Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực trong thơ việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

VŨ THỊ LAN ANH

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG
VÀ SIÊU THỰC TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

VŨ THỊ LAN ANH

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA TƢỢNG TRƢNG
VÀ SIÊU THỰC TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành:
Mã số:

Lý luận văn học
62 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Trần Khánh Thành


XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ
CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
Người hướng dẫn khoa học

Chủ tịch hội đồng đánh giá
Luận án Tiến sĩ

PGS.TS. Trần Khánh Thành

PGS.TS. Đoàn Đức Phương

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chính xác cao nhất. Các tài liệu tham
khảo trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Tác giả

Vũ Thị Lan Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
4. Đóng góp mới của luận án ....................................................................................4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................5
6. Cấu trúc của luận án .............................................................................................5
NỘI DUNG ................................................................................................................7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .....................................7
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực ............................................7
1.1.1. Chủ nghĩa tượng trưng ....................................................................................7
1.1.2. Chủ nghĩa siêu thực .......................................................................................11
1.2. Nghiên cứu về chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực trong thơ hiện đại Việt
Nam...........................................................................................................................14
1.2.1. Hướng nghiên cứu về những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng, siêu
thực trong tư tưởng sáng tác của các tác giả thơ Việt Nam hiện đại ....................14
1.2.2. Hướng nghiên cứu về những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng, siêu
thực trong bút pháp nghệ thuật của các tác giả thơ Việt Nam hiện đại................17
1.2.3. Hướng nghiên cứu về những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng, siêu
thực trong thơ Việt Nam qua các giai đoạn từ góc nhìn so sánh ..........................21
1.2.4. Nghiên cứu về tượng trưng, siêu thực ảnh hưởng đến quá trình sáng tác
của một số tác giả thơ hiện đại tiêu biểu .................................................................27
CHƢƠNG 2: YẾU TỐ TƢỢNG TRƢNG, SIÊU THỰC TRONG PHONG
TRÀO THƠ MỚI NHÌN TỪ GĨC ĐỘ BỐI CẢNH TIẾP NHẬN VĂN HÓA
PHƢƠNG TÂY ĐẦU THẾ KỈ XX ........................................................................31
2.1. Phong trào Thơ mới trong hành trình phát triển tƣ duy nghệ thuật ..........31
2.2. Những biểu hiện của chủ nghĩa tƣợng trƣng trong Thơ mới ......................43


2.2.1. Sự tương hợp, tương giao trong cảm nhận về thế giới ................................43
2.2.2. Sử dụng biểu tượng trong Thơ mới...............................................................51
2.2.3. Nhạc tính trong Thơ mới ...............................................................................60
2.3. Những biểu hiện của chủ nghĩa siêu thực trong Thơ mới ............................64
2.3.1. Khám phá hiện thực tuyệt đối bằng giấc mơ ................................................66
2.3.2. Khám phá siêu thực bằng trực giác ..............................................................70

2.3.3. Phương thức tạo hình độc đáo của các nhà thơ siêu thực ..........................71
CHƢƠNG 3:YẾU TỐ TƢỢNG TRƢNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ VIỆT
NAMGIAI ĐOẠN 1945 – 1975 VÀ NHU CẦU CÁCH TÂN, HIỆN ĐẠI HÓA
THƠ ..........................................................................................................................75
3.1. Bối cảnh thơ khu vực miền Bắc giai đoạn 1945 - 1975 .................................75
3.2. Những biểu hiện của khuynh hƣớng tƣợng trƣng, siêu thực trong thơ Trần
Dần ............................................................................................................................77
3.2.1. Ngôn từ thơ giàu sức gợi cảm và nhạc tính ..................................................77
3.2.2. Thơ Trần Dần sử dụng biểu tượng đầy ám ảnh ...........................................82
3.3. Những biểu hiện của khuynh hƣớng tƣợng trƣng, siêu thực trong thơ
Hoàng Cầm ..............................................................................................................85
3.3.1 Lối viết tự động ................................................................................................85
3.3.2. Giải mã những giấc mơ .................................................................................87
3.3.3. Phương pháp tạo hình ...................................................................................93
3.3.4. Thơ Hồng Cầm mở ra tính chất tương giao và những liên tưởng bất ngờ
...................................................................................................................................96
3.3.5. Những sáng tạo về nhạc tính .........................................................................99
3.4. Bối cảnh văn học miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 .....................................101
3.5. Thơ Thanh Tâm Tuyền trong ảnh hƣởng của chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu
thực .........................................................................................................................105
3.5.1. Những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Thanh Tâm Tuyền .......105
3.5.2. Những biểu hiện của yếu tố siêu thực trong thơ Thanh Tâm Tuyền ........111


3.6. Bùi Giáng với những ảnh hƣởng của chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực
.................................................................................................................................116
3.6.1. Hệ thống thi ảnh biểu tượng trong Bùi Giáng ...........................................118
3.6.2. Dòng chảy siêu thực trong thơ Bùi Giáng ..................................................123
CHƢƠNG 4:YẾU TỐ TƢỢNG TRƢNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ VIỆT
NAMSAU 1975 THỰC HÀNH SÁNG TẠO TRONG THẾ GIỚI ĐA TRỊ ....128

4.1. Phác thảo diện mạo thơ Việt Nam từ sau 1975 .......................................... 128
4.2. Dấu ấn của chủ nghĩa tƣợng trƣng trong thơ Việt Nam từ sau 1975........131
4.2.1. Dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong cảm hứng và tư duy nghệ thuật ....131
4.2.2 Dấu ấn tượng trưng trong ngôn từ và nhạc điệu ....................................... 135
4.3. Dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực ....................................................................139
4.3.1. Dấu ấn siêu thực trong cảm thức nghệ thuật .............................................139
4.3.2. Dấu ấn siêu thực trong cấu trúc văn bản ngôn từ .....................................148
KẾT LUẬN ............................................................................................................161
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................165


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử văn học nhân loại đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau,
trong đó có những thời kì nở rộ nhiều trường phái, trào lưu nghệ thuật có sức lan tỏa
sâu rộng. Ở phương Tây, chủ yếu là tại Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX hình
thành chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực với hệ thống quan niệm và những nguyên
tắc sáng tạo đặc thù, mang tầm ảnh hưởng lớn lao, không chỉ thúc đẩy thơ ca phát
triển rực rỡ mà cịn thâm nhập vào nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như hội
họa, điện ảnh, điêu khắc ... Bằng những triết thuyết, tuyên ngôn, lý luận chặt chẽ,
và nhất là thực tiễn sáng tác đầy sức cuốn hút, thi phái tượng trưng, siêu thực đã
phát triển và định hình vị thế của mình trong nền thơ ca thế giới. Đối với Việt Nam,
một đất nước phương Đông, thuộc tiểu vùng Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX, đã diễn
ra một cuộc gặp gỡ, giao lưu và tiếp xúc về văn hóa rất mạnh mẽ, góp phần đưa văn
học Việt Nam kết nối và hòa nhập cùng quỹ đạo chung của thế giới. Trong tầm ảnh
hưởng của quy luật giao lưu, tiếp nhận các loại hình nghệ thuật cũng như các trường
phái, trào lưu văn học, có thể khẳng định rằng thơ hiện đại Việt Nam có dấu ấn của
chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực.
Từ sau năm 1936, bắt đầu là khuynh hướng tượng trưng sau đó là siêu thực
du nhập vào nước ta và từ đó vận động, trải qua nhiều thăng trầm cùng dòng chảy

văn học dân tộc. Phong trào Thơ mới (1932 – 1945) “mở ra một thời đại trong thi
ca” đã minh chứng cho công cuộc canh tân thơ Việt Nam, nỗ lực vận động vượt
thốt ra khỏi loại hình thơ trung đại, phát triển theo tinh thần hiện đại, tiếp thu và
khai mở nhiều khuynh hướng, trào lưu phong phú. Cũng chỉ trong 13 năm Thơ mới
tồn tại, một khoảng thời gian không dài lâu nhưng thơ Việt đã đi qua và hấp thụ cả
100 năm thơ Pháp từ chủ nghĩa lãng mạn đầu thế kỷ XIX với tên tuổi Hugo,
Lamartine, Chateaubriand, Musset, Vigny, đến khuynh hướng tượng trưng với
Rimbaud, Verlaine, Mallarme, Baudelaire, và thậm chí đã chạm vào siêu thực – một
địa hạt độc đáo và huyền bí. Sau Cách mạng tháng Tám, phong trào Thơ mới khép
lại, ở miền Bắc loại hình văn học cách mạng trở thành dịng chảy chủ lưu mạnh mẽ,
1


phù hợp với hồn cảnh thời đại sơi sục đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì thế, khuynh
hướng tượng trưng, siêu thực cũng phai mờ dần trong sáng tác của các tác giả,
nhưng khơng vì thế mà mất đi. Nó vẫn âm thầm biểu hiện như những dòng mạch
riêng, ẩn khuất với những thử nghiệm, khám phá về bút pháp, có khi chìm sâu vào
sáng tạo vơ thức, tâm linh. Ngay từ giai đoạn đầu của thời kì thơ kháng chiến,
những tác giả như Nguyễn Đình Thi, Hồng Cầm, Trần Dần đã thể hiện những tín
hiệu cách tân. Họ khơng chủ định tiếp thu như một kiểu luận thuyết nhưng với bản
chất là những yếu tố cơ bản trong thi pháp thơ nên tượng trưng, siêu thực vẫn hiện
hữu trên những trang thơ của họ. Từ năm 1954, đất nước bị chia cắt đôi miền Nam Bắc, văn học mỗi khu vực thuộc phạm trù văn hóa khác nhau, có những đặc trưng
riêng do ý thức hệ và ảnh hưởng của nhiều tư tưởng. Nếu các tác giả thơ miền Bắc
chủ yếu sáng tạo theo nguyên tắc tư tưởng thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa thì văn học đô thị miền Nam vùng tạm chiếm trong một bối cảnh khá đặc
biệt chịu ảnh hưởng của văn hóa Mĩ và phương Tây nên đã tiếp cận nhiều trào lưu
mang tinh thần khai phóng. Khuynh hướng tượng trưng, siêu thực có điều kiện được
tiếp nối trên mảnh đất này trong thơ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, nhất là hoạt
động của nhóm Sáng Tạo với ý thức làm mới thơ như Thanh Tâm Tuyền, Bùi
Giáng, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Nguyễn Đức Sơn ... Sau năm 1975, miền Nam

được giải phóng, đất nước độc lập thống nhất, văn học hai miền như hai dòng chảy
được hợp lưu, tạo nên diện mạo chung của thơ Việt Nam trong một thời kì mới.
Vượt qua những cách biệt trước đó, hịa vào khơng khí chung của cơng cuộc đổi
mới văn nghệ, từ năm 1986 văn học đất nước mở rộng giao lưu, hội nhập, người
nghệ sỹ được chủ động, tự do khám phá, sáng tạo cũng như tiếp nhận và thể nghiệm
nhiều phương thức sáng tác khác nhau. Tuy nhiên trong thời kì này, thơ chưa đạt
được những thành tựu kết tinh như văn xuôi, nhưng bước đầu đã xuất hiện nhiều
tiếng nói, âm hưởng, giọng điệu phong phú và độc đáo. Nhiều đại diện tiêu biểu
như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng ... nỗ lực cách tân về hình
thức trình bày ngơn từ theo hướng sắp đặt, đề xuất kiểu thơ “dòng chữ” như một
cách phản ứng lại sự mịn cũ trong những diễn ngơn trước đó. Một số gương mặt
2


khác như Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Vi Thùy Linh,
Phan Huyền Thư, Mai Văn Phấn, Trương Đăng Dung, ... say sưa khai thác cái tôi
nội cảm giàu cung bậc, có khi đi vào vùng mờ tâm linh được kết hợp với ngôn ngữ
biểu đạt sắc nhọn và sự tổ chức cấu trúc văn bản. Có thể nói trong một bối cảnh
rộng mở, cùng với tiền đề là chủ nghĩa hiện đại đang có sự bứt phá, thậm chí là có
tính tồn cầu hóa thì khuynh hướng tượng trưng, siêu thực đã in đậm dấu ấn trong
bút pháp, tư tưởng, nguyên tắc sáng tạo của nhiều tác giả.
Những vấn đề mang tính lý luận và văn học sử được đặt ra bao gồm:Ở Việt
Nam có tồn tại chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực trong thơ hiện đại không? Những
điều kiện sinh thành, vận động và phát triển của khuynh hướng nghệ thuật này như
thế nào? Thơ hiện đại Việt Nam tiếp nhận trào lưu nghệ thuật tượng trưng, siêu thực
qua các giai đoạn cụ thể ra sao; sự khác biệt giữa các thời kì văn học đó. Những
nghiên cứu trước đó về khuynh hướng này đã đề cập đến lí thuyết thẩm mĩ và thực
hành sáng tạo, tuy nhiên, sự nghiên cứu một cách hệ thống, giới thuyết về nguyên
tắc sáng tác cũng như những tiêu chí biểu hiện thì đến nay lại chưa tồn diện. Bởi
vậy đứng trước những vấn đề khoa học hấp dẫn đó chúng tôi đã lựa chọn và tập

trung vào “Những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực trong thơ
Việt Nam hiện đại” làm đề tài luận án. Đây là đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với
nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ những biểu hiện đặc trưng cho thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa
tượng trưng, siêu thực đối với thơ Việt Nam hiện đại để chỉ ra vai trị, đóng góp và
hạn chế của khuynh hướng này trong tiến trình thơ Việt Nam. Quá trình tiếp nhận
ấy được phản ánh trên hai bình diện là quan niệm thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tạo,
hay cụ thể hơn là thông qua nhiều cấp độ khác nhau như ý thức nghệ thuật, phương
thức sáng tác, nội dung biểu đạt, bút pháp, yếu tố. Đồng thời người viết cũng hướng
đến so sánh mức độ ảnh hưởng giữa các giai đoạn, khẳng định sự giao lưu, tiếp biến
văn hóa ấy đã đánh thức khả năng sáng tạo vô hạn của người nghệ sĩ, thể hiện bản
3


lĩnh nghệ thuật độc đáo ở họ, góp phần làm nổi bật những giá trị và tầm vóc thơ của
dân tộc Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án có nhiệm vụ:
-Tổng quan vấn đề nghiên cứu nhằm tìm ra những “khoảng trống” để tiếp tục
nghiên cứu.
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản vềchủ nghĩa tượng trưng, siêu thực.
- Mơ tả, lí giải, chứng minh sự tiếp nhận chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực
trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945, thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và sau
1975.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng
trưng và siêu thực thông qua những biểu hiện cụ thể trong thơ hiện đại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thơ Việt Nam hiện đại (từ 1932 đến nay) và chỉ nghiên

cứu những tác giả tiêu biểu, có tính đại diện cao.
4. Đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
-Đầu tiên, luận án nghiên cứu và chỉ ra những biểu hiện cho thấy ảnh hưởng
của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực đến thơ Việt Nam hiện đại qua các giai đoạn:
1932 – 1945, 1945 – 1975, sau 1975, góp phần quan trọng làm rõ diện mạo thơ Việt
Nam trong tiến trình văn học nước nhà, khẳng định vị thế của văn học Việt Nam
trong dòng chảy văn học thế giới.
- Tiếp theo, luận án đã ứng dụng lý thuyết về tượng trưng siêu thực, loại hình
học, lý thuyết nghiên cứu trường hợp để tìm hiểu những hiện tượng điển hình trong
khuynh hướng tượng trưng, siêu thực của văn học Việt Nam.
- Đặc biệt, trong bối cảnh việc nghiên cứu xu hướng về tượng trưng, siêu
thực khơng phải là một lối đi hồn tồn mới, luận án đã tìm ra được những “khoảng
trống” cần bổ sung cho toàn diện hơn và chỉ ra được những biểu hiện cụ thể dưới
góc nhìn so sánh.
4


- Cuối cùng, luận án cũng góp phần trong việc nhận diện và định hình về chủ
nghĩa tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại, cũng như chỉ ra xu thế
vận động, phát triển của khuynh hướng này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp chính sau đây:
-Phương pháp lịch sử - xã hội: đây là phương pháp cơ bản, quan trọng nhất
xuyên suốt toàn bộ luận án. Vận dụng những tính năng của phương pháp này luận
án chỉ ra quá trình hình thành, vận động, tồn tại của khuynh hướng tượng, siêu thực
và những ảnh hưởng của nó với thơ hiện đại Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tâm lí học sáng tạo: giúp chúng ta hình dung
tương đối cụ thể về quá trình lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ với những thao
tác trong trí tưởng tượng, tinh thần, tâm hồn của họ.

- Phương pháp so sánh: được sử dụng để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt
trong tiếp nhậnảnh hưởng của chủ nghĩa tượng, siêu thực ở các giai đoạn văn học
cũng như đối với một số tác giả tiêu biểu.
- Phương pháp loại hình: thao tác chủ đạo cũng là so sánh, tuy nhiên trọng
điểm thiên về nêu lên sự khu biệt để hướng đến định hình, nhận diện về kiểu loại
thơ tượng trưng, siêu thực có những đặc trưng nổi bật như thế nào.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study): nghiên cứu tác phẩm của
các tác giả tiêu biểu để thấy được những nét chính, tổng thể của cả một giai đoạn
văn học.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu văn bản tác phẩm trong mối
quan hệ lịch sử với các lĩnh vực khác có liên quan, đặc biệt là tâm lý học.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng một số phương pháp khác ở mức độ nhất
định như: thống kê, phân tích (thống kê, phân tích các tác phẩm thơ có ảnh hưởng
của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực; thống kê các yếu tố đặc trưng biểu hiện ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực); nghiên cứu tiểu sử (nghiên cứu tiểu sử
của các nhà thơ tiêu biểu cho chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực).
6. Cấu trúc của luận án
5


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc
thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Yếu tố tượng trưng, siêu thực trong phong trào Thơ mới nhìn từ
góc độ bối cảnh tiếp nhận văn hóa phương Tây đầu thế kỉ XX
Chương 3. Yếu tố tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam giai đoạn 1945
– 1975 và nhu cầu cách tân, hiện đại hóa thơ
Chương 4. Yếu tố tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam sau 1975 thực
hành sáng tạo trong thế giới đa trị


6


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực
1.1.1. Chủ nghĩa tượng trưng
Luận giải về chủ nghĩa tượng trưng, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Tuy nhiên, dù xuất phát từ cách tiếp cận nào thì những nội dung chính được
các nhà nghiên cứu quan tâm đến cũng tập trung vào khái niệm “tượng trưng”, sự ra
đời của chủ nghĩa tượng trưng và cơ sở triết học của chủ nghĩa tượng trưng.
Từ điển Cambridge định nghĩa “symbol” (tượng trưng) nghĩa là: 1/ Một vật,
biểu tượng hoặc đối tượng được dùng để đại diện cho một điều nào đó, ví dụ: trái
tim là tượng trưng cho tình yêu; 2/Một vật được sử dụng để biểu thị cho chất lượng
hoặc ý tưởng, ví dụ: nước, biểu tượng của sự sống; 3/Con số, bức thư, ký hiệu được
sử dụng trong tốn học, âm nhạc, khoa học,… ví dụ: Kí hiệu của Oxy là O; 4/Một
vật có thể được mơ tả như biểu tượng của một vật khác nếu nó được xem như là đại
diện bởi vì nó kết nối rất nhiều ý tưởng của mọi người với nhau. Qua định nghĩa
trên ta có thể thấy rằng “tượng trưng” và “biểu tượng” là hai khái niệm rất gần gũi.
Khi chuyển dịch khái niệm “symbol” sang tiếng Việt, thuật ngữ này được dùng với
cả nghĩa “tượng trưng” và “biểu tượng”.
Từ điển tiếng Việtcủa Hoàng Phê chủ biên, định nghĩa tượng trưng là:
“1/dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất thích hợp để gợi ra sự liên
tưởng đến một cái trừu tượng nào đó, ví dụ: Chim bồ câu tượng trưng cho hịa bình;
2/ sự vật cụ thể được dùng để tượng trưng cho một cái trừu tượng nào đó, ví dụ:
Xiềng xích là tượng trưng cho nơ lệ” [102, tr.1082].
Theo Hegel, tượng trưng được hiểu như một kiểu tư duy nghệ thuật và đã
xuất hiện từ rất lâu: “là một sự vật bên ngoài, một dấu hiệu trực tiếp nói thẳng với
trực giác chúng ta: tuy sự vật này không phải được lựa chọn và được chấp nhận như
nó tồn tại trong thực tế vì bản thân nó. Trái lại, nó được chấp nhận với một ý nghĩa

rộng lớn và khái quát hơn nhiều. Do đó, phải phân biệt ở trong tượng trưng hai yếu
tố: ý nghĩa và biểu hiện. Ý nghĩa là sự gắn liền với một biểu hiện hay một sự vật dù
7


cho nội dung của biểu hiện này hay của sự vật này là cái gì. Cịn sự biểu hiện là một
tồn tại cảm quan hay một hình ảnh nào đó” [53, tr.496-497]. Cách định nghĩa này
xem xét khái niệm tượng trưng trong phạm trù nghệ thuật, trong đó bao gồm cả văn
học nghệ thuật.
Theo Chu Quang Tiềm, tượng trưng là: “dùng những sự vật cụ thể để diễn tả
những gì mang tính chất trừu tượng. Mỹ cảm phát sinh ở chỗ trực giác được hình
tượng, cho nên tác phẩm văn nghệ là sự biểu hiện những ý tưởng cụ thể, nó trực tiếp
lay động sự xúc cảm của giác quan” [137, tr.24].
Khi nhắc đến khái niệm tượng trưng, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến
khái niệm “biểu tượng” vì trong nhiều trường hợp, hai khái niệm này được đồng
nhất với nhau. Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ
học, lí luận văn học và ngơn ngữ học cịn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng
và nghĩa hẹp” [49, tr. 24]. Theo chúng tơi, hai khái niệm này có điểm thống nhất vì
mọi biểu tượng đều có tính tượng trưng nhất định. Tuy nhiên, trong mỗi biểu tượng
ngồi tính tượng trưng nó cịn có những ý nghĩa khác. Đồng thời, mỗi hình ảnh
tượng trưng cũng mang trong nó những thơng điệp khác nhau. Chính vì thế, khơng
thể đồng nhất tượng trưng và biểu tượng.
Trong luận án này, tượng trưng được hiểu với nội hàm là một phương diện
đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, nó trở thành phương thức khái quát đời sống,
nghiêng về tính chất ổn định và đa nghĩa. Tượng trưng phải xuất phát từ một hình
tượng nghệ thuật nhất định, từ đó mở ra nhiều liên tưởng phong phú, có khả năng
khám phá hiện thực và nâng tầm hình tượng ở mức độ ngưng kết ý nghĩa.
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật ra đời vào những năm 5060 của thế kỷ XIX tại Pháp, sau đó lan dần sang châu Âu, Nga, Mỹ nửa cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX mở rộng dần ra các châu lục, đến cả các nền văn học châu Á
như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Từ văn học, trào lưu này còn lan sang hội

họa, để chỉ những tác phẩm hội họa tạo ra cảm xúc cho người đọc bằng cách tạo ra
những cảnh tượng trong tranh thần bí như mơ bằng cách sử dụng những vệt màu
khác nhau. Sau đó, chủ nghĩa tượng trưng cịn ảnh hưởng tới cả các lĩnh vực khác,
8


trong đó có điện ảnh.
Baudelaire là người có cơng tiên báo cho sự ra đời chủ nghĩa tượng trưng với
bài thơ Correspondacnes(Những tương ứng) vào năm 1855 nhưng đến ngày
18/9/1886 khi Jean Moréas đăng bài Un manifeste littéraire(Tuyên ngôn văn
học)thể hiện thái độ khước từ chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tự nhiên, công bố sự
ra đời trường phái mới – chủ nghĩa tượng trưng trên báo Le Figaromới đánh dấu sự
ra đời của trào lưu này. Jean Moréas đã phân tích q trình vận động của các thể
loại để cho thấy sức chống chịu mòn mỏi của chủ nghĩa lãng mạn sau thời hoàng
kim vào thế kỷ XIX, mất đi sức mạnh và sự hấp dẫn khi chủ nghĩa tự nhiên ra đời,
sau đó chủ nghĩa tự nhiên lại không trụ vững trước những lời phê phán nghiệt ngã
của các nhà thơ tượng trưng. Thậm chí, các tác phẩm của Zola – tác giả được xem
như hiện thân của chủ nghĩa tự nhiên, bị xem là “nghệ thuật nấu nướng”, khơng có
ý tưởng và biểu tượng. Với chủ nghĩa tượng trưng, những bức tranh về thiên nhiên,
con người được hình tượng hóa một cách huyền bí như Jean Moréas khẳng định:
“Điều căn bản mà chủ nghĩa tượng trưng mang đến là khơng bao giờ ám chỉ điều gì
như một khái niệm tuyệt đối” [147].Quan niệm thẩm mỹ của chủ nghĩa tượng trưng
dựa trên tư tưởng triết mỹ của Emmanuel Kant, Athur Schopenhauer, thuyết thần
cảm của Đức, quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của Théophile Gautier và phái
“thuần văn học” của Edgar Allan Poe. Jean Moréas đưa ra bảy nguyên tắc hoạt
động của thơ tượng trưng là: biểu trưng cho sự vật tự nó và các ý niệm nằm ngồi
giới hạn của sự tri giác cảm tính; vươn tới bản chất lý tưởng siêu thời gian của thế
giới; thể hiện vẻ đẹp siêu nghiệm; bác bỏ lý tưởng thẩm mỹ: nghệ thuật vị nghệ
thuật; phản ứng lại phái Thi Sơn, phái thơ chú trọng đến việc mô phỏng hiện thực;
gợi ra những sắc thái tế nhị của cảm giác và tâm hồn; mơ ước đạt được cái thực tại

ở bên ngoài những hiện tượng biểu kiến của cuộc đời, vũ trụ. Nối tiếp nguồn thơ
Baudelaire có một thế hệ đông đảo các nhà tài năng như Stéphane Mallarmé (1842
– 1898), Paul Verlaine (1844 – 1896), Arthur Rimbaud (1855 – 1891), Henri de
Réginier (1864 -1936), Paul Valéry (1871 -1945) ... khai thác, phát triển, bổ sung
thành một khuynh hướng nghệ thuật chủ đạo của thơ Pháp và châu Âu.
Sau bản tuyên ngôn này, thuật ngữ “chủ nghĩa tượng trưng” được đưa vào sử
9


dụng. Ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX, một số nhà thơ Mĩ tiêu biểu (như: Emerson,
Melville Hawthome, đặc biệt là Edgar Allan Poe) đã có ý thức sử dụng yếu tố tượng
trưng như một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu. Kể từ khi chủ nghĩa tượng trưng ra
đời, nhiều cơng trình nghiên cứu đã tìm hiểu về sự ra đời, cơ sở triết học, quan niệm
nghệ thuật cũng như nguyên tắc sáng tác của trào lưu văn học này.
Cuốn Maeterlinck et le symbolisme (Maeterlinck và chủ nghĩa tượng trưng) của
Marcel Postic, xuất bản năm 1970, đại học Michigan, đã nghiên cứu và chỉ ra những
đóng góp của Maeterlinck với chủ nghĩa tượng trưng. Đây là một trong những gương
mặt tiêu biểu góp phần quan trọng vào sự phát triển của chủ nghĩa tượng trưng.
Cuốn Le Symbolisme Art of Century (Chủ nghĩa tượng trưng – Nghệ thuật của
thế kỷ) của Nathalia Brodskaya, Nxb Parkstone International, xuất bản năm 2012 đã
tổng hợp điểm nổi bật về chủ nghĩa tượng trưng trong các thời kỳ cũng như các tác
phẩm nổi bật của chủ nghĩa tượng trưng trong văn học, thơ ca và nghệ thuật.
Ngồi ra, có thể kể đến một số cơng trình khác như: Cuốn Maurice
Maeterlinck: le symbolisme de la différence (Maurice Maeterlinck: chủ nghĩa siêu
thực của sự khác biệt) của Paul Gorceix, Đại học Wisconsin – Madison, 2000; Bài
viết Le symbolisme de la difference (Biểu tượng của sự khác biệt) của Paul Gorceix
xuất bản năm 1997, cuốn Qu'est-ce que le symbolisme? (Chủ nghĩa siêu thực là gì?)
của Marcel Postic, ĐH Michigan, 2007…
Tóm lại, có thể thấy rằng về cơ bản, các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa
tượng trưng thống nhất về nội hàm khái niệm tượng trưng, cơ sở triết học, quan

điểm cũng như nguyên tắc hoạt động của trường phái này. Đây là một điểm thuận
lợi cho chúng tôi trong khi đi đến thống nhất về mặt khái niệm để làm cơ sở lý luận
cho đề tài.
Các công trình nghiên cứu chuyên biệt về chủ nghĩa tượng trưng khá phong
phú, tuy nhiên, trong các cơng trình nghiên cứu tổng hợp hoặc điển hình về các tác
giả của chủ nghĩa tượng trưng đều có đề cập đến những đặc điểm của trường phái
này ở những mức độ khác nhau.

10


1.1.2. Chủ nghĩa siêu thực
Trong giới nghiên cứu từ trước đến nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau
về chủ nghĩa siêu thực (surréalism). Đây là một trào lưu văn học xuất hiện vào
những năm 20 của thế kỷ XX tại Pháp. Guillaume Apollinaire được coi là người
đầu tiên dùng thuật ngữ “chủ nghĩa siêu thực” vào năm 1917. Ngay trong
Calligrammes(Thơ hình vẽ) sáng tác năm 1918, ơng đã báo hiệu cho siêu thực bằng
một “cái tên mới” với nội hàm về một bề sâu thẳm của ý thức để có thể “Nhìn thật
kĩ ở xa/Nhìn tất cả/Từ gần”. Tuy nhiên, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân
nhận định Apollonaire “chỉ là người mở đầu cho nền “thơ mới” nói chung và báo
hiệu cho thơ siêu thực Pháp nói riêng nhưng ông không phải là nhà thơ siêu thực
thực sự” [22- tr.117].
Năm 1924, André Breton công bố Tuyên ngôn chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa
siêu thực được định nghĩa là: “hành vi tâm lý vô thức thuần túy, mà thơng qua nó bạn
dự định biểu lộ - hoặc là bằng lời, hoặc là bằng chữ viết, hoặc là bằng bất cứ cách nào
khác – sự vận hành thực tế của tư duy; sự xui khiến của tư duy, không có bất cứ một
cách thức nào” [22- tr.117]. André Breton đã coi Piere Reverdy là người đã đặt ra tiêu
chí về hình ảnh trong thơ siêu thực. Theo luận điểm của Piere Reverdy thì hình ảnh
xuất hiện bắt nguồn từ sự xích lại gần nhau hay thu hẹp khoảng cách của những hiện
thực cách xa nhau. Những thủ pháp được các nhà siêu thực dùng thường là: cái nghịch

lý, sự bất ngờ, thống nhất giữa những cái không thể thống nhất được, sự tương
tự…Những thủ pháp đó làm cho tác phẩm của họ mang tính huyền ảo, phi lý, tạo ra nét
độc đáo riêng biệt. Theo Breton, cơ sở phương pháp sáng tạo của chủ nghĩa siêu thực là
sự tác động thuần túy nhằm mục đích thể hiện bằng lời nói, hoặc chữ viết, hoặc bằng
bất kỳ phương tiện nào khác hoạt động hiện thực của tư tưởng. Các tư tưởng được tự
do bộc lộ, không phải chịu kỳ một sự kiểm sốt nào của lý trí hay của những thành kiến
đạo đức và thẩm mỹ. Theo đó, chủ nghĩa siêu thực tơn trọng tính tự do của thơ ca, có
thể khơng cần dấu câu, trật tự cú pháp, đề cao sự liên tưởng cá nhân. Năm 1924 cũng là
năm tạp chíLa Révolution surréaliste (Cách mạng siêu thực) ra đời như một dấu mốc
cho sự hình thành của trường phái siêu thực. Cũng như tượng trưng, siêu thực có ảnh
hưởng đến cả hội họa.
11


Năm 1971, trong Le surrélisme (Chủ nghĩa siêu thực), Armand Colin, tr.4,
Robert Bréton, đã định nghĩa: “Chủ nghĩa siêu thực là một cuộc cách mạng văn hóa,
bởi vì nó đã đề xuất với chúng ta sự đảo lộn các ý tưởng, hình ảnh, huyền thoại, thói
quen thuộc về tinh thần đã quyết định cả nhận thức của chúng ta hiện tại về thế giới
và sự dấn thân của bản thân mỗi người vào thế giới đó” [152 – tr 4]. Theo đó, tác
giả cũng phân hình ảnh ra 3 cấp độ xây dựng hình ảnh cơ bản của chủ nghĩa siêu
thực, đó là: dựa trên từ “như” so sánh, A như B, trong đó vế B có tính siêu thực,
nhằm gây sửng sốt cho người đọc; đặt A và B cạnh nhau, không dùng liên từ “như”
hoặc tương đương gọi là so sánh cụt (comparasion tronquée); sử dụng ẩn dụ cụt
(métaphore tronquée) và là loại kết hợp hình ảnh phức tạp nhất của siêu thực.
Cuốn Surréalisme et littérature: une comparaison entre le surrộalisme grec
et franỗais (Ch ngha siờu thc v văn học: một so sánh giữa chủ nghĩa siêu thực
Hy Lạp và Pháp) của Efthymia Rentzou, xuất bản năm 2002 đã nghiên cứu và chỉ ra
những điểm tương đồng khác biệt giữa chủ nghĩa siêu thực trong văn học Hy Lạp
và văn học Pháp.
Trong cuốn Les surréalistes (Những tác giả chủ nghĩa siêu thực) của Anne

Egger, Nxb Le Cavalier Bleu, 2003, từ ý tưởng về việc phần lớn chủ nghĩa siêu thực
đã bị đóng băng trong phong trào khối (mouvement monolithique), Egger đã cố
gắng chỉ ra sự đa dạng về phong cách và kỹ thuật trong phương thức biểu đạt siêu
thực và chủ nghĩa triết chung (eclectisme) của các nghệ sỹ đương đại. Hai yếu tố tạo
nên thành công cho thơ siêu thực là viết tự động và hình ảnh. Theo J.Vaché thì hình
ảnh là “những va đập chói lịa của từ ngữ”. Hình ảnh trong thơ siêu thực thường
mang tính mộng mị, chiêm bao (onirique), lạ và bất ngờ.
Trong bài Le surréalisme (siêu thực) viết năm 2012, trên website
tác giả định nghĩa chủ nghĩa siêu thực là: “khái
niệm bắt nguồn từ tiếng Pháp. Đây là một phong trào văn học nghệ thuật. Nền tảng
triết học của chủ nghĩa siêu thực dựa trên trực giác của H. Bergson, thuyết phân tâm
học của S.Freud và thuyết tương đối của A.Einstein.
Cuốn Chủ nghĩa siêu thực Pháp thế kỷ XX: nghiên cứu – tuyển – dịch của
12


Đơng Hồi, Nxb Văn học, năm 1994 đã nghiên cứu và dịch một số bài thơ siêu thực
Pháp trong thế kỷ XX và thơ Việt có yếu tố siêu thực. Trong đó, tác giả có đề cập
đơi nét về cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân.
Trong bài giới thiệu cho chuyên đề Chủ nghĩa siêu thực đăng trên Tạp chí văn
học nước ngồi, số 5, tháng 9-10/2004, sau này được trích đăng trên
với tựa đề André Breton và chủ nghĩa siêu thực, Đỗ Lai Thúy đã tóm tắt
lại lại q trình hình thành, cơ sở sáng tạo của chủ nghĩa siêu thực cũng như mối quan hệ
giữa chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa tượng trưng. Theo đó, mục đích cao nhất của chủ
nghĩa siêu thực là kêu gọi giải phóng cái tơi khỏi những “gơng cùm” của lo-gic, lí trí, đạo
đức và mỹ học truyền thống. Trong sáng tác, hiện thực cần được tái tạo một cách chân
thực nhất – đó là hiện thực tuyệt đối. Đỗ Lai Thúy cũng bày tỏ mong muốn: “Tuy khơng
cịn tồn tại nữa, nhưng chủ nghĩa siêu thực là một chặng đường tự nhận thức quan trọng
của văn học với những bài học lịch sử quý giá của nó. Hơn nữa, siêu thực không tồn tại
như một chủ nghĩa nhưng văn học hiện đại khơng thể thiếu nó với tư cách là những yếu

tố”

[ />
thuc-1974175.html].
Ngồi ra, có thể kể đến một số cơng trình khác như: cuốn Littérature
malgré elle: le surréalisme et la transformation du littéraire: la France, la
Grèce, confrontations (Văn học và tấm gương tư phản chiếu: chủ nghĩa siêu
thực và sự chuyển đổi văn học Pháp, Hy Lạp và những đối đầu) của Effthymia
Rentzou, NXB Association des amis de Pleine marge, 2002; Nguyễn Văn Dân
(2013), Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật; Lã Nguyên (2016), Sự
tiếp nhận các lý thuyết văn học hiện đại phương Tây từ 1986 đến
nay />Như vậy, có thể thấy cũng như khi bàn về chủ nghĩa tượng trưng, các cơng
trình nghiên cứu về chủ nghĩa siêu thực đều thống nhất về nội hàm khái niệm cũng
như nguyên tắc sáng tác, quan niệm của trường phái này. Trong các cơng trình
13


nghiên cứu, mối quan hệ giữa tượng trưng và siêu thực là vấn đề nhiều tác giả đề
cập đến. Điều đó rất hữu ích cho chúng tơi trong khi tìm hiểu tổng hợp sự tác động
các yếu tố tượng trưng, siêu thực của hai trường phái này đến sáng tác của các nhà
thơ Việt Nam hiện đại.
1.2. Nghiên cứu về chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực trong thơ hiện đại
Việt Nam
Ở Việt Nam khơng có chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực nhưng những ảnh
hưởng của yếu tố tượng trưng, siêu thực đến thơ hiện đại Việt Nam là không thể
phủ nhận. Trong tiến trình thơ Việt Nam, ảnh hưởng của tượng trưng, siêu thực đến
tư tưởng sáng tác, quan niệm nghệ thuật, bút pháp nghệ thuật của các nhà văn ở mỗi
thời điểm không giống nhau. Những ảnh hưởng này đã được nghiên cứu dưới hình
thức những cơng trình nghiên cứu riêng rẽ hoặc tích hợp trong các cơng trình
nghiên cứu chung trong các sách, báo, tạp chí. Qua tìm hiểu các cơng trình nghiên

cứu về ảnh hưởng của tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại, chúng tơi
nhận thấy, các cơng trình tập trung vào các xu hướng chính: nghiên cứu về ảnh
hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực đến tư tưởng sáng tác của các nhà thơ
Việt Nam hiện đại; nghiên cứu về ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực
đến bút pháp sáng tác của các nhà thơ Việt Nam hiện đại.
1.2.1. Hướng nghiên cứu về những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng,
siêu thực trong tư tưởng sáng tác của các tác giả thơ Việt Nam hiện đại
Những cách tân về nội dung và nghệ thuật của một thi phẩm bao giờ cũng
bắt nguồn từ những sự thay đổi nhỏ nhất trong tư tưởng sáng tác. Bộ phận thơ ca
ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng trong tiến trình phát triển của văn
học Việt Nam cũng không ngoại lệ. Những tác động của chủ nghĩa tượng trưng,
siêu thực đến vào đúng thời điểm các thi nhân Việt Nam đang tìm lối đi để thoát
khỏi thực tiễn ảm đạm, buồn chán và nhiễu nhương, khi chủ nghĩa lãng mạn đã đến
giai đoạn khơng đáp ứng được mộng chí thơ ca của các nhà thơ. Có lẽ vì thế, các
nhà thơ trong phong trào Thơ mới những năm 1932 đã chịu ảnh hưởng của tượng
trưng, siêu thực một cách rất tự nhiên, dựa trên cái gốc của chủ nghĩa lãng mạn để
14


đưa thơ ca đến những sự đổi mới đáng ghi nhận. Điều mà các nhà thơ Việt Nam tiếp
thu được ở chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực nằm ở những khía cạnh chính là: tiếp
thu tư tưởng chủ động, khước từ chú giải, phân tích; phát huy trực giác kiến tạo thi
giới; và giải thốt bế tắc. Một số cơng trình tiêu biểu có thể kể đến như:
Năm 1956, trong bài Đuổi bắt ảo ảnh, Nguyễn Hiến Lê đã đề cập đến văn
học siêu thực Pháp trong đối sánh với văn học phương Đơng nói chung và văn học
Việt Nam nói riêng. Tác giả bài viết đã phân tích những điểm giao thoa giữa quan
niệm của trường phái tượng trưng với quan niệm phương Đông, sự tiếp nhận và tạo
ra tính nhạc trong thơ của các nhà thơ Việt Nam. Theo ông, Xuân Diệu là tác giả
duy nhất trong giai đoạn Thơ mới áp dụng kỹ thuật tượng trưng và chỉ trong bài
Nguyệt cầm.

Năm 1962, trong cuốn Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam, nhà sách
Khai Trí, Sài Gịn, Minh Huy đã nhận định về ảnh hưởng của khuynh hướng tượng
trưng đến các nhà thơ Việt Nam trong giai đoạn tiền chiến và hậu chiến ở những
mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo đó, Đồn Phú Tứ được đánh giá là tác giả mang
nhiều dấu vết của khuynh hướng tượng trưng nhất, Lưu Trọng Lưu được nhắc đến
với bài thơ mang nhiều dấu ấn tượng trưng nhất, Hàn Mặc Tử và Bích Khê được
xem là hai “nhà lý thuyết” của khuynh hướng tượng trưng.
Năm 2008, luận án tiến sĩ văn học của Đặng Thị Ngọc Phượng Ý thức tự do
trong phong trào Thơ mới bảo vệ tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
đã nghiên cứu về ý thức tự do được xem như một tiền đề hình thành Thơ mới, ý
thức tự do và sự đổi mới nội dung trong phong trào Thơ mới và ý thức tự do với sự
đổi mới các hình thức hiện đại của Thơ mới. Tác giả khẳng định rằng, quá trình
phát triển của Thơ mới bao gồm cả khuynh hướng “lãng mạn, tượng trưng, siêu
thực, ở mỗi khuynh hướng lại có những nhánh rẽ” [107 - tr.40] và nhấn mạnh trong
những trường phái chịu ảnh hưởng thì: “Thơ mới đặc biệt chịu ảnh hưởng sâu sắc
của thuyết tương giao, tương hợp của thơ tượng trưng Pháp mà tiêu biểu là ảnh
hưởng của Baudelaire – người đã mở đường cho dòng thơ tượng trưng Pháp và các
dòng thơ hiện đại khác” [107 - tr.59]. Theo tác giả, Thơ mới đã có những cảm nhận
15


tinh vi và huyền nhiệm của các thi phái tượng trưng, siêu thực phương Tây mà chủ
yếu là ảnh hưởng của tượng trưng Pháp. Chính vì dung chứa mỹ học của chủ nghĩa
lãng mạn và chịu ảnh hưởng của mỹ học tượng trưng, siêu thực nên diễn ngôn của
Thơ mới thể hiện sâu sắc tinh thần của thời đại mới. Đó cũng chính là những thành
tựu mà Thơ mới tạo ra từ sự thay đổi trong tư tưởng sáng tác.
Cuốn Những kỷ niệm tưởng tượng, tác phẩm và dư luậncủa Nguyễn Thanh
Tâm, Vũ Thị Thu Hà sưu tầm và tổ chức bản thảo, Nxb Văn học, 2011 đã tập hợp
bài viết nhận xét, đánh giá về tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng
Dung. Trong đó, các bài như: Thời gian và thân phận người trong thơ Trương Đăng

Dung của Nguyễn Đăng Điệp, Đọc liên văn bản Trương Đăng Dung quaNhững kỷ
niệm tưởng tượng của Nguyễn Hữu Sơn, Trương Đăng Dung, thơ như là một thỏa
thuận ý nghĩa của Inrasara, Những kỷ niệm tưởng tượng– thế giới của phi lý của
Hoàng Thụy Anh… đều nhấn mạnh tư tưởng trong sáng tác của nhà thơ: những
mâu thuẫn, phi lý của trò chơi, phi lý về thời gian trong tư tưởng, hư vô kết hợp với
nhãn tiền, ám ảnh thời gian… trong thơ của Trương Đăng Dung. Hoàng Thụy Anh
khẳng định rằng trong thơ của Trương Đăng Dung là một thế giới ngổn ngang, đầy
những giới hạn, trống rỗng và xác xơ. Và thế giới ấy được nhà thơ “giải phẫu” bằng
tư duy của một nhà thơ siêu thực, mang đầy sự trái ngược, vơ lý.
Ngồi ra, có thể kể đến một số cơng trình khác như: chun luận Văn hóa
Việt Nam, nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Thơng tin, 2005; cuốn Bút pháp của
ham muốn, Nxb Trí thức, 2009 của Đỗ Lai Thúy; Nguyễn Quốc Túy (1995), Thơ
mới – bình minh thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội; Phan Cự Đệ (2007),
Về một cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb Giáo dục; Lê Đình Kỵ (1998), Thơ mới,
những bước thăng trầm, Nxb Tp Hồ Chí Minh…
Như vậy, có thể thấy rằng các cơng trình nghiên cứu đều chỉ ra ảnh hưởng về
tư tưởng tượng trưng, siêu thực đến phong trào Thơ mới, bộ phận thơ theo xu
hướng hiện đại chủ nghĩa, thơ tự do với những tìm tịi mang tính siêu thực. Nhiều
tác giả nhấn mạnh những ảnh hưởng của tượng trưng, siêu thực đến tư tưởng của
các nhà thơ hiện đại Việt Nam thể hiện ở sự thay đổi tư duy hệ hình từ cái ta trong
16


không gian vũ trụ chuyển sang cái tôi bản thể, hướng đến tính nhạc trong thơ.
1.2.2. Hướng nghiên cứu về những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng,
siêu thực trong bút pháp nghệ thuật của các tác giả thơ Việt Nam hiện đại
Từ những sự thay đổi căn bản trong tư tưởng sáng tác, các nhà thơ hiện đại
chuyển tải nội dung qua bút pháp nghệ thuật của thơ. Sự thay đổi bút pháp nghệ
thuật thể hiện ở biểu tượng thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngơn ngữ, thể thơ và những yếu tố
khác. Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong hướng nghiên cứu này có thể kể

đến là:
Chuyên luận Phong trào Thơ mới của Phan Cự Đệ, xuất bản năm 1966, Nxb
Khoa học đã trình bày những ảnh hưởng lớn của các nhà thơ Pháp đến tư tưởng của
các nhà Thơ mới Việt Nam. Trong cuốn sách này, những đánh giá của tác giả nặng
về phê phán. Tuy vậy, ơng cũng chỉ ra những đóng góp cơ bản của Thơ mới trên
phương diện ngôn từ, với việc sử dụng các hình tượng, giàu cảm xúc làm giàu cho
ngơn ngữ văn học dân tộc.
Tiếp cận từ giọng điệu thơ như một thủ pháp đặc biệt, trong tiểu luận Vọng
từ con chữ, Nxb Hội Nhà văn, 2003, Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra giọng điệu buồn
thương ta thán” là giọng điệu chủ đạo trong Thơ mới. Theo đó, ơng khẳng định:
“giọng điệu Thơ mới có nhiều tiếng vọng: âm hưởng lãng mạn không loại trừ âm
hưởng tượng trưng và siêu thực, yếu tố phương Tây không loại trừ ảnh hưởng
Đường thi và thơ ca truyền thống” [38 - tr.49]. Rõ ràng, từ góc tiếp cận mới mẻ,
Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra được đóng góp về mặt bút pháp của Thơ mới khi tiếp
thu những tinh hoa văn học tượng trưng, siêu thực nhưng vẫn khơng làm mất đi
hồn tồn nét đẹp của văn học truyền thống. Tác giả cũng khẳng định mức độ ảnh
hưởng của tượng trưng, siêu thực trong Thơ mới chỉ dừng lại ở “cấp yếu tố”, điểm
căn bản của thơ giai đoạn này vẫn là lãng mạn.
Luận án Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng, siêu thực trong
Thơ mới Việt Nam 1932-1945 của Nguyễn Hữu Hiếu, bảo vệ năm 2004 tại Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc Gia TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu
những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong thơ mới, tác dụng của khuynh
17


hướng tượng trưng mang đến cho thi ca những đặc trưng thẩm mỹ và thi học mới lạ.
Tác giả chỉ ra ba nguyên nhân chính đưa thơ tượng trưng đến với văn đàn Việt Nam
là: nhu cầu đổi mới tự thân của văn học, mức độ gần gũi trong ý thức về thân phận
giữa các nhà Thơ mới Việt Nam và các nhà thơ thuộc khuynh hướng tượng trưng
Pháp và mức độ phù hợp giữa kinh nghiệm văn hóa của chủ thể và đặc tính của đối

tượng tiếp nhận. Nguyễn Hữu Hiếu khẳng định rằng với những nguyên nhân đó, sự
du nhập của khuynh hướng tượng trưng vào Thơ mới Việt Nam là tất yếu. Từ đó,
ơng chỉ ra hai khía cạnh biểu hiện của tượng trưng, siêu thực trong Thơ mới Việt
Nam là quan niệm nghệ thuật và phương thức biểu đạt. Ở khía cạnh thứ nhất, tác giả
phân tích sự tồn tại rõ ràng của khuynh hướng tượng trưng trong quan niệm nghệ
thuật của các nhà Thơ mới với xu hướng chủ thể hóa và khách thể hóa, chủ động
khám phá cái tơi bản thể của mình. Ở khía cạnh thứ hai, tác giả phân tích rõ khuynh
hướng tư duy tương hợp và liên tưởng bất ngờ, thơ biểu đạt và gợi cảm… Đây là
cơng trình cung cấp cho chúng tơi những gợi ý hữu ích để triển khai luận án khi
nghiên cứu những ảnh hưởng của tượng trưng, siêu thực đến Thơ mới 1932-1945.
Trong cuốn Bút pháp của ham muốn, Nxb Tri thức (2009), từ góc nhìn phân
tâm học văn học nghệ thuật, Đỗ Lai Thúy đã giới thiệu về bút pháp của sự ham
muốn. Trong đó, tác giả nghiên cứu về thế giới nghệ thuật của các thi sĩ chịu sự ảnh
hưởng của phân tâm học, bao gồm một số tác giả chịu ảnh hưởng của tượng trưng
siêu thực trong bút pháp như: Xuân Diệu, Hoàng Cầm, Chế Lan Viên.
Trong bài Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh in trong Những kỷ niệm tưởng
tượng, tác phẩm và dư luận, Đỗ Quyên đã chỉ ra những thủ pháp nghệ thuật trong
thơ Trương Đăng Dung với các thủ pháp: thủ pháp áp đặt, thủ pháp phi lý, thủ pháp
thành phần phụ, thủ pháp kết hợp Đông – Tây và thủ pháp điểm rơi của bài thơ.
Trong đó, phi lý là một trong những thủ pháp mang đậm phong cách của chủ nghĩa
siêu thực. Các hình ảnh được sử dụng trong phi lý về không gian địa lý “được khỏa
lấp bằng hình ảnh siêu thực, phi thực hay cực thực, tạo bất an cho người đọc ngay
từ đầu” [122 - tr.143]. Phi lý về ngữ nghĩa thể hiện qua các hình tượng siêu thực,
phi thực hoặc cực thực. Tính siêu thực trong nghệ thuật thơ Trương Đăng Dung
18


được thể hiện qua hình ảnh siêu thực, lạ, tính phi lý trong cách xây dựng thời gian,
không gian, ngữ nghĩa.
Luận án Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại của Hồ Văn

Quốc, bảo vệ tại Đại học Huế năm 2016 nghiên cứu về thơ tượng trưng như một chi
lưu trong thơ Việt Nam hiện đại, đi sâu phân tích thơ tượng trưng Việt Nam nhìn từ
quan niệm về nghệ thuật thơ và thế giới con người, biểu tượng, ngôn ngữ và nhạc
điệu. Trong luận án này, Hồ Văn Quốc đã luận giải được khá cẩn thận về vấn đề âm
nhạc, tính biểu tượng và ngơn ngữ trong ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đến
thơ Việt Nam. Tác giả cũng khẳng định rằng, tượng trưng là khuynh hướng thơ tồn
tại từ phong trào Thơ mới của Việt Nam cho đến thơ đương đại, theo đó việc tiếp
nhận ở mỗi giai đoạn khác nhau và mang đến những luồng sinh khí mới cho thơ ca
Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra ra ảnh hưởng của khuynh hướng tượng trưng
trong thơ hiện đại Việt Nam. Luận án này đã làm rõ được những đặc trưng thi học
tượng trưng, thể hiện trong quan niệm nghệ thuật về thơ, thế giới và con người. Đặc
biệt, Hồ Văn Quốc đã nghiên cứu cách sử dụng biểu tượng cũng như ý thức khai
thác sức mạnh vi diệu của âm nhạc và ngôn ngữ ở các nhà thơ hiện đại dưới ảnh
hưởng của khuynh hướng tượng trưng.
Trong bài Chất tượng trưng trong ngôn ngữ thơ Việt Nam sau 1975 đăng
trên

/>
nam-sau-1975-110283.html, Bùi Việt Phương đã chỉ ra rằng, siêu thực, tượng trưng
và tân hình thức là 3 trường phái có ảnh hưởng lớn đến thơ Việt Nam sau 1975.
Trong đó, Bùi Giáng là đại diện tiêu biểu trong việc mượn chất liệu thơ truyền
thống để thể hiện tính siêu thực. Về sau, trong thơ của những nhà thơ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mỹ như Y Phương, Thanh Thảo…cho đến thơ của các nhà
thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến, Vi Thùy Linh ảnh hưởng ít nhiều màu sắc tượng
trưng. Nổi bật nhất về mặt bút pháp là các nhà thơ sử dụng những biểu tượng đa
nghĩa, được xây dựng dựa trên sự liên thông về ý nghĩa với nhau. Tính tượng trưng
thể hiện ở mã ngôn ngữ và cú pháp thơ. Tạo ra mã ngôn ngữ riêng là một trong
những thành công lớn của các nhà thơ sau 1975, đòi hỏi độc giả phải tự tìm ra lời
19



×