Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

Đạo đức phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.3 MB, 206 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ LAN

ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỎNG CỦA NĨ




ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỊI VIỆT NAM




Chuyên ngành

: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duv vật lịch sử

Mã sô

: 5.01.02

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HOC
ÍỈS.TS. N G LY ỄN H ĩ r V I I

HÀ NÒI - 2004



LỜI CAM Đ O AN

T ô i x in c a m đ o a n đ â y là cơ n g trìn h c ủ a r iê n g tôi. C ác sô liệu
n ê u tro n g lu ậ n á n là tr u n g th ự c. N h ữ n g k ế t lu ậ n k h o a h ọ c củ a lu ậ n
án ch ư a từ n g được ai cô n g bô' tro n g b ấ t k ỳ c ô n g trìn h n ào k h á c .

Tác giả luận án


N H Ũ N G C H Ữ V IẾ T T Ắ T T R O N G LU Ậ N ÁN

1. Chủ nghĩa xã hội

:

CNXH

2. X ã hội chủ nghĩa

:

XHCN

3. Chủ ng h ĩa duy vật biện chứ ne

:

CNDVBC


4. Chủ nghĩa duy vật lịch sử

:

CNDVLS

5. Nhà xuất bản

:

N xb

6. Thành phố

:

TP


MỤC LỤC
Trang

V

MỎ ĐẨU.................................................................................................................

1

Chương 1. Về đạo đức


tôn giáo và đạo đức Phật giáo ......................

7

1.1. Đạo đức tôn giáo -

M ột số vấn đề lý luận ..........................................

7

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa M ác-Lênin về đạo đức tôn giáo ..........

7

1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức tơn giáo .....................................

21

1.2. Về đạo đức Phật giáo (những nội dung CƯ bản) ................................

28

1.2.1. Từ bi

30

-

giá trị nền tảng của đạo đức Phật g i á o ..................................


«1.2.2. Ngũ giới - chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật g i á o ................................41
của đạo đức Phật giáo...............................................................................

53

Chương 2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con
người Việt Nam ..........................................................................

73

2.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và những đặc trưng cơ
bản của đạo đức Phật giáo Việt N a m .....................................................

73

2.1.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ..............................................

73

2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của đạo đức Phật giáo Việt Nam ............

78

2.2. Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt Nam X....................

84

2.2.1. Sự hoà quyện giữa tinh thần từ bi, hỷ xả của đạo đức Phật Sĩiáo
với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam


.......................................................

2.2.2. Tinh thần nhập thế - nét độc đáo của đạo đức Phậl £Ĩáo Việi Nam

85
. 93

2.2.3. Đạo đức Phật siáo với dạo đức. lối sống của ngưừi dân Việt Nam.^f

102

2.3. Đạo đức Phật giáo với việc xâv dựng và hoàn thiện đạo đức con
người Việt Nam hiện n a y ...........................................................................

11 i

2.3.1. Vài nét về thưc trạne đao đức ở nước ta hiòn nayJ và Jyêu cáu của
*



cr

.

.

việc xây dựng nền đạo đức mới ............................................................


111

2.3.2. Ảnh hường của đạo đức Phãt i’iáo đốn vice hình thành ý ihức
đạo đức của con người Việt Nam hiện nay .........................................
2.3.3. Anh hưởng của đạo đức Phàt giáo đến vièc điều chính hanh vi
đạo đức của con ngưừi Việt Nam hiên nay .......................................

111*5


Chương 3. Một sô giải pháp nhàm phát huy những mặt tích cực và
hạn chẽ những mạt tiêu cực của đạo đức Phật giáo .......

149

3.1. Xu hướng phát triển của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay và những
biến đổi của đạo đức Phật giáo ...............................................................

149

3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế
X

những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo dối với việc xây dựng
đạo đức con người Việt Nam hiện n a y .................................................

163

KẾT LUẬN...........................................................................................................


187

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh tồn cầu hố và phát triển kinh tế thị trường hiện nay, đất
nước ta đang có những bước chuyển mình quan trọng. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống về
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Song cũng phải thừa nhận rằng chúng ta
đang phải đối mặt với một thực trạng đáng lo ngại về mặt đạo đức xã hội: tệ
nạn xã hộỉ gia tăng, đồng tiền và lợi nhuận đã làm thay đổi quan niệm sống
của nhiều người, trong xã hội xuất hiện nhiều lối sống xa lạ trái với thuần
phong mỹ tục, với truyền thống nhân nghĩa, trọns; đạo lý của dân tộc. Nạn
tham nhũng, bn lậu, làm hàng giả có xu hướng phát triển; lối sống thực
dụng, vị kỷ, không lý tưởng... đã hình thành trong một bộ phận lớp trẻ; nhiều
trường hợp vì đồng tiền mà quên đi tình nghĩa thầy trị, gia đình, bạn bè...;
những hành vi tội ác xuất hiện ở trẻ vị thành niên...
Sự xuống cấp về đạo đức không chỉ diễn ra trong nhân dân mà cả trong
Đảng. Trong những nãm gần đày, khơng ít lần Đàng ta nhận định rằng: "Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý
tướng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo
đức và lối sống" [18, 137]; "Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm
chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máv Đảne và
Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đàng, đối với chế độ bị xói
mịn...” [18, 79]. Vì vậy, việc đẩy mạnh q trình xây dựng và hồn thiện đạo

đức mới đang được cả xã hội quan tâm.
Để nâng cao hiệu quà xàv dựnu một non đạo đức mới lanh mạnh, tiến bò
ở nước ta hiện nay, ch ú nu la phái sử duns nhiéu biên pháp khác nhau. Một
trong những biện pháp ấy là khôi phục và phát huv nhữny giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc.


Phật giáo là một tơn giáo lớn có q trình ton tại lâu dài ở nước ta. Trải
qua gần 2000 năm đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo đã để lại những dấu ấn
sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hoá, đạo đức của con người Việt Nam.
Nhiều phạm trù đạo đức mà Phật giáo đã đóng góp cho nền đạo đức dân tộc đến
nay còn phù hợp vẫn được duy trì sử dụng. Một số quy tấc, chuẩn mực đạo đức
của Phật giáo có những nét tương đồng với những quy tắc, chuẩn mực của nền
đạo đức xã hội vẫn được nhiều người tin theo và khuyến khích phát huy. Giá trị
tích cực của đạo đức tơn giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng đã được
Đảng ta khẳng định: "Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu và quyền lợi tinh thần của
một bộ phận nhân dân, nó cịn tồn tại lâu dài và chi phối đời sống tinh thần văn
hoá của một bộ phận dân chúng, trong đó có những giá trị đạo đức phù hợp với
lợi ích của tồn dân, với cơng cuộc xã hội mới" [2, 67], Gần đây trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảns; ta tiếp tục khẳng định: "Tín
ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân"... cần "phát huy những
giá trị tốt đẹp về vãn hố, đạo đức của tơn giáo". [19, 128]
Hiện nay, Phật giáo nói chung và những tư tưởng đạo đức Phật giáo nói
riêng vẫn đang tiếp tục ảnh hưởns đến con người Việt Nam. Một bộ phận dân
cư ngoài việc tin vào sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, vãn minh, cịn tin vào một tơn giáo nào
đó, trong đó có Phật giáo. Họ lấy niềm tin tôn giáo làm một trong nhữrm lẽ
sống của mình, lấy đạo đức tơn giáo làm một trong nhữns; chỗ dựa để điều
chính hành vi, xử lý các mối quan hệ eiữa cá nhãn với cá nhãn, giữa cá nhãn
với xã hội.

Vì vậy, việc tìm hiểu đạo đức Phật yiáo va nhừntỉ ảnh hưởní} của nó đốn
đạo đức con nsười Việt Nam hiện nay là một van đề cấp thiết khỏnẹ nhữnư; về
mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Với một bè dày [Ịch sư và co ánh hướne
sâu rộng trong quân chúns, đạo đức Phật giao đã qia nhập như một Vcu tố của
truyền thônỵ đạo đức dân tộc. Mặc dù cịn có những u tố tiêu cực soniT
những giá trị, những quan niệm và chuán mực đạo đức mà Phật giáo dật ra


cũng chứa đựng khơng ít những nhân tố có giá trị. Biết tận dụng, kế thừa, phát
huy những yếu tố tích cực đó là một trong những yếu tố góp phần xây dựng và
phát triển đời sống đạo đức lành mạnh trong xã hội ta hiện nay.
Vì những lý do trên đây, tôi chọn vấn đề "Ảnh hưởng của đạo đức P hật
giáo đến đạo đức con người Việt N a m ' làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đạo Phật là tồn giáo đã có q trình tồn tại cùng dân tộc gần 2000 năm.
Nghiên cứu đạo Phật từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và giới lý
luận. Cho đến nay, ở nước ta đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu đạo
Phật dưới những góc độ khác nhau. Có thể tóm lược thành những hướng
nghiên cứu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hướng nghiên cứu tìm hiểu đạo Phật trong q trình phát triển
lịch sử của nó, có thể kể đến các tác phẩm sau: "Việt Nam Phật giáo sử luận"
(3 tập) của Nguyễn Lang, Nhà xuất bản Văn học 1994; ''Lịch sử Phật giáo Việt
Nam" do GS Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1988;
"Việt Nam Phật giáo sử lược' của Thích Mật Thể, Hội Tãng ni Bắc Việt xuất
bản 1950; "Lược sử Phật giáo Việt Nam" của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật
giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản 1992...
Thứ hai, hướng nghiên cứu đạo Phật như một bộ phận cấu thành lịch sử tư
tưởng Việt Nam, được thể hiện trong các tác phẩm: ''Lịch sử tư tưởng Việt
N am " tập 1 do GS Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
1993; ''Lịch sử Phật giáo Việt Nơm ", tập 2 của GS Lê Sĩ Thắng, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội 1997; "Tư tưởng Phật °iâo Việt Nam" của Nguyễn Duv
Hinh, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1998: "Max vấn đê về Pỉìật Vìiio và lịch
sử tư tưởng Việt Nưm" gốm các bài vièt của nhiêu tác giá do Vien Triôt hoc
xuất bản nám 1986...
Thứ ba, hướng nghiên cứu đạo Phật trong mối quan hệ và sự ảnh hưởnc
của nó đối với đời sống tinh thẩn dàn tộc, có các tác phẩm: "Tìm về bcỉìì sắc

3


Có thể nói, đa số các cơng trình trên đã xem xét, đánh giá Phạt giáo trên
nhiều phương diện khác nhau, cả những giá trị tích cực và những mặt tiêu cực.
Nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu đạo đức Phật giáo trên quan điểm
triết học Mác xít một cách có hệ thống. Tác giả mong muốn góp phần làm
sáng tỏ thêm vấn đề đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con
người Việt Nam, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế của nó, trên cơ
sở đó góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết một số vấn đề mà thực
tiễn đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
- Mục đích: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức tơn giáo để làm rõ nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo,
chỉ ra những mặt tích cực và những hạn chế của nó, đồng thời làm rõ sự ảnh
hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử
cũng như trong hiện tại. Qua đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong quá
trình xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức tơn giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng. Trình
bày những nội dung chủ yếu cúa đạo đức Phật ơiáo.

+ Phân tích sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức truyền thống
dân tộc và đến việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
+ Nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy nhừnơ mặt tích cực và hạn chế
nhữnơ mặt tiêu cực của đạo đức Phật ỵiáo.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trune; nghiên cứu những si áo lý. ui ới luật
căn bản của Phật giáo mà qua đó thổ hiện nội dunii đạo đức: sự ánh hưứrm, Sỉiao
thoa giữa đao đức Phât eiáo và đao đức truvền thònu Viêt Nam: sư ánh hườnu của


4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận của luận án: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và đạo đức tơn giáo; Đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta vê tơn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng.
- Cơ sở thực tiễn của luận án: Quá trình tồn tại phát triển lâu dài của Phật
giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hố tinh thần
của dân tộc nói chung cũng như đối với đạo đức con người Việt Nam nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, lơgíc và lịch sử kết hợp
với các phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá, thống kê, đối chiếu, so
sánh...

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án.
- Định hướng cách tiếp cận vai trò của Phật giáo đối với đời sống xã hội
và con người Việt Nam.
- Làm rõ sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức dân tộc và
vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc xây dựng một nền đạo đức mới ở
nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn
chế những mật tiêu cực của đạo đức Phật giáo.

6. Ý nghĩa ]ý luận và thực tiễn của luận án.

Luận án đóng góp một phần vào việc đổi mới nhận thức về vai trị của
Phật giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng.
Luận án có thể sử duníỉW làm tài liêu
tham khảo Lronư;
nshiên
cứu, 7
.
o viêc
.
o
yiáng dạy những vấn đề có liên quan đốn Phật iiiáo và đạo đức Phật ui áo.
7. Kết câu của luận án.
Luận án bao gồm: Phan mơ đầu, 3 chương. 7 tiết, Kết luân và Danh mục
các tài liệu tham khảo.


Chương 1
VỂ ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

1.1. ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO - MỘT s ố VẤN ĐE ly l u ậ n .
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức tôn giáo.
* Cơ sở lý luận của vấn đề đạo đức tôn giáo:
Vấn đề tôn giáo và đạo đức không chỉ là vấn đé lý luận mà còn là vấn đề
thực tiễn. Có hay khơng có đạo đức tơn giáo? Đánh giá đạo đức tôn giáo như
thế nào đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Xung
quanh vấn đề này cịn có nhiều quan điểm khác nhau. Có thể tóm tắt thành hai
quan điểm chủ yếu sau đây:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tôn giáo khơng có đạo đức riêng. Đạo
đức tơn giáo chỉ là vay mượn đạo đức chung của nhân loại.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Có đạo đức tơn giáo nhưng đó là thứ đạo

đức hồn tồn đối lập với đạo đức trần thế; đạo đức tôn giáo khôns chứa đựng
các yếu tố tích cực, tiến bộ.
Muốn có một kết luận xác đáng về các vấn đề trên, chúng ta cần dựa vào
nhữns cơ sở sau đây:
T h ứ nhất, cẩn bắt đâu từ luận điểm của CNDVLS vé đặc điểm phản ánh
của ỷ thức xỡ hội. M ột trong những đặc điểm đó là sự rác độno Un nhau giữa
các ỉììtiìì thái V thức x ã hội trong quá trình phản ánh tồìì tụi x ã hội.
Trong khi chỉ ra nguyên tắc quyết định của tổn tại xã hội đối với ý thức
xã hội, CNDVLS đồng thời cũns chí ra rằng bản thân đời sống ý thức xã hội
cũng có tính độc lập riêrm của nó. Trong q trình phat Iriến. các hình thái

V

thức xã hội có sư giao lưu. kế thừa và ảnh hướng lản nhau. Như vâv, V thức tịn
giáo khơng bao giờ tồn lại một cách biệt lập với các hình thái ý thức khác như:
đạo đức, thẩm mỹ, chính trị, pháp luật... Giữa chúníĩ có sự liên hệ tác động qua
lại và ảnh hưởng lẫn nhau tạo ra sự phong phú của mỗi hình thai V thức xã hội.


Trong ý thức tơn giáo khơng thể khơng có những yếu tố của tư tưởng đạo đức,
thẩm mỹ, văn hoá... và trong điều kiện xã hội có giai cấp thì cịn có cả những
yếu tố chính trị, đảng phái nữa. Nếu như Lrong bản chất của tơn giáo chỉ tồn
là những sai lầm, ảo tưởng và tiêu cực thì có lẽ tôn giáo đã không thể tồn tại và
phát triển hàng ngàn năm trong lịch sử các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Trong cuốn sách "Phát hiện Ấn Độ", J. Nehru đã viết: "Rõ ràng là tôn giáo đã
đáp ứng một nhu cầu trong tính chất con người, và đa số rộng lớn con người
trên thế giới đều không thể khơng có một dạng tín ngưỡng nào đó... Tơn giáo
đã đưa ra một loại giá trị cho cuộc sống con người, mà dù một số chuẩn mực
ngày nay không cịn được áp dụng, thậm chí cịn tai hại, những chuẩn mực
khác vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức". [69, 29]

Như vậy, trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội, giữa hình thái tơn giáo
và hình thái đạo đức có quan hệ tương tác, đan xen và vay mượn lẫn nhau. Vì
vậy bản thân tơn giáo chứa đựng những nội dung đạo đức là điều có thể hiểu
được. Tơn giáo và đạo đức, với tư cách là những thành tố tạo nên kiến trúc
thượng tầng của xã hội, chúng có những cách phản ánh khác nhau đối với tồn
tại xã hội. Tôn giáo phản ánh một cách hư ảo hiện thực khách quan vào trong
đầu óc con người, trong đó cái hiện thực đã bị biến dạng, cái tự nhiên đã trở
thành cái siêu nhiên. Còn đạo đức phản ánh các mối quan hệ của con người với
nhau và với xã hội, đó là những mối quan hệ hiện thực.
Vấn đề cơ bản của mọi đạo đức tôn siáo cũne như mọi hoc thuyết đao
đức nói chung là vấn đề ý nghĩa cuộc sống con người. Tôn giáo xuất hiện tronơ
điều kiện con người không tìm được hạnh phúc trong cuộc sống trần thế. Niềm
tin tơn siáo đã sieo vào họ lịns tin ở sự cứu vứt. sự giải thoát. Nêu sự cứu vớt
và siài thốt khơng thực hiện được ớ cõi đời này thì có thể thực hiện được sau
khi chết. Niềm tin vàu cuộc sốns mai sau là nền táng của mọi tôn ụiao. Như
vậv. tơn giáo khơns đe cao cuộc sịng và hanh phúc trán gian. Con người cán
phái cam chịu,
nhãn nhục và khổ hạnh đế đến đươc thê ^iới cưc iac nưi thiên
'

1





o

-


đường. Tóm lại, tịn giáo dựa vào những nsiuvèn tác sau: 1) Từ bỏ hạnh phúc


trần gian; 2) Nhẫn nhục với tình cảnh nơ lệ; 3) Biết sợ hãi trước sức mạnh siêu
nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho giai cấp
thống tộ (dù rằng ỉúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn
giáo làm cho nhân dân mê muội, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. Mác gọi
tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân là theo nghĩa đó. Và cũng theo nghĩa đó,
đạo đức tơn giáo là đối lập với đạo đức chân chính.
T h ứ hai, khi xem xét tơn giáo như một hình thái ỷ thức x ã ỉìội, chúng ta
thấy nó chứa điùig nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng
đạo đức...) th ể hiện trong giáo lý tôn giáo.
Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức
nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tơn giáo
đều tuyên bố về giá trị tối cao của các lực lượng siêu nhiên (Thượng Đế, Chúa
Trời, Thần Thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn.
Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tơn giáo bao giờ
cũng có hai trình độ: trình độ tâm lý và trình độ hệ tư tưởng. Trong hệ tư tưởng
tôn giáo, thần học bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm. Nhiệm vụ chủ yếu của
thần học là chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế, lập luận cho tính đúng đắn
của các giáo lý tơn giáo và nhất ỉà của những lời răn dạy tôn giáo về đạo đức.
Trong hệ thống thần học từ xưa tới nay thườns có một bộ phận nghiẻn cứu về
đạo đức trên lập trường tôn giáo (thường được gọi là "thần học đạo đức").
Trong hâu hết học thuyết của các nhà thần học Tây Âu thời Trunìĩ cổ đều co
một phần quan trọng của học thuyết đạo đức. Trons thời đại phát triển mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, các nhà thần học càng đặc biệt quan
tâm nghiên cứu vấn đề đạo đức, đậc biệt là những chuẩn mực đạo đức đáp ứng
được nhu cầu của cách maniz khoa hoc và côns rmhệ hiên đai.
Thực tế cho thấy quan niệm đạo đức của hầu hét mọi tòn iĩiáo, nsỉồi
những giá trị đặc thù hảo vệ niềm tin tơn siáo thiêng liêng còn đề cập đến

những chuẩn mực đạo đức mane tính nhân loại như: sống hiếu thảo với cha
mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thièn, tránh xa điều ác...


Hơn nữa, đạo đức tơn giáo có một nét đặc thù: những quy phạm, những
điều răn dạy, cấm đoán... trong đạo đức tơn giáo ngồi việc khuyẽn khích
hướng thiện cịn tạo ra sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi. ở những trường hợp
tu hành đạt đến"tự giác", đến "giác ngộ", con người hành động có đạo đức vì
triết lý đạo đức tôn giáo đã thấm vào họ, chuyển thành nhân sinh quan trong
cuộc sống. Song trên thực tế, có nhiều người thực hành đạo đức tơn giáo do sợ
hãi, do sợ bị trừng phạt.
Về mặt nào đó, tơn giáo đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ
thể của cuộc sống thế Lục và những giá trị có tính nhân văn. Có thể coi đó là
tiếng chuông đồng điệu của tôn giáo với đời sống xã hội. Hầu hết mọi tôn giáo
khi mới ra đời đều phản ánh khát vọng về tự do, công bằng, bác ái... của người
dân lao động. Bằng hình thức phản ánh đặc thù, tôn giáo thực sự mang lại cho
con người một sự "an ủi mơ hồ", giúp họ khắc phục những khoảng trống hẫng
hụt trong cuộc sống.
Như vậy, chúng ta thấy cả hai ý kiến trên đều phiến diện hoặc khơng
chuẩn xác. Có lẽ giáo sư Nguyễn Hữu Vui đã có một cách đánh giá cơng bằng
và xác đáng khi cho rằng: "Trong hệ thống nhữns giá trị chuẩn mực tơn giáo,
ngồi những điều khun răn cấm đốn tạo nên nội dung riêng của đạo đức tơn
giáo cịn có những điều khun răn cấm đốn khơng hề có nội dung tôn giáo,
mà là biểu hiện của các mối quan hệ thuần tuý trán thế. [113, 46]
Chảng hạn trong' Kinh thánh, ngoài việc quan niệm Thượng Đ ế là tồn tại
tuyệt đối, là cá nhân tuyệt đối toàn năng về đạo đức cịn có những lời khun
hết sức trần thế: Kììơiìg giết người, khơng trộm cắp, kỉìơììịị từ dâm, khơng làm
chứng giả đ ể hại người... Hoặc, nhữne phạm trù đạo đức mang tính khái quát
trong Phật giáo: T ừ bi, bình đắỉiẹ, bác ái.... nếu ta bỏ đi cái bỏ thiêng liêng
thần bí, ta sẽ thấy nó có ỷ nghĩa nhất định đối với đưi sông xã hôi của chúne ta

ngày nav.


T h ứ ba, nghiên CÍỈÌI, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta có th ể khẳng
định rằng: khi bàn về tôn giáo, vấn đề đạo đức tôn giáo đã được đề cập. Chủ
nghĩa Mác khơng chỉ nói nhiều đến mặt tiêu cực của đạo đức tôn giáo mà các
nhà kinh điển cịn chỉ ra ý nghĩa tích cực của nó.
Theo Mác, "Sự nghèo nàn của tơn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy".
[55, 570]
Ãng-ghen đi sâu vào lịch sử của tôn giáo, đặc biệt là lịch sử của Thiên
chúa giáo và chứng minh rằng sự xuất hiện của tôn giáo này là sự phản ứng lại
sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như vậy, Phật giáo nguyên
thuỷ là khát vọng của quần chúng phản kháng lại sự phân chia đẳng cấp khắc
nghiệt của xã hội Ân Độ cổ đại. Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu thương giữa
con người với con người. Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả, vơ ngã,
vị tha. Ngồi ra, chúng ta cịn có thể nêu lên những nét tích cực của nhiều tôn
giáo khác khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu thương giữa người
với người, hướng con người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức và xa
lánh những điều ác.
Song, cũng phải thừa nhận ràng, Mác, Ảng-phen và Lênin không đi sâu
vào những vấn đề nói trên. Tồn bộ thời gian của các ông bị cuốn hút vào
những vấn đề cơ bản của cách mạng, những vấn đề gắn với sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức trên tồn thế giới.
Khi phân tích đánh giá vai trị xã hội của tơn giáo, các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác-Lênin đã không xa rời chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, gắn vấn đề tôn giáo theo quan điểm cu thể và xuất phát
từ thực tế sinh động của cuộc sốn£. Lênin thường nói đèn vai tro tiêu cực của
tơn giáo và của giáo hơi tronỉĩ một tình huỏng cu thể. Đó là sư lơi dune tịn
giáo của các thế lực tư sản phản độns để bảo vệ chế độ bóc lột và đáu độc

quẩn chúng bị áp bức.

I

1

1i


Điểm nổi bật trong học thuyết về tôn giáo của cìiủ nghĩa M ác-Lênin la:
tơn giáo thườtig được xem xét gắn liền với tình hình đấu tranh giai cấp ở Châu
 lúc đương tììời, phục vụ trực tiếp cho yêu càu cách mạng của giơi cấp vơ sản.
Do ỉiồn cảnh lúc đó, các ơng phải nói nhiêu đến mặt tiêu cực của tơn giáo mà
chưa có điều kiện đi sâu nghiên cíãi các kỉìíơ cạnỉì văn ìiố, tâm lý, tình cảm,
đạo đức của tôn giáo.
Tuy nhiên, phải thấy rằng các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin cũng
đã lưu ý đến khía cạnh tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhàn dân, nhu cầu
của sự phát triển xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Ph. Ăng-ghen viết: "Tôn giáo do con người sáng tạo ra, bản thân những
người này cảm thấy được nhu cầu cần phải có tơn giáo của quần chúng”. [56,
438-439]
Ảngghen cịn chỉ rõ, sự xuất hiện của đạo Kitô ở La Mã cổ đại đã đáp ứng
yêu cầu của quần chúng nô lệ bị áp bức mong muốn được giải phóng, nhưng
lại khơng có cách nào giải phóng trong hiện thực. Cịn Mác cũng đã chỉ rõ:
chính thế giới con người khơng hồn thiện đã sản sinh ra thế giới ấy là một thế
giới cần có tơn giáo và ngược lại tổn giáo cũng đáp ứng những yêu cầu của con
người trong các thế giới ấy. Khi bàn về thuyết tạo thần, Lênin cũng nhìn thấy
tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, chí có điều là đứng trước kẻ thù
đang ra sức đề cao nhu cầu tôn giáo để chống lại cách mạng thì Lênin đã phê
phán khơng thương tiếc nhữn^ nhà văn tuyên truyền tạo thẩn và "nâng nhu cáu

tơn giáo lên".
Về chính sách của Đảng cộng sản đối với tôn giáo, Lênin luôn nhắc nhở
rằng: Không được đối xử với tôn si áo một cách thô bạo, không được côns khai
tuyên chiến với tôn giáo; cần phái gắn việc phê phán tôn giáo với vận độnc
quần chúng đưa quần chúniĩ vào hoạt độns thực tiễn để xây dựrm "thiên đườntĩ
trên trái đất".
Trong quá trình vận độn^ của lịch sử. chính lợi ích của eiai cáp thơng trị
đã chi phối và thao túng tòn giáo. Chúng đã biên đao đức tôn giáo thành bộ áo

12


nguỵ trang cho lợi ích giai cấp. Bên cạnh việc đẽ cập đến tôn giáo như một
hiện tượng tiêu cực trên con đường cách mạng và những vấn đề cần được giải
quyết đúng đắn trong nhận thức của những người cộng sản về tôn giáo, các nhà
kinh điển cũng thừa nhận những mặt tích cực của nó. Việc các nhà kinh điển
phê phán đạo đức tơn giáo có lẽ chỉ trong trường hợp nó bị giai câp bóc lột
thống trị lợi dụng mà thơi.
Về mặt nào đó, phải thấy rằng, cịn tơn giáo là cịn chức năng thuốc phiện
cùng những tiêu cực khác, nhưng đặc điểm của sự phản ánh tơn giáo cũng đã
làm cho nó có khả năng chứa đựng những giá trị tích cực. Giá tri lớn nhất của
tơn giáo là nhữìig giá trị thuộc về đạo đức và văn hố. Đạo đức tơn giáo góp
phần hướng con người theo cái thiện, chống cái ác, bồi dưỡng lòng nhân ái vị
tha. Bản thân tôn giáo không đủ khả năng để giải quyết các yêu cầu của con
người trong cuộc sống, song nhiều khi nó góp phần tạo ra sự bình ổn và cân
bằng tâm lý cho con người. Đạo đức tôn giáo đưa ra những mẫu mực lý tưởng,
những chuẩn mực sống tối thượng mặc dù bản thân nó khơng sao hiện thực
hố được những lý tưởng và chuẩn mực đạo đức đó, song nó là sự cổ vũ tinh
thần cho lý tưởng đó và chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản sẽ là người hiện thực hố lý tưởng và chuẩn mực đó.

Trên cơ sở lý luận đã nêu, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đạo đức tôn
giáo. Trước hết, chún^ ta tìm hiểu về khái niệm đạo đức.
Trong T ừ điển Tiếng Việt, N hủ xuất bản D à Nầng, /9 9 7 co iỊÌải thích
"đạo đức" theo hai nghĩa sau:
1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định
hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡnu theo n h ữ n í tièu chuẩn
đạo đức mà có.
Cịn đạo đức học là khoa học nghiên cứu nội dunc quá trình phát sinh,
phát triển của đạo đức.


Đạo đức học Mác - Lênin cho rằng: Đạo đức ỉa một hình thái ỷ thức xã
hội đặc thù, một phương thức điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống x ã hội thông qua một hệ thống ììỉũùìg giá trị, nguyên tắc, chuẩn
mực biểu thị sự quan tâm tự nguyện tự giác của con người với con người, con
người với x ã hội.
Như vậy, theo quan điểm mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
một định chế xã hội thực hiện các chức năng điều chỉnh hành vi con người.
Đạo đức là những nguyên tắc sống, những quy phạm gắn liền và phù hợp với
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, được hình thành từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội; những quy phạm, nguyên tấc, tiêu chuẩn, lý
tưởng này có tính chất nhất thời về lịch sử và mang tính giai cấp rõ rệt.
Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai
cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội
đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế
phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Cịn các
giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.
Khi phê phán Đuy-rinh về sự thừa nhận có một thứ đạo đức vĩnh cửu cho
mọi thời đại, Ăng-ghen đã khẳng định: "Xét cho đến cùng, mọi học thuyết đạo

đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội
lúc bấy giờ" và do vậy, "từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sanu
thời đại khác, những quan niệm thiện và ác đã biến đổi nhiều đẽn mức chúns
thường trái ngược hẳn nhau". [57; 135, 137]
Trong cuốn "Đạo đức học", Badzeladze cho rằng trong xã hội nguyên
thuỷ. trình độ sản xuất còn rất thấp kém. sán phám làm ra còn quá ít. Trone
điều kiện thiếu thốn về kinh tế. xã hội nguven thuv không đu khá năng nuoi
những thành viên mất khả năn« lao động và chiên đấu. Vì vặ\ việc con cái siết
cha mẹ già được coi là hành động chính đang, hợp đạo đức, cịn khơn^ làm
việc đó bị coi là khơng có đạo đức. Có người siải thích điêu này bằng niềm tin


tơn giáo rằng con người sau khi chết cịn tiếp tục sống ở cõi bên kia. Điều này
không sai, song cái gốc của nó là điều kiện kinh tế của đời sống.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là những quy tắc căn cứ
vào chế độ chính trị mà đặt ra, quy định quan hệ giữa người với người, giữa cá
nhân và xã hội nhằm để bảo vệ chế độ kinh tế và chế độ xã hội. Đạo đức là
một phạm trù lịch sử. Mỗi thời đại, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc có những nguyên
tắc chuẩn mực và đạo đức nhất định. Song bên cạnh đó vẫn có những giá tiị,
chuẩn mực đạo đức mang tính tồn nhân loại.
Cịn đạo đức tơn giáo là gì? Có lẽ nên tham khảo ý kiến của Bertrand
Russell trong cuốn "Khoa học và tôn giáo". Tác giả cho rằng: một tơn giáo lớn
bao giờ cũng gơm có một hệ thống tín điều, mộl hệ thống đao đức và một giáo
hội. Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được mà phải sống theo
những khuỏn phép đạo đức, hợp với tín điều của tơn giáo mình. Hành đạo khơng
phải chỉ là thực hành một số hình thức nghi lễ mà còn sống theo những quy tắc
đạo đức nhất định. Đạo đức trở nên một bộ phận cấu thành của tơn giáo.
Từ đó, có thể thấy rằng: Đợo đức tơn giáo ìà tồn bộ tìỉìữìig quan niệm,
những quy tắc đạo đức được th ể hiện trong các giáo lý tôn giáo (đặc biệt thông
qua các điêu răn cấm) nhảm điêu cỉìỉnỉi hành ri của con người theo th ể giới

quan và nhân sinh quan tơn giáo.
* Vai trị của đạo đức tơn giáo đối vói địi sống x ã hội:
Các tơn giáo trong q trình phát triển, truyền lan trên bình diện thế giới
khơng chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin mà cịn có vai trị chuyển tải, hồ
nhập văn hố và văn minh, góp phần duy trì đạo đức x ã ỉìội Hơi trân thế. Tơn
giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sô nu tinh thần của con người. Với tư cách
là một bộ phận của ý thức hệ, tôn siáo đã đem lại cho cộne đồng xã hội, một
khu vạrc. một quốc ưia, một dàn tộc những biếu hiện độc đáo thè’ hiện tronu
cách ứng xử. lối sống, phong tục. tâp quán, trons các yòu tố văn hoá vật chất
cũnơ như tinh thần.

15


Điều dễ nhận thấy là những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau
về niềm tin, rất xa nhau về địa lý vãn có một mẫu số chung là nội dung khuyến
thiện. Cái mạnh trong truyền thụ đạo đức tồn giáo là ngồi những điều phù hợp
với tình cảm đạo đức của con người, nó lại được thực hiện thơng qua tình cảm
tín ngưỡng, lịng tin giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tơn giáo được tín đồ tiếp
thu tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ
trong các quan hệ cộng đổng. Khi hoạt động hướng thiện của con người được
tơn giáo hố sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn. Sẽ là sai lầm nếu phủ
định hoặc xem nhẹ mặt tích cực này của tơn giáo trong việc xây dựng một nền
đạo đức xã hội tương ứng với một xã hội văn minh và phát triển cao về đời
sống vật chất. Ngày nay, việc phát huy mặt tích cực của đạo đức tơn giáo là
hồn tồn hợp lý nhằm xây dựng con người mới và nền văn hố mới. Những
giá trị và chuẩn mực của tơn giáo khơng chỉ ảnh hưởng trong đồng bào có đạo
mà còn lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Điều đó góp phần
chống lại sự xâm nhập của các hiện tượng phi đạo đức, hay sự suy thoái về đạo
đức nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và đẩy mạnh mở cửa trong

quan hệ quốc tế. Tuy vậy, cũng không nên cường điệu mặt tích cực đến mức
khơng thấy trên bình diện thế giới quan, ý thức hệ tôn giáo với triết lý nhân
sinh thụ động đã ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của đồng bào có đạo trong
cơng cuộc cải tạo thế giới hiện thực để mưu cầu hạnh phúc trẩn thế của mình.
Bởi vì suy cho cùng, đạo đức tơn giáo vẫn cố íắng hướniỉ con ne ười quên
lãng nỗi khổ đau trần tục, đưa

ỈÌỌ

vê một th ế giới ảo tưởng, trong khi đó để

khấc phục những khổ đau đó họ lại cần đến những phương tiện hiện thực, cần
đến nghị lực để vượt bỏ một cách hiện thực xã hội trần thế.
Tơn giáo khơ nu chỉ có nội duns các quan niệm đạo đức mà còn cỏ cả
những chức năng và tổ chức dể điều chỉnh các hành vi đạo đức và hiện thực
hoá các quan niệm đạo đức. Khi tơn ơiáo thực hiện các chức nănơ của mình:
chức nãng thế giới quan, chức năng liên kết, chức nãnu íĩiao tiếp... thì đồng
thời cũng thực hiện việc điều chính hành vi đạo đức hoặc hình thành V thức


đạo đức của những người có đạo. v ề mặt bản chất, chúng ta không thể quên
rằng: thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một khi nó thâm nhập
được vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng chịu ảnh
hưởng tôn giáo) sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần,
tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng
thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đố theo một triết lý sống khơng hành
động, khơng đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu
để mau chóng được giải thốt ở bên ngoài thực tại nơi Thiên đường của Chúa
hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tơn giáo, cuộc đời là nơi đầy những
cám dỗ, "lành ít, dữ nhiều", đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế,

vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa, trở về nơi nước
Chúa phải tránh xa quỷ dữ. Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát)
phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng. Mọi tai ương đều do Tham - Sân - Si mà
ra cả. Tất cả những quan niệm, những triết lý sơng đó cho tháy mặt tiêu cực
của th ế giới quan tôn giáo. Tuy nhiên, trong chức năng này của tôn giáo ta có
th ể tìm tììấy các hạt nhân hợp lý của nó: đó là kìiía cạnh tu dưỡng đạo đức, đề
cao luân lý và sư hướng thiện, làm điêu thiện, tránh điều ác.
Các chuẩn mực của tôn giáo không nhữnsỉ thể hiện trong lễ nghi tơn
giáo (lễ giáo) mà cịn bao hàm trong các thuyết về luân lý - đạo đức - xã hội
do các giáo hội soạn thảo (giáo luật). Trong các giáo luật này có chứa đựng
những quy tắc chi tiết những điều nên làm và những điều kiêng kỵ (ngăn
cấm) đối với các tín đồ trong mọi mối quan hệ ứng xử. Những chuẩn mực đó
được bổ sung, phát triển, thay đổi cho phù hợp với những diễn biến của thời
đại, với đặc điểm dân tộc và tâm lv con người. Các chú trương "trở vổ với dãn
tộc", "hiện đại hố", "quẩn chúng hố", "hồ hợp Đạo với Đời" của các
phong trào cải cách tôn siáo tronĩi bối cảnh thê giới nìĩày nay chính là phán
ánh chức náng điều chỉnh của tịn «iáo nói riêne và xu hướníỉ vận động của
tơn giáo nói chung.


Niềm tin tơn giáo, tình cảm đạo đức tơn giáo một khi được hình thành và
nâng cao có th ể trỏ thành một động lực mạnh m ẽ thúc đẩy khả năng sáng tạo
của con người. Với hình thức phản ánh đặc thù, với chức năng khá đặc biệt
"đền bù hư ảo", tơn giáo và đạo đức tơn giáo có thể tạo nên những phút thăng
hoa trong cuộc sống con người, trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy khả nãng
sáng tạo của họ. Thừa nhận điều này, chúng ta có thể cắt nghĩa được vì sao
nhiều cơng trình văn hố có giá trị trên thế giới và những phát minh khoa học
lớn lại do những nhà văn hoá và khoa học theo tòn giáo tạo nên.
Khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam, chúng ta thấy rằng: một khi
tình cảm tơn giáo chuyển thành tình cảm, tâm lý dân tộc sẽ tạo ra những nội

lực mạnh mẽ góp phần củng cố khối đồn kết tồn dân, chống lại sự xâm nhập
của các yếu tố ngoại lai. (Ví dụ: hiện tượng Tam giáo đồng nguyên đã góp
phần củng cố các giá trị của dân tộc). Hay khát vọng bình đẳng, bác ái, tư
tưởng từ bi của Phật giáo đã hoà quyện với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, từng
là một động lực để xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc (đặc biệt trong thời
kỳ Lý - Trần).
Nói đến vai trị của đạo đức tơn giáo đối với xã hội cịn phải nói đến vai
trị của các tổ chức tôn giáo. Niềm tin, lý tưởng, đạo đức tơn giáo có đi được
vào ý thức quần chúng hay khơng trước ỉìêí là nììờ vào tổ chức tơn giáo. Ngồi
các chức năng thuần t tơn giáo, các tổ chức tòn giáo còn thực hiện những
hoạt động kinh tế, chính tiị, xã hội, văn hố, giáo dục... Hiện nay, tơn giáo có
xu hướng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề của trần thế thay vì chỉ chú trọng tới
cuộc sống bên kia. Các nhà nghiên cứu gọi xu thế này là "thế tục hố" tơn
giáo: quan tâm và phục vụ đời sốnw con người nơi trần thế. Thông qua các hoạt
độ nu mang tính thế tục của tổ chức tịn máo mà đạo đức tơn giao và tơn o iáo
nói chung thế hiện vai trị tiến bộ nhất định tron í đời sốny vật chải, tinh thần,
đạo đức của xã hội.
Trong quá trình vận dộng, phứt triển cùa cúc tôn giáo, đạo đức tôn gián
luôn dược cức nhà thẩn học, những tn thức của cúc tôn giáo bô sung, ỉàni

lo


phong phú bằng các vấn đ ề cụ th ể của đạo đức trần thê' trong từng giai đoạn
lịch sử, tìùig dân tộc. ở Việt Nam trong những năm gần đây đã nhấn mạnh:
"Kính Chúa yêu nước", "tốt đời đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân tộc”.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đề cập đến phương châm hành đạo là: "Đạo
pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội".
Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với sự đổi mới nhận thức về CNXH,
việc đổi mới nhận thức về vai trị của tơn giáo đã và đang tiếp tục được thể

hiện về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn. Tôn giáo không chỉ được đánh
giá về phương diện nhận thức luận, ý thức hệ mà còn được chú ý cả về phương
diện xã hội học. Các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng, ngoài những mặt tiêu cực
ra, tơn ẹiáo và đạo đức tơn giáo cịn có nhữỉig đóng góp nhất định về mặt văn
hố, đạo đức cho dân tộc, cho x ã hội và con người.
Việc đánh giá khách quan này sẽ rất có ý nghĩa khi chúng ta đặt câu hỏi
về tương lai của tôn giáo. Nếu chúng ta xác định rằng, tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội cịn tồn tại lâu dài với con người thì việc tìm hiểu một cách
chính xác về "bản chất" của tơn giáo sẽ có ý nghĩa về mặt lý luận trong việc
chế định đường lối chính sách đối với tơn giáo, trong việc bảo vệ và tu tạo các
di sản văn hố tơn giáo.
Mác và Ph. Ảngghen đã đề cập đến tươne lai của tồn giáo trên cơ sở khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hai ônỵ,
khẳng định tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có mối liên hệ phụ thuộc
vào điều kiện xã hội nhất định. Hai ông cũng chỉ rõ tôn giáo cũng có q trình
phát sinh, phát triển và tiêu vong của nó. c . Mác và Ph. Ảngghen đã phát biểu
rõ ràng quan điểm của mình vổ tương lai của tồn giáo hay sự tiêu vonu của tôn
giáo trong các tác phẩm nổi tiếntĩ như "Tư bản" và "Chône Đuy-rinh".
Theo hai ơng, tồn giáo chỉ có thể tiêu von 2 khi con n«ười nám được quy
luật khách quan và phát triển sán xuất tơi một trình độ cao đê’ có thổ làm chủ
được tự nhiên, xã hội và bán thàn mình, con nu ười khơn^ cịn bị chi phơi bới

19


những lực lượng tha hố ở bên ngồi kể cả những lực lượng siêu trần thế, để
con người có thể "mưu sự tại nhân, thành sự cũng tại nhân", c . Mác và Ph.
Ảngghen cũng nhấn mạnh rằng để tạo ra được cơ sở vật chất ấy phải có một
quá trình lịch sử lâu dài, phải vượt qua nhiều khó khăn trắc trở. Những kiến
giải đúng đắn và thiên tài của hai ông dựa trên nhận thức khoa học về quy luật

phát triển khách quan của xã hội đương thời.
Nhưng sự phát triển thực tế của tình hình xã hội và tôn giáo trong những
thập kỷ gần đây chứng tỏ hiện nay vấn đề cơ sở tồn tại của tôn giáo và điều
kiện tiêu vong của nó rất phức tạp. Khoa học kỹ thuật đã phát triển đến trình
độ cao giúp con người có thể làm chủ được tự nhiên, song còn biết bao mối
quan hệ mà con người vẫn chưa thể giải quyết được: vấn đề mối quan hệ giữa
chủ quan và khách quan, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa hữu hạn và vô hạn,
giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa mơ ước và hiện thực... Cuộc đời vẫn còn
những may rủi, bất hạnh, những cảm giác trống rỗng, mất cân bằng về tâm lý
trước bệnh tật, tai họa khơng thể đốn định trước... Những sự thực đó cịn tồn
tại thì tơn giáo khơng dễ dàng mất đi.
Như vậy, tôn giáo trong tương lai sẽ như thế nào? Nhiều người dự đốn
đó là khả năng "văn hố hố tôn giáo".
Một trong những nguyên nhân khiến cho tư tưởng tôn giáo dễ xâm nhập
vào đời sống tinh thần của con người là vì: rác tơn giáo đều có trong giáo lý
những tư tưởng nhân đạo, ít nhiều phù hợp với mong muốn và lòng nhân ái của
quần chúng lao động. Ở nội dung đạo đức đó. cức tơn giáo oầ n ofii với chủ
nghĩa nhân đạo múc xít.
Như trên đã phân tích, ta thấv đạo đức tơn £Íáo có nhiều điểm tích cưc,
phù hợp với xã hội ta hiện nay như Đán ‘4 ta khẳne định. Sonti. cũng sẽ là
khơns khoa học nêu chúns ta tuvơt đỗi hố đao đức tịn giáo, thổi phơ nu vai
trị của nó như một số nu ười cho rằnc: sự suv đổi đạo đức xã hội trong xã hội
vãn minh này chỉ có thể tìm cách "chạy chữa" bằng đạo đức tơn ciáo. Bời vì

20


như Ăng-ghen nói, ngay cả một số những yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo
cũng chỉ giống về mặt hình thức với đạo đức mới của chúng ta mà thơi! Đạo
đức tơn giáo là một hình thái ý thức đặc biệt, nó có nội dung và hình thức phản

ánh riêng, trong đó các quan hệ xã hội hiện thực kể cả các quan hệ đạo đức
đều mang màu sắc của mối quan hệ siêu nhiên.
Mặt khác, suy cho cùng, đạo đức tôn giáo cô £ắng hướng con người quên
nỗi đau khổ trần tục, hướng họ về một thế giới ảo tưởng. Nó đã khơng đề cập
đến sức mạnh xã hội được tổ chức để khắc phục hiện thực mà chỉ khun con
người quay về tự hồn thiện mình tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội. Vì
vậy, mặc dù tôn giáo "là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực"
nhưng vẫn chỉ là sự phản kháng mang tính tiêu cực và thụ động mà thơi.
Chính vì vậy, thái độ khoa học là phải biết "eạn đục khơi trong", tìm ra và
giữ lại những gì là tinh tuý trong mọi di sản tinh thần để kế thừa. Trên ý nghĩa
đó, chúng ta hồn tồn có căn cứ để nói rằng đạo đức tơn giáo có những điểm
phù hợp nhất định với nền đạo đức mới của chúng ta hiện nay, góp phần vào
việc xây dựng, phát triển đời sống xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh vẽ đạo đức tơn giáo.
Tìm hiểu tư tưởng Hổ Chí Minh vê tơn giáo vớ đạo đức tơn giáo, trước hết
chúng ta thấy rằng: Hổ Chí Minh đã sớm nhìn thấy "hạt nhân hợp lý” trong
các tơn giáo lủ sự hướng thiện, lủ những giá trị đạo đức và văn hố.
Mục đích cả của cuộc đời Người là tồn tâm tồn ý vì cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng những người "cùns khổ", nhằm đấu tranh cho một
nhân loại ấm no hạnh phúc, cônơ bằng, văn minh, một thế ơiới đại đồng trên
cơ sở bình đẳng, hữu nuhị £Íữa các quốc tĩia, dàn tộc. Chính vì vậy, dường như
trong bất kỳ trườn íĩ hợp nào có thể. N i ười cũng gắny khai thác trong tư lường,
hành vi của các bậc vì nhàn cũnơ như của nhữnẹ người sáng lập các tôn eiáo
những yếu tô' cần thiết chu mục đích cao cá của bàn thân, cấn thiết cho dân tộc
và cho nhân loại. Người tiẽp thu, crạn lọc trone đó những tinh hoa, biến no
thành những điều mà con người bất cứ thời đại nào cũng cần cỏ.

A

I


í. i


×