say mê hơn trong giờ học khơng cịn cảm giác uể oải và chán nản như
lúc chưa áp dụng biện pháp …. Bên cạnh đó, số lượng giáo viên Ngữ văn hiện tại
họ cũng rất tài năng, nhiệt huyết nên gánh nặng công việc có thể dễ dàng chia sẻ
một cách hợp lí.
Việc dạy – học Ngữ văn bằng hoạt động sân khấu hóa bên cạnh những ưu điểm
dễ dàng nhìn thấy thì cũng có những hạn chế nhất định. Việc ứng dụng hoạt động
này vào dạy học Ngữ văn cần xem xét, lựa chọn để làm sao phù hợp với từng điều
kiện nơi mình cơng tác.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với Sở Giáo dục Đào tạo
Trong các kì bồi dưỡng kiến thức chun mơn, đề nghị Sở Giáo Dục và Đào
Tạo khuyến khích, mở rộng việc bồi dưỡng các kĩ năng sư phạm liên quan đến
biện pháp sân khấu hóa hoạt động dạy học song song với việc bồi dưỡng các kĩ
năng và phương pháp dạy học khác nhau trong nhà trường.

Biên soạn và cung cấp tài liệu tham khảo liên quan đến biện pháp sân khấu hóa
trong dạy học mơn Ngữ văn cấp THPT.
2.2. Đối với Nhà trường.
Ban lãnh đạo Nhà trường cần quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho giáo viên
dạy Ngữ văn có thể ứng dụng thành cơng hoạt động dạy học này nói riêng, các
hoạt động đổi mới phương pháp dạy học khác nói chung để làm cho bức tranh Văn
học trong nhà trường ngày càng có thêm nhiều gam màu sắc tươi mới.
Đề nghị nhà trường, tổ chuyên môn tạo điều kiện tổ chức các hoạt động ngoại
khóa nhiều hơn nữa để các em có một sân chơi văn học bổ ích.
20


mong được sự đóng góp của bạn bè đồng nghiệp và BGK để biện pháp của tơi
được hồn thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006, 2007, 2008), Sách giáo khoa, sách giáo viên
Ngữ văn lớp 10,11,12 (cơ bản), NXB Giáo dục, Hà Nội.
[2]. Kỷ yếu “Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
Việt Nam” NXB Đại học Sư phạm (2012)
[3]. Phan Trọng Luận (Chủ biên), Trương Dĩnh (2004), Phương pháp dạy học văn
tập 1, NXB ĐHSP Hà Nội
[4]. Phan Trọng Ngọ (chủ biên), Dương Diệu Hoa, Nguyễn Thị Mùi (2001), Tâm lí
học hoạt động và khả năng ứng dụng vào lĩnh vực dạy học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
.
21



22



×